Tải bản đầy đủ (.pdf) (356 trang)

Cơ sở khoa học xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số ở việt nam đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 356 trang )


ñy ban d©n téc
***








BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI

CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020






Cơ quan quản lý : Ủy ban Dân tộc
Đơn vị thực hiện : Viện Dân tộc
Chủ nhiện : PGS.TS Khổng Diễn
Phó Chủ nhiệm : TS. Phan Văn Hùng








8625


Hà Nội, tháng 12 năm 2010




1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
PHẦN MỘT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN,
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 9
1. Khái niệm, nội dung và các loại hình chiến lược phát triển 9
1. 1. Khái niệm về chiến lược phát triển 9
1.2. Nội dung của chiến lược phát triển 12
1.3. Một số loại hình chiến lượ
c phát triển 15
1.4. Vai trò của chiến lược phát triển 19
2. Khái niệm, tính chất cơ bản của Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số 20
2.1 Quan điểm của Lênin và Hồ Chí Minh về chiến lược phát triển các dân tộc 20
2.2. Khái niệm về Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số 22
2.3. Tính chất cơ bản cuả Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số 23
3. Kinh nghi
ệm xây dựng chiến lược phát triển trong nước và quốc tế 25
3.1. Cơ sở khoa học xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam 25
3.2. Chiến lược Hưng biên phú dân và Quy hoạch “Thập nhất ngũ” trong sự nghiệp
phát triển dân tộc thiểu số của Trung Quốc 28
PHẦN HAI: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC

PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 37
1. Khái quát đặc điểm, chính sách và một số hạn chế về phát triển của các dân tộc
thiểu số hiện nay 37
1.1. Đặc điểm các dân tộc thiểu số 37
1.2. Thực trạng xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc hiện nay 38
1.3. Một số hạn chế về phát triển các dân tộc thiểu s
ố 49
2. Các ý kiến khác nhau về xây dựng Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số 57
2.1. Ý kiến về sự không cần thiết phải xây dựng Chiến lược 58
2.2. Ý kiến cần thiết xây dựng Chiến lược 64
3. Quan điểm của Đảng và căn cứ pháp lý xây dựng Chiến lược phát triển các dân tộc
thiểu số 66

2
3.1. Quan điểm của Đảng 66
3.2. Các căn cứ pháp lý 69
4. Sự cần thiết xây dựng Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số 73
PHẦN BA: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 75
1. Quan điểm 75
1.1. Vị trí của Chiến lược 75
1.2. Vai trò của Chiến lược 76
1.3. Yêu cầu về nội dung Chiến lược 77
2. Định hướng 78
2.1. Xác định tên gọi của Chiến lược 78
2.2. Cơ sở khoa học xác định tư tưởng, mục tiêu, nội dung của Chiến lược 78
2.3. Phương pháp xây dựng Chiến lược 92
2.4. Cách tiếp cận khi xây dựng Chiến lược 98
2.5. Quy trình xây dựng Chi
ến lược 100

2.6. Giải pháp xây dựng Chiến lược 103
3. Một số kiến nghị 105
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108










3
BẢNG BIỂU
Bảng 1: Diễn biến thu nhập bình quân đầu người/tháng của một số vùng 50
Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng miền núi, dân tộc 50
Bảng 3: So sánh thu nhập bình quân 1 người/tháng theo giá thực tế 51
Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người/tháng năm 2004 theo giá thực tế phân theo 5
nhóm thu nhập 52
Bảng 5: Tỷ lệ hộ gia đình tiếp cận với các loại hình văn hóa thông tin 54
Bảng 6. Tỷ lệ
hộ gia đình thường xuyên xem tivi………………………………………… 51
Bảng 7. Tỷ lệ hộ gia đình thường xuyên nghe đài 55
Bảng 8. Ý kiến cán bộ TW về “Đã có chiến lược phát triển các bộ, ngành không cần
thiết phải xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số” 63
Bảng 9. Ý kiến địa phương về “Đã có chiến lược phát triển các bộ, ngành không cần
thiết phải xây dựng chiến lượ
c phát triển các dân tộc thiểu số” 63

Bảng 10. Ý kiến chuyên gia TW về “Nghị quyết TW 7 Khoa 9 về công tác dân tộc là
bản chiến lược về công tác dân tộc” 64
Bảng 11. Ý kiến của TW về sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc
thiểu số 65
Bảng 12. Ý kiến của địa phương về sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triể
n các
dân tộc thiểu số 66
______________________________________________________________

HỘP
Hộp 1. Ý kiến của chuyên gia, nhà quản lý về việc xây dựng, thực hiện chính sách dân
tộc hiện nay: 46
Hộp 2. Quan điểm của chuyên gia của Viện Chiến lược, Bộ Kế hoạch và Đâu tư về tác
động của Chiến lược phát triển quốc gia, các bộ, ngành đến vùng dân tộc 62
Hộp 3. Ý kiế
n của chuyên gia Viện Chiến lược, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Viện Dân tộc
học; Viện Chính sách, Chiến lược phát triển Bộ Nông nghiệp về Nghị quyết TW7 64
Hộp 4. Ý kiến của PGS.TS Bùi Tất Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát
triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xác định tư tưởng, mục tiêu của chiến lược. 79


4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Chính
phủ và Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần 7 khóa IX về công tác dân tộc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1277/QĐ - TTg về phê duyệt đề án “Nội dung, nhiệm vụ chủ yếu
của quản lý Nhà nước và phương thức công tác dân tộ

c giai đoạn 2006-2010”,
trong đó yêu cầu Ủy ban Dân tộc xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu
khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quản lý nhà nước về công tác dân tộc
phục vụ xây dựng chiến lược phát triển vùng dân tộc thiểu số. Đây được xem là
nhiệm vụ quan trọng của Ủy ban Dân tộc. Theo Nghị định số 60/2008/NĐ-CP
ngày 09/5/2008 của Chính phủ, Quy định chức năng, nhiệ
m vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc, trong đó Ủy ban Dân tộc có nhiệm vụ Chủ
trì hoặc phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ các
cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng chiến lược phát triển vùng dân tộc thiểu số
để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Như vậy, từ các văn bản chỉ đạo
điều hành của Đảng và Nhà nước cũng
như các nhiệm vụ được giao tại Nghị định thì Ủy ban Dân tộc phải xây dựng
được chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên do nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan, đến nay nhiệm vụ này vẫn chưa được thực hiện.
Việc xây dựng các luận cứ khoa học phục vụ cho xây dựng chiến lược phát
triển các dân tộc thiểu số
đến năm 2020 là rất quan trọng. Có được các luận cứ
khoa học đúng đắn thì mới xây dựng được một chiến lược phù hợp làm cơ sở để
triển khai thực hiện có hiệu quả phát triển các dân tộc thiểu số nước ta trong bối
cảnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướ
c và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì
vậy thực hiện đề tài “Cơ sở khoa học xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, đến năm 2020” là cần thiết và cấp bách, cung cấp luận cứ
khoa học, chuẩn bị cho việc xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số.

5
2. Mục tiêu nghiên cứu

Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội nói chung, chiến lược phát triển của một số bộ ngành nói riêng; đặc
điểm tình hình về phát triển các dân tộc thiểu số, đề xuất cơ sở khoa học phục
vụ cho việc xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đến
năm 2020.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cách tiếp cận
Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng chiến lược phát triển các dân tộc
thiểu số đến năm 2020 là tập hợp các quan điểm, luận cứ khoa học dựa trên
những điều kiện liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách cả nước
nói chung, kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
các địa
phương nói riêng. Tiếp cận có nghĩa là xác định chỗ đứng, hướng quan sát, cách
tìm kiếm để có được thông tin chân thực về đối tượng, để hiểu được đối tượng.
Khái niệm “chỗ đứng”, “hướng quan sát”, “cách tìm kiếm” ở đây thuộc về lĩnh vực
tiếp cận tri thức, trước hết là những cách tiếp cận chung nhất, đảm bảo được tính
toàn diện của thông tin về
đối tượng và được sử dụng cho hầu hết các lĩnh vực
khoa học, đó còn là cách tiếp cận lịch sử, cách tiếp cận logic, cách tiếp cận hệ
thống. Đề tài sẽ đi sâu tiếp cận vĩ mô, tổng quan, liên ngành, đa lĩnh vực thông qua
các ý kiến của các chuyên gia từ các bộ, ngành trung ương và các nhà quản lý ở địa
phương.
Ngoài các cách tiếp cận như trên, do tính chất đặc thù,
đề tài tiếp cận liên
cấp, tức là nghiên cứu xem xét ở các cấp độ khác nhau, đồng thời có sự đan
xen, tác động qua lại lẫn nhau giữa các cấp quản lý trong hoạch định các chính
sách ở vùng dân tộc thiểu số.
Cuối cùng là tiếp cận trực tiếp các dân tộc thiểu số, chủ thể của đối tượng
nghiên cứu này.
3.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tư liệu th
ứ cấp
Đề tài đã nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu liên quan về xây dựng chiến
lược kinh tế - xã hội, tình hình thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội; các công trình nghiên cứu liên quan về chiến lược, các báo cáo tổng kết,

6
hội nghị, hội thảo của các cơ quan trung ương, các báo cáo thường niên, báo cáo
chuyên đề của một số địa phương về các vấn đề liên quan Qua đó phân tích,
so sánh và kế thừa những luận điểm khoa học đã được nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia
+ Đề tài đã tổ chức 02 cuộc hội thảo ở Trung ương để xin ý kiến các
chuyên gia, các nhà quản lý tư vấn, góp ý về nội dung phiếu hỏ
i, dự thảo báo
cáo tổng hợp của đề tài.
+ Đề tài đã tổ chức 03 hội thảo song phương với các cơ quan chuyên môn
như: Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Viện Chính
sách, Chiến lược Nông nghiệp thuộc Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn;
Viện Dân tộc học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
+ Đề tài đã tổ chức hội th
ảo tại 2 vùng: Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
để lấy ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà quản lý ở địa phương.
+ Phỏng vấn sâu các chuyên gia thông qua phiếu hỏi trực tiếp.
Đề tài đã xây dựng 02 mẫu phiếu để phỏng vấn sâu các các nhà quản lý, các
nhà khoa học có liên quan ở Trung ương và địa phương.
Ở Trung ương phỏng vấn 20 phiếu đối tượng là các nhà khoa học, quản lý:
Các chuyên gia ở các Vụ, đơn vị tại các B
ộ, ngành liên quan như Vụ Kế hoạch Tài
chính, Vụ Địa phương I, II, Trường Cán bộ Dân tộc, Viện Dân tộc thuộc Ủy ban
Dân tộc; Viện Chiến lược Phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Viện Chiến

lược và Chính sách phát triển Nông nghiệp Nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn; Viện Dân tộc học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam; Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đa số các chuyên gia phỏng vấn có trình độ tiến sĩ, một số chuyên gia có
học hàm giáo sư, phó giáo sư, đã có nhiều năm công tác ở lĩnh vực dân tộc; dân
tộc học; nghiên cứu về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược phát
triển các bộ, ngành.
Ở địa phương phỏng vấn 30 phiếu các nhà quản lý: Hầu hết các phiếu phỏng
vấn được hỏi đối tượng là trưở
ng ban, giám đốc, phó trưởng ban, phó giám đốc,
trưởng phòng, phó trưởng phòng, các Ban Dân tộc; Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn; Sở Y tế; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch; Sở
Giáo dục

7
4. Nội dung nghiên cứu
- Nội dung và kinh nghiệm xây dựng, thực hiện chiến lược phát triển tổng
thể (chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước) và của các bộ ngành
như Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
- Nghiên cứu tổng quan tình hình phát triển và các chính sách thực hiện ở
vùng dân tộc thiểu số thông qua các tài liệu thứ cấp.
- Khuyến nghị về ph
ương pháp, quy trình xây dựng chiến lược phát triển
các dân tộc thiểu số đến năm 2020.
5. Các cá nhân tham gia thực hiện đề tài
TT
Họ và tên Tổ chức Nội dung
tham gia
1 PGS. TS. Khổng Diễn
Nguyên Viện trưởng Viện

Dân tộc học
Chủ nhiệm
2 GS.TS. Phan Văn Hùng Viện trưởng Viện Dân tộc
Phó chủ
nhiệm
3
PGS.TS. Phạm Quang
Hoan
Viện trưởng Viện Dân tộc
học
Thành viên
4 TS. Dương Ngọc Thí
Phó Viện trưởng Viện Chính
sách, Chiến lược phát triển
Nông nghiệp, Bộ Nông
nghiệp
Thành viên
5 TS. Tạ Thị Đoàn
Học viện Chính trị - Hành
chính Khu vực I
Thành viên
6 Nguyễn Xuân Đức Vụ trưởng Vụ Địa phương II Thành viên
7 CVCC. Đinh Văn Tỵ
Phó Viện trưởng Viện Dân
tộc
Thành viên
8 TS. Nguyễn Cao Thịnh Viện Dân tộc Thành viên
9 Phạm Mạnh Thùy
Phó ban Chính sách xã hội,
Viện Chiến lược, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư
Thành viên

8
10 CN. Phan Văn Cương Viện Dân tộc Thành viên
11 CN. Đinh Thị Thu Thảo Viện Dân tộc Thành viên
12 CN. Hà Thị Hòa Viện Dân tộc Thành viên
13 CN. Hoàng Lệ Nhật Viện Dân tộc
Thư ký hành
chính
14 CN. Nguyễn Thị Nhiên Viện Dân tộc
Thư ký khoa
học

6. Cấu trúc nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của báo cáo được chia thành 3
phần chính:
Phần một.
Một số vấn đề lý luận về chiến lược, chiến lược phát triển các
dân tộc thiểu số.
Phần này tập trung nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý thuyết liên quan
đến chiến lược và chiến lược phát triển. Trong đó giới thiệu một số kinh nghiệm
chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số của nước ngoài.
Phần hai.
Cơ sở thực tiễn và sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triển
các dân tộc thiểu số.
Phần này tập trung phân tích thực trạng phát triển, những vấn đề tồn tại,
hạn chế của việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc: phân tích các quan
điểm khác nhau và cơ sở pháp lý cần thiết xây dựng chiến lược phát triển các dân
tộc thiểu số.

Phần ba.
Quan điểm, định hướng xây dựng chiến lược phát triển các dân
tộc thiểu số.
Phần này đề tài đưa ra một số quan điểm về vị trí, vai trò, yêu cầu đối với
Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số và định hướng xây dựng chiến lược
phát triển các dân tộc thiểu số đến năm 2020.



9
PHẦN MỘT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN, CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ


1. Khái niệm, nội dung và các loại hình chiến lược phát triển
1. 1. Khái niệm về chiến lược phát triển
‐Chiến lược
Có rất nhiều khái niệm, quan niệm về “chiến lược” đã được đưa ra theo
nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau. Đây là một thuật ngữ đã có từ xa xưa. Ở
phương Tây, thuật ngữ “chiến lược” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ “Strategem”
hoặc “Strateges”, nó mang ý nghĩa về tư tưởng chỉ đạo có tính cơ bản đối với
các hành vi để đạt đượ
c mục đích lớn lao nào đó mà người ta mong muốn.
Chiến lược đối với một đối tượng cụ thể chứ không có chiến lược chung chung
và nó được hoàn thiện theo thực tế phát triển của xã hội loài người.
Vào đầu thế kỷ 20 ở các nước Châu Âu thuật ngữ “chiến lược” xuất hiện
chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực quân sự, chính trị. Khi mới xuất hi
ện,
thuật ngữ “chiến lược” sử dụng trong quân sự được các nhà khoa học Trung

Quốc lý giải là “nghệ thuật thống soái”. Với cách lý giải như vậy, trong quân sự
“chiến lược” có thể hiểu là phương pháp chỉ huy, tài thao lược của người cầm
quân, có thể vạch ra những phương hướng chủ yếu của cuộc đấu tranh bao gồm
kế hoạch tổ chức, phương pháp chiến đấu, k
ỹ thuật chiến thuật sẽ được sử dụng
và khả năng ứng phó nhanh, nhạy kịp thời trong những tình huống cụ thể để
giành thắng lợi, giành lấy quyền kiểm soát trong một thời kỳ nhất định.
Ngày nay, các học giả Trung Quốc cho rằng: Chiến lược là những mưu
tính và quyết sách đối với những vấn đề trọng đại có tính chất toàn cục và lâu
dài, còn lý luậ
n và phương pháp quyết sách những vấn đề trọng đại mang tính
toàn cục và lâu dài nhiệm vụ của chiến lược học. Đối với quan điểm này thì
“chiến lược” đã thể hiện vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Quả thực “Mưu
tính” là toàn bộ những phương hướng, kế hoạch của con người về một vấn đề
nào đó, dựa trên những cơ sở thự
c tiễn khách quan, khoa học, qua đó nó thể
hiện nhận thức, trí tuệ và trình độ phát triển của một đất nước, một dân tộc.

10
“Vấn đề có tính chất toàn cục” là thể hiện tầm quan trọng có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của một đất nước, khu vực, hay một lĩnh vực cụ thể và vì vậy
nó phải được thực hiện trong một thời gian dài.
Trong chính trị, khi nói về chiến lược cách mạng vô sản Stalin đã viết
“chiến lược và sách lược là khoa học chỉ đạo cuộ
c đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản”. Với quan niệm như vậy, thì “chiến lược” có thể hiểu là những quy
định về phương hướng tấn công chủ yếu của giai cấp vô sản trong một thời kỳ
nhất định, vạch ra kế hoạch, bố trí lực lượng và đấu tranh để thực hiện kế hoạch
đó.
Năm 1962. Alfred Chandler một trong những nhà khởi xướng và phát triển

lý thuy
ết về quản trị chiến lược đã định nghĩa: Chiến lược là sự xác định các
mục tiêu và mục đích dài hạn của một tổ chức, và sự chấp nhận chuỗi các hành
động cũng như phân bổ nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu này.
Như vậy có thể hiểu “Chiến lược là sự xác định các mục tiêu và mục đích
dài hạn của chủ thể nhằm phát huy được lợi thế trong bối cảnh môi trường
thay đổi và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực cần thiết để đảm bảo rằng các
mục tiêu, mục đích đó sẽ được thực hiện”. Chiến lược chính là phương hướng
được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học, khách quan, trong đó đưa ra
cách giải quyết một vấ
n đề có tính chất toàn cục, tổng thể và được thực hiện
trong một thời kỳ nhất định.
- Chiến lược phát triển
Như trên đã phân tích thuật ngữ “chiến lược”, nó xuất hiện từ rất lâu
nhưng đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ 2, hòa bình và phát triển đã
trở thành chủ đề của đời sống kinh tế, chính trị của thế giới thì thuậ
t ngữ “chiến
lược phát triển” xuất hiện và sử dụng cho đến nay. Ngày nay bất kỳ một quốc
gia nào trên thế giới cũng đều xây dựng riêng cho mình chiến lược phát triển
của đất nước. Chiến lược phát triển là văn bản có tính chất pháp lý cao; định
hướng toàn bộ những vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước và
được thực hiện trong một th
ời kỳ nhất định; nó thể hiện trí tuệ, quan điểm lãnh
đạo và trình độ phát triển của mỗi quốc gia và đây là một trong những căn cứ
quan trọng để Chính phủ và các tổ chức chính trị xã hội chủ động xây dựng
chương trình hành động, chiến lược phát triển của ngành và địa phương mình.

11
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên Hợp quốc (UNIDO) cho rằng:
“Thông thường chiến lược phát triển có thể mô tả như một bản phác thảo quá

trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu đã định cho một thời kỳ dài.
Chiến lược cung cấp một “tầm nhìn” của một quá trình phát triển mong muốn
và giải pháp tổng thể tiến hành; chiến lược hướng dẫn các nhà hoạch
định chính
sách trong việc huy động và phân bố nguồn lực. Khái niệm của UNIDO có phần
giống với quan niệm của các nhà quân sự, chính trị, tuy vậy nó muốn gắn kết
chiến lược với hoạch định chính sách và các bản hoạch định khác.
Chúng tôi đồng tình với quan niệm mà PGS,TS. Ngô Doãn Vịnh đưa ra
trong cuốn Chiến lược phát triển về tư duy và hành động có tính chiến lược (
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007) : “Chi
ến lược phát triển hay
chiến lược về phát triển. Là “tinh thần cơ bản” của đường lối phát triển do con
người định ra, nó thể hiện chủ đề tư tưởng và gắn liền với chủ đề tư tưởng ấy là
phạm vi bao quát và nội dung chủ yếu (hay trọng tâm) của chiến lược được thể
hiện thông qua mục tiêu, hệ thống các quan điểm, biện pháp cơ bả
n có tính
chiến lược về phát triển ở tầm cao, tầm tổng thể, tầm dài hạn đối với sự phát
triển của một đối tượng (hay của một hệ thống) mà các nhà lãnh đạo đã đề ra;
nó chỉ đạo hành động thống nhất của một cộng đồng hay một quốc gia nhằm
đạt tới mục tiêu cao nhất, lớn nhất, tổng quát nhất đã xác định. Nói nh
ư thế có
nghĩa là mỗi chiến lược phát triển phải gắn với một đối tượng cụ thể.”
Như vậy, chiến lược phát triển là xác định các mục tiêu, hướng đích
tổng quát trong dài hạn do các chủ thể (cộng đồng, quốc gia hay nhóm quốc
gia) định ra nhằm phát huy được lợi thế của chủ thể trong sự tác động của
bối cảnh thay đổi và phân bổ có hiệ
u quả các nguồn lực cần thiết để đảm bảo
rằng các mục tiêu, hướng đích đó sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian
đã định.
Bản thân chiến lược phát triển có nhiều loại, nhiều cấp. Chẳng hạn, mỗi

quốc gia nên và cần có chiến lược về phát triển của quốc gia mình; mỗi doanh
nghiệp, ngành, vùng có chiến lược phát triển ngành, vùng mình. Một chiến lượ
c
phát triển phải được tổ chức thực thi tốt để đạt được mục tiêu thì chiến lược ấy
mới trở thành hiện thực. Do đặc điểm riêng của mình, một số mục tiêu của
chiến lược phát triển có thể được triển khai thực hiện bằng chương chình phát
triển kinh tế - xã hội. Vì vậy các chương trình dài hạn và trung hạn thường được

12
xác định dựa vào chiến lược phát triển và nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó
của chiến lược phát triển. Ở đây, chương trình được xem là một kênh thực hiện
chiến lược phát triển.
1.2. Nội dung của chiến lược phát triển
Theo các chuyên gia về chiến lược phát triển thì nội dung cơ bản của bất
kỳ chiến lược phát triển nào cũng bao gồm các tổ hợ
p, các yếu tố như sau:
- Cơ sở xây dựng chiến lược
+ Nghiên cứu những kinh nghiệm trong lịch sử phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là những bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển đã qua của đất
nước, nhất là trong khoảng 10 năm thực hiện chiến lược liền kề với thời kỳ
chiến lược mới. Mặt khác, kinh nghiệm thực hiện chiến lược của thế gi
ới và khu
vực, đặc biệt là các nước đang phát triển có điều kiện tương tự như nước ta và
các sự kiện quốc tế (như sự sụp đổ của chế độ XHCN ở nhiều nước; sự khủng
hoảng tài chính, tiền tệ ) có giá trị lớn để nghiên cứu, tham khảo, rút kinh
nghiệm khi xây dựng chiến lược.
+ Xác định điểm xuất phát về kinh tế - xã h
ội, tức là cần đánh giá thực
trạng thời điểm mở đầu khi xây dựng chiến lược. Trong bước này cần phân tích,
đánh giá để trả lời cho câu hỏi nền kinh tế đang ở giai đoạn nào và trình độ thế

nào của quá trình phát triển và trong sự so sánh với quốc tế? Để trả lời câu hỏi
này cần phải làm rõ hai nội dung, đó là: thứ nhất là chúng ta đang ở đâu so với
chính mình (vị trí tuyệt đối) và đang ở đâu so với các quốc gia khác (vị trí tương
đối). Mức độ cụ thể và đầy đủ của những yếu tố cấu thành của điểm xuất phát
cần được xem xét theo quan điểm then chốt (những vấn đề quan trọng nhất, chứ
không nhất thiết phải đặt lên bàn tất cả những vấn đề có thể xem xét) với cái
nhìn phân tích, xét đ
oán (chứ không phải là mô tả trạng thái hiện tại) một cách
tổng quát.
+ Đánh giá và dự báo bối cảnh quốc tế, những tác động bên ngoài như
quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, nguồn vốn bên ngoài và khả năng mở rộng
hợp tác quốc tế, khả năng mở rộng khoa học công nghệ
Từ các kết quả trên, phân tích được những thuận lợi, thời cơ, thách thức
và khó khăn đối với s
ự phát triển.
- Hệ quan điểm cơ bản của chiến lược

13
Các quan điểm này vừa có ý nghĩa chỉ đạo xây dựng chiến lược, vừa là
những tư tưởng và “linh hồn” của bản chiến lược mà trong từng phần nội dung
của bản chiến lược phải thể hiện và quán triệt. Hệ thống quan điểm thể hiện
những nét khái quát và đặc trưng nhất và có tính nguyên tắc về mô hình và con
đường phát triển kinh tế - xã hội của đất nướ
c hướng tới mục tiêu lâu dài Việc
xác định hệ quan điểm chủ đạo khi xây dựng chiến lược có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển, nó tạo động
lực cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước.
- Hệ thống mục tiêu chiến lược
Đây là mục tiêu gắn với việc giải quyết các vấn đề cơ b
ản của kinh tế với

giải quyết các vấn đề xã hội, như tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu, xóa
đói, giảm nghèo, hội nhập kinh tế quốc tế, và rút ngắn khoảng cách với các
nước Những mục tiêu này phải thể hiện một cách tập trung sự biến đổi quan
trọng về chất của nền kinh tế và đời sống xã hội, những mốc m
ới phải đạt tới
trên con đường phát triển của đất nước.
- Định hướng và giải pháp của chiến lược
+ Định hướng và giải pháp về cơ cấu kinh tế: Đây là cơ cấu ngành và là
lĩnh vực chủ yếu, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế, cơ
cấu công nghệ gắn liền với cơ cấu sản xu
ất của nền kinh tế. Có ý kiến cho rằng
cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản của chiến lược, vừa thể hiện mục tiêu,
vừa thể hiện giải pháp để đạt mục tiêu. Cơ cấu kinh tế là yếu tố cấu thành cơ
bản cuả hệ thống kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, cơ cấu kinh tế không tự nó nói
lên cái đích cuối cùng củ
a sự vận động trong hệ thống kinh tế - xã hội. Để đạt
đến mục tiêu cuối cùng, hệ thống cơ cấu kinh tế không chỉ cần đến cơ cấu của
nó mà cần đến những cơ chế vận động của nó. Cùng một cơ cấu kinh tế hoặc cơ
cấu kinh tế gần giống nhau có thể đạt tới những mục tiêu kinh tế - xã hội khác
nhau. Đ
iều này có thể thấy rõ sự khác nhau giữa con đường phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đang theo đuổi khác với
kinh tế thị trường ở các nước tư bản hiện nay. Do đó, cơ cấu kinh tế chỉ nên
xem là giải pháp của chiến lược.
+ Giải pháp về cơ chế hoạt động của nền kinh tế xã hội, t
ức là chính sách
và thể chế quản lý kinh tế, xã hội. Đây là những giải pháp có ý nghĩa tạo ra
động lực và khai thác, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào sự phát

14

triển kinh tế, xã hội. Không có các giải pháp này thì chiến lược chỉ đơn thuần
xem như là ý tưởng và nguyện vọng, không mang tính khả thi.
Như vậy, việc xây dựng một chiến lược phát triển đất nước cũng tức là
việc hoạch định đường đi nước bước trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của quá
trình phát triển đất nước để hướng sự nỗ l
ực của toàn xã hội theo những mục
tiêu xác định là nhu cầu khách quan. Do đó, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cần phải xác định được:
- Đang đứng ở đâu? ( Bối cảnh và thực trạng)
- Cần đi đến đâu? ( Mục tiêu: tổng quát, cụ thể)
- Quan điểm và nguyên tắc nào cần quán triệt? (Quan điểm chỉ đạo)
- Đi theo phươ
ng hướng nào? (Phương hướng cơ bản)
- Đi bằng cách nào? (Giải pháp cơ bản)
Đây chính là nội dung của một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên
10 năm. Trên cơ sở đó sẽ chia thành những chặng đường nhỏ - trong mỗi chặng
đường, ngoài năm nội dung trên còn phải xác định thêm cơ chế chính sách và
các lực lượng hỗ trợ cũng như những khâu trọng điểm, các giải pháp c
ụ thể -
thông qua các kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm.
Như vậy, sơ đồ hình thành mối quan hệ giữa các yếu tố chiến lược được
mô tả như sau:









Các căn cứ của chiến lược
Hệ quan điểm
Hệ mục tiêu chiến lược
Định hướng và giải pháp
chiến lược

15
1.3. Một số loại hình chiến lược phát triển
- Chiến lược phát triển truyền thống
Chiến lược phát triển truyền thống được xem là chiến lược phát triển có
đặc trưng: chỉ theo đuổi tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản xuất quốc dân. Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, đại đa số các nước đang phát triển áp dụng chiến
lược này. M
ục đích áp dụng chiến lược phát triển truyền thống là nhằm làm cho
quốc gia nhanh chóng trở thành nước phát triển đạt được mục tiêu về giá trị sản
xuất tính theo bình quân đầu người. Vì vậy, chiến lược này còn gọi là “chiến
lược đuổi và vượt”. Thực tiễn chứng minh rằng theo đuổi chiến lược phát triển
truyền thống thường vấp phải tình trạng trong khi đẩy mạnh tố
c độ phát triển thì
liên tiếp xảy ra lạm phát, thiết hụt ngân sách, phân phối không công bằng, kết
cấu mất cân đối, do đẩy mạnh phát triển ngành chế tạo, cho nên sản xuất nông
nghiệp tụt hậu, trong khi đó dân số tăng nhanh, không đủ lương thực để cung
cấp; do coi nhẹ phát triển cân đối nhịp nhàng giữa kinh tế và xã hội, cho nên
giáo dục, khoa học, y tế, văn hóa phát triển chậm, đô thị hóa phát triển mộ
t cách
méo mó, môi trường suy thoái, thêm vào đó là thu hút vốn quá nhiều, nợ nần
chồng chất, buộc những nước này phải điều chỉnh chiến lược, áp dụng chiến
lược phát triển mới.
- Chiến lược phát triển mới hoặc thay thế
Sau những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều nước đang phát triển áp dụng

chiến lược phát triển mới hoặc thay thế, nhấn mạnh lấy vi
ệc thỏa mãn nhu cầu
cơ bản của nhân dân làm mục đích quan trọng hàng đầu; cho rằng không thể coi
phát triển kinh tế chỉ là tăng trưởng kinh tế, khi tăng đầu ra thì đồng thời phải
tối ưu hóa kết cấu kinh tế và cải thiện điều kiện phát triển; từ chỗ coi trọng vai
trò của tư bản vật chất khi phát triển kinh tế, chuyển sang coi trọng vai trò của
các nhân tố th
ể chế, kết cấu và phát triển tư bản nhân lực đối với phát triển kinh
tế. Đây là loại chiến lược có rất nhiều điều mà Việt Nam có thể tham khảo.
- Chiến lược phát triển phi cân đối
Các quốc gia trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển, do nguồn lực
luôn ở trong tình trạng khan hiếm, nên không thể đủ nguồn lực để đáp ứng mọi
nhu cầu đầu t
ư thực hiện mọi mục tiêu của quá trình phát triển mà phải chấp
nhận sự “bất bình đẳng” tương đối để thực hiện các mục tiêu theo thứ tự ưu

16
tiên.
Trung Quốc là trường hợp khá điển hình của việc thực hiện chiến lược
này. Ở Trung Quốc, người ta hình thành hệ thống nghiên cứu chiến lược từ
Trung ương tới địa phương. Ở cấp Trung ương, có Trung tâm Nghiên cứu phát
triển thuộc Quốc vụ viện, ở các Bộ đều có bộ phận chịu trách nhiệm nghiên cứu
chiến lược và ở cấp địa phươ
ng, mỗi tỉnh đều có một cơ quan nghiên cứu phát
triển.
Trung tâm Nghiên cứu phát triển thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc đã
nghiên cứu xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của
Trung Quốc đến năm 2020 và 2050. Chiến lược phát triển dài hạn của Trung
Quốc đề ra một viễn cảnh mà Ban lãnh đạo nhà nước và nhân dân Trung Quốc
muốn đạt đến sau một thời kỳ nhất

định. Ý tưởng chiến lược được nhiều bộ,
ngành tham gia xây dựng, được lựa chọn trên cơ sở ý kiến đóng góp của cả khu
vực nhà nước và tư nhân và cuối cùng được trình lên Quốc hội xem xét để làm
căn cứ chỉ đạo chung. Sau đó ý tưởng chiến lược ấy được phản ánh trong các
Văn kiện của Đảng Cộng sản, của Chính phủ Trung Quốc và được các nhà lãnh
đạo cao nhất chính thứ
c phát biểu tại những hội nghị lớn. Các ngành, địa
phương lấy đó làm cơ sở để định hướng phát triển và hoạch định chính sách
phát triển.
Chiến lược phát triển của đất nước chỉ đưa ra mục tiêu tổng quát (có thể
bằng một chỉ tiêu cụ thể nào đó như GDP/người), không đưa ra các chỉ tiêu cụ
thể về tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành kinh tế
(công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ), cơ cấu việc làm, lao động, v.v cho từng thời điểm trong tương lai.
Họ nêu ra một cái đích chung mà người Trung Quốc muốn đạt được và những
biện pháp mà họ cần thực hiện để biến điều đó thành hiện thực, đó là xây dựng
đất nước khá giả trên cơ sở phát triển khoa học, phát triển hài hòa, phát triển tự
chủ sáng tạo và phát tri
ển cùng thời đại.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Chính phủ Trung
Quốc đi theo quan điểm phát triển cân đối (đồng đều giữa các ngành, các vùng)
nên không phát huy hết thế mạnh của các vùng có tiềm năng, lợi thế của đất
nước để thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế của cả nước. Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Qu
ốc, Chính phủ Trung Quốc đã thay
đổi chủ trương phát triển và đi theo quan điểm mà nhiều học giả cho là phát

17
triển phi cân đối, khuyến khích và tạo điều kiện cho các vùng có tiềm năng phát
triển nhanh hơn hẳn các vùng khác và trở thành động lực thúc đẩy và lôi kéo sự

phát triển của các vùng ít tiềm năng hơn; tạo nguồn lực để đầu tư vào các vùng
kém phát triển hơn; đồng thời, tập trung đầu tư phát triển những ngành mà
Trung Quốc có lợi thế. Với quan điểm phát triển này, từ thập kỷ 80 c
ủa thế kỷ
XX, Chính phủ Trung Quốc có các chính sách tạo điều kiện phát triển mạnh
những ngành chủ đạo như điện, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu
cũng như dồn sức thúc đẩy sự phát triển vùng miền Duyên hải phía Đông. Bắt
đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc xây dựng bốn đặc khu kinh tế
là Thâm Quyế
n, Chu Hải, Sơn Đầu, Hạ Môn và tiếp đó cho phép 14 thành phố
ở miền Đông mở cửa vào năm 1984. Tiếp theo là khu kinh tế mở Phố Đông
được thành lập vào năm 1992 và Khu kinh tế Hải Nam ra đời vào năm 1995.
Theo các báo cáo của Trung Quốc thì khu vực Duyên hải phía Đông đã tạo ra
khoảng 2/3 GDP và thu hút khoảng trên 2/3 FDI của cả nước Trung Quốc. Ba
quyết sách chủ yếu đối với khu vực phía Đông là: đầu tư nước ngoài là chính,
công ngh
ệ cao là chính và sản xuất sản phẩm xuất khẩu là chính. Mặt khác,
Trung Quốc đi theo đường lối “một số người giàu trước” cũng thể hiện quan
điểm phát triển phi cân đối đã được đề cập ở trên.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc chấp nhận phát triển phi cân
đối đã tạo ra sự khác biệt ngày càng lớn về mức sống giữa các vùng miền, giữ
a
các tầng lớp dân cư; cách biệt giữa hai miền Đông và miền Tây là rất rõ (theo số
liệu công bố của các cơ quan chức năng Trung Quốc vào những năm đầu của
thế kỷ XXI, miền Tây chiếm 60% tổng diện tích và 30% dân số cả nước nhưng
GDP chiếm chưa đầy 20% của cả nước, bình quân GDP đầu người chỉ bằng
60% mức trung bình cả nước và chỉ bằng 40% GDP đầu ngườ
i của khu vực
miền Đông). Nhằm giảm bớt sự chênh lệch giữa hai miền Đông và miền Tây,
trong những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chiến lược khai phát

miền Tây trên quan điểm “phát triển miền Tây nhưng không làm cản trở miền
Trung và miền Đông”. Nhà nước cho phép các thành phố ở vùng miền Tây mở
cửa, thành lập các khu chế xuất và khu công nghệ cao giống như ở miề
n Đông.
Quan điểm tăng cường phát triển miền Tây được thể hiện rất rõ trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 10 và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm lần thứ 11 (2006-2010) của Trung Quốc, bao gồm một chương trình
khai phát miền Tây do Chính phủ Trung ương đầu tư là chính, tập trung vào

18
năm lĩnh vực:
- Phát triển kết cấu hạ tầng (sân bay, đường sắt, đường cao tốc, quốc lộ );
- Xây dựng các công trình sinh thái (trồng rừng, đồng cỏ );
- Phát triển giáo dục cơ sở;
- Điều chỉnh cơ cấu ngành nghề theo hướng chuyển từ công nghiệp khai
thác mỏ sang công nghiệp chế biến;
- Mở cửa toàn diện, cải cách triệt để, những chính sách mở cửa
đã dùng
cho phía Đông nay được sử dụng cho phía Tây.
Trong Chương trình khai phát miền Tây, những công trình thuộc 5 lĩnh
vực này được xác định tên cụ thể, xây dựng ở đâu và tốn bao nhiêu tiền, v.v
Vào đầu năm 2005, sau khi miền Đông và miền Tây được chú trọng phát
triển đã có bước chuyển biến tích cực, kinh tế có sự phát triển tương đối mạnh
thì xuất hiện tình trạng miền Trung không được đầu tư thích đáng và đươ
ng
nhiên là tiềm năng của miền Trung chưa được phát huy có hiệu quả. Trước tình
hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã kịp thời đề ra chiến lươc miền Trung trỗi
dậy với chủ trương tăng cường đầu tư cho miền Trung. Đồng thời, gần đây khi
thấy các vùng nêu trên đã có sự phát triển tốt, Chính phủ Trung Quốc đưa ra
chiến lược chấn hưng vùng Đông Bắc. Có thể

nhận thấy rất rõ rằng, Trung
Quốc điều chỉnh chiến lược phát triển vùng theo quan điểm phát triển phi cân
đối, có trọng tâm, trọng điểm. Thực tế cho thấy cách làm của họ đem lại kết quả
cũng như hiệu quả tốt.
- Chiến lược phát triển bền vững
Phát triển bền vững thực sự là vấn đề sống còn của nhân loại, là
đòi hỏi
bức xúc cũng là thách thức gay gắt đối với các quốc gia. Từ những năm 60 của
thế kỷ XX trở đi, trên thế giới dân số tăng mạnh, môi trường bị ô nhiễm, tài
nguyên cạn kiệt, v.v người ta đã nghĩ tới chiến lược phát triển bền vững dựa
trên sự phát triển ở trình độ cao hơn với những mũi nhọn của khoa học - công
ngh
ệ và trí tuệ con người.
Đến những năm 80 của thế kỷ XX lý luận phát triển bền vững được hình
thành về cơ bản. Năm 1980, trong báo cáo “chiến lược bảo vệ thế giới” lần đầu
tiên người ta chính thức sử dụng khái niệm “phát triển bền vững”. Năm 1983,

19
Liên hợp quốc thành lập Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED).
Năm 1987, tổ chức này đã đệ trình lên “Hội nghị môi trường và phát triển của
Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 42” bản báo cáo “Tương lai chung của chúng
ta”, báo cáo này lần đầu tiên chính thức sử dụng khái niệm phát triển bền vững
là “thỏa mãn nhu cầu của thế hệ chúng ta hôm nay nhưng không gây
phương hại đến thỏa mãn nhu cầu củ
a những thế hệ sau”. Phát triển bền
vững là phát triển có được sự bền vững cả trong kinh tế, trong xã hội và môi
trường. Phát triển bền vững của một quốc gia phải được đặt trong sự phát triển
bền vững của các nước trên thế giới.
Chương trình Nghị sự 21 của Chính phủ Việt Nam chính là văn kiện phản
ánh chiến lược phát triển bền vững, tăng t

ốc kinh tế gắn với xóa đói giảm
nghèo. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có chiến lược phát triển bền vững, coi
trọng cả yếu tố chiến lược là kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và ổn định
chính trị; nguồn nhân lực, tài nguyên và khoa học - công nghệ được đặc biệt coi
trọng.
Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam có nội hàm bền vững đố
i với
phát triển kinh tế, bền vững đối với phát triển xã hội, bền vững đối với phát
triển văn hóa, bền vững đối với môi trường sinh thái và bền vững đối với chế độ
xã hội.
1.4. Vai trò của chiến lược phát triển
Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm chiến lược lại được chuyển nhanh
từ quân sự, chính trị sang kinh tế, xã hội. Nhất là trong điề
u kiện nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nền kinh tế của mỗi nước trở
thành một mắt xích trong hệ thống kinh tế thế giới, việc xây dựng và quản lý
bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu bức thiết đặt ra và có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với mọi quốc gia. Sự cần thiết phải có chiến l
ược phát triển được
lý giải bởi những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát tính cạnh tranh ngày càng sâu sắc của nền kinh tế thị
trường hội nhập quốc tế: Nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế làm cho mỗi
quốc gia trở thành một khâu trong chuỗi dây chuyền giá trị toàn cầu, điều đó tạo
nhiều cơ hội để các nước có thể nhanh chóng thực hiện
được các mục tiêu phát
triển. Tuy vậy, nó cũng tạo ra những thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển, vì thị trường chính là chiến trường. Tính chất cạnh

20
tranh trở nên ngày càng khốc liệt hơn đòi hỏi mỗi quốc gia phải chủ động trong

quá trình lựa chọn, xác định tầm nhìn bao quát, tìm ra hướng đi trong dài hạn.
Như vậy, xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp cho các nhà
lãnh đạo, các nhà hoạch định chủ động xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo
hướng nào và khi nào thì đạt tới cơ sở cho sự thành công và chiến thắng trên
bước đườ
ng thực hiện mục tiêu phát triển của mình một cách có hiệu quả nhất.
Thứ hai, những hạn chế, bất cập của nền kinh tế thị trường: Trong điều
kiện kinh tế thị trường mở, điều kiện môi trường mà các quốc gia phải đối mặt
luôn biến đổi nhanh chóng, những biến đổi nhanh chóng thường tạo ra hay làm
mất đi những cơ hội và nguy cơ b
ất ngờ trong các yếu tố môi trường phát triển.
Do đó, phương thức quản lý bằng chiến lược giúp các nhà hoạch định chủ động
và kịp thời dự báo, tính toán và xác định cơ hội và thách thức, nhằm tận dụng và
khai thác triệt để cơ hội, giảm thiểu tác động tiêu cực cuả thách thức để thể hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Thứ ba, chiến lược cung c
ấp một tầm nhìn và khuôn khổ chung xây dựng
và triển khai các văn bản hoạch định ở các cấp thấp hơn: Chiến lược là cơ sở
cho việc xây dựng chính sách, quy hoạch và kế hoạch ngắn hạn, trung hạn.
Chiến lược cung tấp tầm nhìn và khuôn khổ tổng quát cho việc thực hiện các
quan hệ hợp tác hay hội nhập quốc tế một các chủ động và có hiệu quả.
2. Khái niệm, tính chất c
ơ bản của chiến lược phát triển các dân tộc
thiểu số
2.1 Quan điểm của Lênin và Hồ Chí Minh về chiến lược phát triển các
dân tộc
Trên cơ sở kế thừa các tư tưởng, quan điểm của Mác và thực tiễn nghiên
cứu tình hình dân tộc dưới chế độ Nga Hoàng, Lênin đã rút ra những vấn đề,
nguyên tắc cơ bản trong chính sách, giải quyết các vấn đề dân tộc của Đả
ng

cộng sản Bônsêvich. Ông đã đưa ra những vấn đề có tính chất nguyên tắc rất
quan trọng để giải quyết vấn đề dân tộc trong thời đại của mình là “Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng”. Ngay từ thời kỳ này, Lênin đã quan niệm và giải quyết
vấn đề dân tộc phải thực sự bình đẳng, toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Ông cho rằng “Người nào không thừa nhận và không bảo vệ quyề
n bình đẳng
giữa các dân tộc, bình đẳng về ngôn ngữ, không đấu tranh chống mọi áp bức
hay mọi bất bình đẳng dân tộc thì người đó không phải là người mác-xít, thậm

21
chí cũng không phải là người dân chủ nữa”
1

Vấn đề dân tộc là cả hệ tư tưởng lớn của Lênin. Ông đã kế thừa, bổ sung
những quan niệm của Mác và Ăngghen, phát triển thành những quan niệm
mang tính hệ thống của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc, quan hệ dân
tộc. Ông đề cao sự công bằng, bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc ở những
điều kiện lịch sử khác nhau. Lênin đã nêu rõ quan điểm c
ần thiết phải xây dựng
những quy tắc và phải sớm có bộ luật thật chi tiết về vấn đề dân tộc, quan hệ
dân tộc, để tránh sự lạm dụng và những sai lầm trong hoạt động thực tiễn do
ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc. Lênin đã đề cập rất nhiều vấn đề dân tộc
trong nhiều tác phẩm của mình, ông luôn khẳng định các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng và c
ần phải liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc lại.
Mặc dù không đề cập trực tiếp đến thuật ngữ “chiến lược phát triển các
dân tộc thiểu số”, nhưng trong tư tưởng của Lênin đã thể hiện một quan điểm,
tầm nhìn dài hạn về phát triển bền vững các dân tộc là “quyền bình đẳng giữa
các dân tộc” và xây dựng luật dân tộc…”. Cho đến ngày nay, quyền bình đẳ
ng

giữa các dân tộc vẫn luôn luôn là chiến lược và sách lược phát triển đất nước
của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Và để thực hiện được tốt quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, nhiều nước đã và đang xây dựng luật dân tộc để điều
phối và đề ra các nguyên tắc ứng xử giữa các dân tộc.
Tiếp tục kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ ngh
ĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận thức được mối quan hệ chặt
chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Trong tư tưởng của Người luôn chứa đựng một cách nhìn toàn diện về dân tộc,
trong đó “Bình đẳng, đoàn k
ết các dân tộc” là hạt nhân để giải quyết mối quan
hệ giữa các dân tộc. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại
Plâycu, ngày 19 tháng 4 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các
dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau. Chúng ta phải thương yêu nhau,

1
V. I. Lênin: Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc. Nxb Sự thật, Hà Nội-1963, tr. 20.

22
phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của
chúng ta và con cháu chúng ta”
2
.
Để cụ thể thành hành động, Người đã chỉ đạo Đảng, Chính phủ cần phải
có kế hoạch dài hạn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền núi; đồng bào
miền xuôi phải giúp đỡ đồng bào miền ngược. Đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số, người cũng chỉ ra rằng, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng phải không

ngừng vươn lên về mọi m
ặt kinh tế - xã hội, văn hóa…
Đoàn kết các dân tộc là một trong những di sản tư tưởng quan trọng của
Hồ Chí Minh đối với vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn, đúng đắn
ấy có giá trị to lớn, được Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong suốt
thời kỳ lịch sử phát triển đất nước. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng, c
ơ sở để Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách, chương trình cụ
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
Như vậy, nghiên cứu quan điểm của Lê nin và Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc cho thấy, mặc dù trong các tác phẩm của mình không sử dụng thuật ngữ
“chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số” hay không có “mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp… về giải quyết vấ
n đề dân tộc” như trong nội dung các bản chiến
lược, nhưng những tư tưởng, quan điểm ấy đều có tính chiến lược rất cao, thể
hiện một tầm nhìn dài hạn về vấn đề dân tộc. Đến nay đã hơn một thế kỷ trôi
qua, để phát triển đất nước quan điểm “các dân tộc bình đẳng, đoàn kết” vẫn
còn nguyên giá trị. Điều này đặ
t ra đối với việc xây dựng chiến lược phát triển
các dân tộc thiểu số phải nghiên cứu xem xét, lựa chọn và đưa vào phần quan
điểm cho phù hợp.
2.2. Khái niệm về chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số
Cho đến nay chưa có từ điển, hay học giả nào bàn luận và giải nghĩa về
thuật ngữ “chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số”. Thực chất
đây là một loại
hình chiến lược phát triển đã được xác định cụ thể, có đối tượng là sự phát triển
của các dân tộc thiểu số. Từ thực tiễn quan niệm về chiến lược phát triển, các
quan điểm về dân tộc và phát triển các dân tộc, chúng tôi xin nêu khái niệm về
chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số như sau:
“Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu s

ố là xác định các mục tiêu,

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2000.

23
phương hướng, giải pháp trong dài hạn, nhằm phát triển các dân tộc thiểu số
theo nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng
phát triển”.
Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số là công cụ quản lý nhà nước về
công tác dân tộc, phản ánh các vấn đề mang tính quy luật, được dự báo một
cách khoa học, để chỉ đạo quá trình phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho cộng đồng các dân t
ộc.
Một số vấn đề quan trọng cần chú ý khi bàn về thuật ngữ chiến lược phát
triển các dân tộc thiểu số
Thứ nhất, Quan điểm đường lối cơ bản về phát triển các dân tộc thiểu số
được phản ánh trong tư tưởng chiến lược và hệ thống các quan điểm chỉ đạo
thông qua các mục tiêu, phạm vi bao quát của chiến lược và những nhiệm v
ụ cơ
bản phải thực hiện để đạt được những mục tiêu đó.
Thứ hai, Chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số phải được đảm bảo đầy
đủ, kịp thời các phương tiện vật chất và tinh thần để biến các mục tiêu chiến
lược và nhiệm vụ chiến lược thành hiện thực.
Thứ ba, việc điều hành và tổ
chức thực hiện chiến lược phát triển các dân
tộc thiểu số có ý nghĩa quan trọng, nó có tính quyết định tới việc biến các ý
tưởng, quan điểm và mục tiêu chiến lược trở thành hiện thực.
Như vậy, khi nói về chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số là nói tới
chiến lược về sự phát triển của một hệ thống, chiến lược dẫn dắt h

ệ thống đó
phát triển đúng hướng và có kết quả mong muốn. Muốn hệ thống vận động theo
hướng có lợi thì phải điều khiển nó, muốn điều khiển nó phải nắm được quy
luật vận động của nó và điều hành nó theo quy luật ấy. Việc nắm bắt quy luật
vận động và cụ thể hóa các quy luật thành chiến lược phát triển cho hệ thố
ng là
vấn đề quan trọng và có tính bắt buộc đối với sự phát triển của hệ thống nào đó
và của các hệ thống cùng cấp với nó cũng như sự phát triển của hệ thống lớn mà
nó trực thuộc.
2.3. Tính chất cơ bản của chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số
- Thể hiện tính lãnh đạo

24
Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu trong bất kỳ loại chính chiến lược
phát triển nào. Bởi vì việc xây dựng chiến lược phát triển phải dựa trên tư tưởng
chỉ đạo của Nhà nước, việc thực hiện chiến lược sẽ mang lại lợi ích cho ai, vấn
đề công bằng xã hội được giải quyết như thế nào, đạt được đến đâu. Tất cả

những vấn đề đó được xuyên suốt trong chiến lược và nó thể hiện rất rõ quan
điểm lãnh đạo của giai cấp thống trị. Đối với Việt Nam, Chiến lược phát triển
các dân tộc thiểu số cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề dân
tộc là “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”
- Tính hệ thống
Quả th
ực đối tượng của chiến lược phát triển các dân tộc thiểu số là các
vấn đề liên quan về phát triển kinh tế - xã hội, đây là cả một hệ thống rất lớn,
bao gồm rất nhiều các hợp phần luôn luôn tồn tại và vận động không ngừng, có
mối quan hệ chặt chẽ, tương tác với nhau. Nếu trong quá trình thực hiện có sự
tác động dù là rất nhỏ lên một hợp phầ
n nào đó thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến

toàn bộ hệ thống và gây ra hiệu ứng rõ rệt. Đây là tính chất quan trọng chúng ta
cần nắm rõ, để trong quá xây dựng, hay thực thi chiến lược phải biết lựa chọn
những vấn đề có tính mấu chốt, gây đột phá mạnh mẽ cho cả hệ thống để thực
thi.
- Tính bao quát
Đối với Việt Nam, một quốc gia có nhiều dân tộc chung số
ng trên phạm
vi toàn lãnh thổ. Vì vậy Chiến lược phát triển các dân tộc là một văn bản lớn,
bao quát và định hướng cơ bản các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã
hội ở vùng dân tộc thiểu số. Chiến lược không phải là bản kế hoạch hay quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn, bởi vì tính lượng hoá, tính cụ
thể của các hợp phần không cao, chỉ vừa đủ cung cấp nhữ
ng cơ sở khoa học cho
chủ trương, đường lối để hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên mục tiêu của chiến
lược lại rõ ràng, hệ thống các chỉ tiêu được lượng hoá, hướng dẫn tổ chức thực
hiện cụ thể, đủ để các cấp các ngành, địa phương xây dựng kế hoạch, quy hoạch
phát triển cho phù hợp.
- Tính lựa chọn

×