Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đê an tốt nghiệp ccllct xây dựng đội ngũ cán bộ trong công tác xây dựng đảng theo tư tưởng hồ chí minh ở ban tuyên giáo tỉnh ủy ninh bình thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.91 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.......4
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ và cong
tác cán bộ..............................................................................................................4
1.2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối
với cán bộ trong công tác xây dựng đảng..........................................................6
1.3. Nội dung của công tác cán bộ trong công tác xây dựng Đảng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.......................................................................................12
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH Ở BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY NINH BÌNH GIAI
ĐOẠN 2010 – 2016............................................................................................16
2.1. Đặc điểm, tình hình Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình
(thực hiện theo Quy định 1247-QĐ/TU ngày 14/4/2014 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy....................................................................................16
2.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong công tác xây
dựng Đảng ở Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình..........................................17
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở BAN TUYÊN GIÁO
TỈNH ỦY GIAI ĐOẠN 2016-2020...................................................................24
3.1. Phương hướng chung.................................................................................24
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ trong cơng tác theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ở Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình....................25
KẾT LUẬN........................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................32





MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ mn vàn kính u của dân tộc ta Việt
Nam, nhà tư tưởng, danh nhân văn hoá lớn của thế giới đã hiến dâng tất cả
tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta, là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Người thấy rất
rõ vị trí, vai trị của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là một trong những viên
ngọc quý, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu
ngày càng cao đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”. Quá trình này địi hỏi một nguồn lực con người được giáo
dục tốt, vừa có trình độ học vấn và văn hóa. Chỉ có nguồn nhân lực đó, đất
nước ta mới có thể biến những thách thức thành cơ hội phát triển; mới có thể
hội nhập mà khơng bị hịa tan.
Khơng nằm ngồi u cầu tất yếu khách quan đó, là một cơ quan tham
mưu của Tỉnh ủy, mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
Thường trực Tỉnh ủy về công tác xây dựng Đảng thuộc các lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, tuyên truyền, lý luận chính trị, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ,
khoa giáo, biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương …trên địa bàn tỉnh, Ban
Tun giáo Tỉnh ủy Ninh Bình ln cần có được một đội ngũ cán bộ vừa
hồng, vừa chuyên, vừa có phẩm chất đạo đức tốt vừa có chuyên mơn giỏi. Do
đó, vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về đức tài của người cán bộ trong
công tác rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Ban Tun giáo có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa vạn năng để khắc phục mọi khó khăn



phía trước, tiến đến hồn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước tin
tưởng giao phó.
Xuất phát từ yêu cầu trên, qua quá trình học tập Chương trình hồn thiện
cao cấp lý luận chính trị em xin chọn đề tài “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong
công tác xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp” để làm Tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa
với mong muốn góp phần nhỏ của mình vào cơng cuộc xây dựng tập thể cán bộ
cơ quan ngày càng đoàn kết, vững mạnh.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hiện nay đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu và bài viết trên
mạng đề cập đến Xây dựng đội ngũ cán bộ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số
tỉnh. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài khao học nào đặt vấn đề “Xây dựng
đội ngũ cán bộ trong công tác xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp”
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ và cơng tác cán bộ, học viên sẽ đánh giá thực trạng q trình vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, trong công
tác cán bộ, đảng viên tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình, từ đó đề xuất
một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tại
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ;
- Phản ánh thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh.



- Phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp, phương hướng xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Ban Tun giáo Tỉnh ủy Ninh Bình, góp
phần xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
chính trị cũng như nhiệm vụ chun mơn của đơn vị trong giai đoạn hiện nay.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tiểu luận tập trung nghiên cứu
về vị trí, vai trị của cán bộ và cơng tác cán bợ; về đức và tài của người cán
bộ; về nội dung của công tác cán bộ trong cong tác xây dựng Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh sẽ làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình giai
đoạn 2010 - 2016, phân tích một số nguyên nhân cơ bản và đề ra giải pháp
giai đoạn 2016- 2020.
5 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê,
tổng hợp, điều tra, phân tích, so sánh và dự báo.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI
7. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của tiểu luận gồm có 3 phần:


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG CÔNG
TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ và
cong tác cán bộ
1.1.1. Tư tưởng Hờ Chí Minh về vị trí, vai trò của người cán bộ
Người coi cán bộ là một trong những yếu tố then chốt quyết định đến

sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc”. Bởi Người quan niệm, cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì
cây héo; sơng thì phải có nguồn, khơng có nguồn thì sông cạn.
Nhưng “muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Nếu có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ
đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng
lợi. Khơng có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có đường lối, chính sách đúng cũng
khó có thể biến thành hiện thực được. Người nói “khi đã có chính sách đúng
thì sự thành cơng và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc,
do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm đó sơ sài thì chính sách
đúng mấy cũng vơ ích”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã đi xa hơn, sâu hơn, chỉ ra
cội rễ của vấn đề một cách vừa cụ thể vừa có tính chất tổng qt.
Người cịn giải thích rõ hơn: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy.
Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn
thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể
thực hiện được”. Đây là một cơng việc khó địi hỏi người cán bộ phải có đủ tư
cách, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ, người cán bộ khơng chỉ
truyền đạt, giải thích tinh thần, nội dung chính sách của Đảng và Nhà nước
cho dân chúng mà quan trọng hơn là trong quá trình tổ chức thực hiện, cán bộ


phải nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thu nhận được những kinh
nghiệm thực tiễn để phản ánh với Đảng và Nhà nước, hồn thiện đường lối,
chính sách ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Trong
mối quan hệ hữu cơ giữa cán bộ và đường lối chính trị, giữa cán bộ và tổ
chức, giữa cán bộ và phong trào quần chúng, thì cán bộ vừa là nhân vừa là
quả của phong trào.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cán bộ có vai trị to lớn,
quyết định sự thành cơng hay thất bại của mọi cơng việc. Cho nên, nói đến

cán bộ là nói đến “tiền vốn của Đồn thể”. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ
chính sách của Đảng và Nhà nước nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có
lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn.
1.1.2. Tư tưởng Hơ Chí Minh về vị trí, vai trị của cơng tác cán bộ
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ thì cơng tác cán bộ của
Đảng là một khâu hết sức quan trọng. Trong nhiều trường hợp, cán bộ tự rèn
luyện tốt nhưng vì cơng tác cán bộ dở nên cũng hạn chế kết quả cơng việc
cách mạng. Vì vậy, cán bộ và công tác cán bộ gắn liền với nhau.
Trên cơ sở những quan điểm đúng đắn về cán bộ thì mới có thể làm tốt
được cơng tác cán bộ. Thực hiện tốt công tác cán bộ là một biện pháp tích cực
để xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng phát triển. Công tác cán bộ thể hiện sự
hiểu biết và đánh giá đúng cán bộ; lựa chọn cán bộ; huấn luyện cán bộ; biết
dùng cán bộ; kết hợp các loại cán bộ, chính sách cán bộ; trọng dụng người có
đức có tài…
Việc đánh giá cán bộ phải có quan điểm, nguyên tắc, nội dung và
phương pháp đúng đắn; hết sức tránh tình trạng cảm tính: u, ghét xuất phát
từ lợi ích của người đánh giá; càng phải tránh xa và đoạn tuyệt với việc dựa
vào quyền lực để tổ chức việc trao đổi mua bán quyền lực, làm giàu từ quyền
lực để rồi nhắm mắt đánh giá theo kiểu “đổi trắng, thay đen” với mục đích
thiếu trong sáng của người đánh giá.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được sâu sắc, vị trí, vai trị của
cơng tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, để có cán bộ đủ đức, đủ
tài, đáp ứng đòi hỏi của mỗi giai đoạn cách mạng, cơng tác cán bộ có vị trí
quyết định. Hồ Chí Minh là người nêu gương trong việc hoạch định đường
lối, chính sách vừa nguyên tắc vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài là trọng yếu và rất
cần thiết. Có tổ chức vững mạnh, làm tốt công tác cán bộ sẽ hạn chế và sửa
chữa những khuyết điểm, giúp đỡ phát huy những ưu điểm của cán bộ, nhân

sức mạnh của cán bộ lên. Mặt khác, “lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài
to”. Nói đến vấn đề cán bộ là bao gồm cả cán bộ và công tác cán bộ. Khi bàn
về quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thì cán bộ là khách thể tức là
những người chịu đựng cái kết quả của những người làm công tác cán bộ.
Chất lượng cán bộ tùy thuộc vào công tác cán bộ. Nếu như tất cả các
khâu: phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc, đề bạt, bố trí, kiểm
tra, theo dõi, giúp đỡ… đều làm tốt thì nhất định ta sẽ có đội ngũ cán bộ chất
lượng tốt. Chỉ cần một trong những khâu đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi
đến chốn sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ cán bộ kém đi rất nhiều.
Nói tóm lại, cơng tác cán bộ giữ vai trị trọng yếu trong toàn bộ hoạt
động của Đảng. Thực hiện tốt công tác cán bộ là sự chủ động tạo ra một đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ cách
mạng. Đội ngũ cán bộ chỉ có thể xứng đáng, đảm đương được vai trị củamình
khi thật trong sạch, vững mạnh; tồn diện và đồng bộ. Điều này phụ thuộc rất
lớn ở chất lượng công tác cán bộ.
1.2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu
đối với cán bộ trong công tác xây dựng đảng.
1.2.1. Yêu cầu của Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng.
Người coi đạo đức là “gốc”, “nền tảng” quyết định sự vững chắc, phát triển,


thành công hay thất bại của người cán bộ. Người cho rằng: “cũng như sơng
thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự
mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn
làm nổi việc gì”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác

nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều
là người cao thượng”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh những phẩm chất đạo đức
mà người cán bộ cách mạng cần phải có là:
Thứ nhất là, trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
Đó là chuẩn mực bao trùm quan trọng nhất, chi phối các chuẩn mực khác.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước,
phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước
là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân
dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, ln đặt
lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Đảng, tổ quốc lên trên hết. Tận trung với nước là
tận trung với Đảng, là quyết tâm phấn đấu suốt đời để thực hiện và hoàn thành mục
tiêu của cách mạng, đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN.
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”. Phải khẳng định được sức mạnh, vai
trò thật sự của dân như Nguyễn Trãi đã khẳng định “chở thuyền là dân, lật
thuyền là dân”, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” Lênin, còn với
HCM người khẳng định “Gốc có vững cây mới bền-Xây lầu hạnh phúc trên
nền nhân dân”.


Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân” và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi
của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan

điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng,
đất nước.
Thứ hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ
Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm,
liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn
phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
 

Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có

năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
 

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,

của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “khơng xa xỉ,
khơng hoang phí, khơng bừa bãi, khơng phơ trương, hình thức...”.
 

Liêm là trong sạch, là “ln tơn trọng, giữ gìn của cơng và của dân”,

“khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”;
“không tham địa vị, không tham tiền tài..., khơng tham tâng bốc mình...”.
 

Chính là ngay thẳng, khơng tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình


khơng tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối


trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết. Đối với việc thì
để việc cơng lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh”.
 

Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là khơng được có lịng

riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư ốn", đem lịng chí
cơng, vơ tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Muốn "chí cơng, vơ tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
 

Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý",

không được vì lịng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
 

Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng, vơ

tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng, vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ
tư, một lịng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.
Thứ ba là, thương u con người, sống có tình có nghĩa
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện và độc đáo. Hồ

Chí Minh kêu gọi con người cần phải thương yêu nhau, thực hành hai chữ “
bác ái” và chúng ta cần làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh khơng chung chung, trừu
tượng mà rất cụ thể, sâu sắc và bao dung. Hồ Chí Minh chẳng những thương
yêu tất cả những người lao động mà cịn đặc biệt thương u những người bị
áp bức, bóc lột, bị đầy đọa, đau khổ, bị nô dịch giai cấp và dân tộc. Tình
thương yêu con người ở Hồ Chí Minh khơng dừng lại ở lịng trắc ẩn, mà còn
được nâng lên ở tầm cao nhận thức tư tưởng. Sống có nghĩa, có tình, giúp
người, cứu người, hướng tới giải phóng triệt để con người là động cơ mạnh
mẽ, là mục tiêu lí tưởng cao cả của Hồ Chí Minh: “Chúng ta tranh được tự do
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì”.


Tình u thương của Người cịn thể hiện đối với những người có sai
lầm khuyết điểm. Với tấm lịng bao dung của một người cha, Người căn
dặn chúng ta “ Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác chứ không
phải đập cho tơi bời” Người căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí u
thương lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên luôn chú ý đến phẩm
chất yêu thương con người.
Thứ tư là, tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc trưng của đạo đức cộng sản,
bắt nguồn từ vai trị của giai cấp cơng nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế chính là quan
hệ hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ, tương trợ với các dân tộc bị áp bức, với nhân
dân lao động các nước, với những người u hịa bình, cơng lý và tiến bộ trên
thế giới. Chủ nghĩa quốc tế chỉ có thể tốt đẹp khi mỗi quốc gia phải phát huy
tinh thần chủ động, tự lực tự cường và phải hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của

mình, chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, nước lớn.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế trong sáng phải gắn liền, thống
nhất với chủ nghĩa u nước chân chính. Người cho rằng, khơng thể có tinh
thần quốc tế trong sáng nếu khơng có tinh thần u nước chân chính. Chủ
nghĩa dân tộc heph hịi, nước lớn, biệt lập, kỳ thị chủng tộc đều là những
khuynh hướng cản trở việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, phá vỡ khối đoàn kết quốc tế, thậm chí dẫn đến tình trạng dối đầu, đối
địch giữa các quốc gia, dân tộc.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối, chủ trương đúng đắn, định hướng lâu dài cho việc bồi dưỡng tinh
thần đoàn kết quốc tế trong sáng ở mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.


1.2.2. Yêu cầu của Hồ Chí Minh về năng lực của người cán bộ
Hồ Chí Minh quan niệm người cán bộ khơng chỉ có đức mà cịn phải có
tài. Vì nếu chỉ có đức mà khơng có tài thì làm bất cứ việc gì đều gặp khó
khăn, có tài mà khơng có đức thì trở thành người vơ dụng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln dạy rằng muốn hồn thành nhiệm vụ cách mạng, người cán bộ
phải có đủ cả đức và tài, cả phẩm chất và năng lực không thể thiếu một mặt
nào. Có tài mà khơng có đức là có hại cho nước. Có đức mà khơng có tài cũng
như ơng bụt ngồi chùa khơng giúp ích gì được ai, người cán bộ tốt nhất thiết
phải là người hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phẩm chất năng lực của cán
bộ phải được thể hiện trên kết quả công tác thực tiễn. Tài năng của người cán
bộ được thể hiện tập trung ở năng lực lãnh đạo của họ.
Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “năng lực cơng tác”, “năng lực
làm việc” và gọn hơn là “năng lực” để chỉ năng lực lãnh đạo của người cán
bộ. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo. Đó là người
biết giải quyết có kết quả tốt cơng việc do mình phụ trách, đồng thời biết giúp
đỡ người khác. Cụ thể người cán bộ có năng lực lãnh đạo thì phải có trình độ
nhất định về mặt văn hóa, về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; về chuyên mơn

ngành mình phụ trách, đề xuất những ý tưởng lãnh đạo và xây dựng các chỉ
thị, nghị quyết của tập thể; đồng thời phải có năng lực tổ chức thực hiện nghị
quyết, thanh tra, kiểm tra, vận động quần chúng nhân dân và tổng kết hoạt
động thực tiễn … Có như thế mới hồn thành tốt nhiệm vụ, cơng tác được
giao. Như vậy, nói năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt thực chất là nói đến
khả năng hiểu biết lý luận, tổng kết thực tiễn, hoạch định chủ trương, chính
sách, nghị quyết và khả năng tổ chức, động viên quần chúng thực hiện tốt
nhiệm vụ của cách mạng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Cán bộ khơng có khả năng này không xứng đáng là
cán bộ cách mạng, là công bộc của dân. Bởi vì một trong những vai trị quan
trọng của cán bộ là người đem đường lối, chính sách của Đảng đến với nhân


dân, là “cầu nối” giữa Đảng với dân. Xét trên ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh địi
hỏi cao về tiêu chí này đối với một người cán bộ, đảng viên.
1.3. Nội dung của công tác cán bộ trong công tác xây dựng Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ là công việc quan trọng hàng đầu của
công tác cán bợ. Đây là quan điểm xuất phát và khó trong cơng tác cán bộ, vì
khơng hiểu và đánh giá đúng cán bộ thì khơng thể làm tốt cơng tác cán bộ.
Hiểu biết mình đã khó, hiểu biết người khác còn khó hơn nhiều. Vì vậy,
để đánh giá đúng cán bộ người đánh giá phải vô tư, trong sáng, “phải có độ
lượng vĩ đại”, “phải tự biết mình và phải sửa những khuyết điểm của mình”. “…
Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt
hay xấu”.
Muốn biết rõ cán bộ tốt hay xấu, muốn sử dụng và đánh giá đúng cán
bộ, thì phải tự biết mình tốt xấu thế nào, đặc biệt là chỗ xấu để sửa. Mình
càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng. Hiểu và đánh giá
đúng cán bộ phải khách quan khoa học.

Xem xét cán bộ phải xem xét tính chất, lịch sử và cơng việc của họ. Có
thể nói cái cách mà Hồ Chí Minh xem xét đánh giá cán bộ là hết sức cụ thể,
khách quan, tồn diện, phải tính tới cả sự vận động, phát triển của môi trường
và bản thân người cán bộ phù hợp với đời sống hiện thực ln biến đổi của
mỗi con người. Nhờ thế mà có thể tìm ra được người giỏi thực tài, cũng như
người yếu kém phải lịi ra.
Đem mợt cái khn khở nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi
người khác nhau. Cần khắc phục những bệnh sau đây khi xem xét cán bộ: tự
cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lịng u ghét của mình mà đối với
người; đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi
người khác nhau.


Bởi vì đã mắc vào các căn bệnh đó thì sẽ khơng cịn sáng suốt, trở
thành ích kỷ, chỉ thấy mình cái gì cũng nhất, xuất phát từ cái tơi của mình, vì
mình mà đánh giá cán bộ thì khơng còn sáng suốt để cân nhắc chọn người tài
giỏi cho cơng việc. Khi đó, Hồ Chí Minh đã ví, mắc “...một trong bốn bệnh
đó thì cũng như mắt đã mang kính màu, khơng bao giờ thấy rõ cái mặt thật
của những cái mình trơng...”.
Hiểu cán bộ một cách tồn diện giúp ta phân biệt được cán bộ làm được
việc và cán bộ tốt. Hồ Chí Minh nghiêm ngặt địi hỏi cán bộ có thẩm quyền ở
các cấp trong việc nhận xét đánh giá cán bộ trước hết phải tu dưỡng rèn luyện
để đánh giá cho đúng mình, bởi đã khơng tự biết mình thì khó mà biết người.
Từ việc nhận thức như vậy có thể giúp chúng ta phân biệt được cán bộ làm
được việc và những cán bộ tốt.
Có thể nói, cách hiểu và đánh giá đúng về cán bộ đã được Hồ Chí Minh
khát qt một cách tồn diện, cả về biện pháp tiêu chí đánh giá cũng như yêu
cầu đối với người đánh giá. Việc xem xét, đánh giá cán bộ phải làm thường
xuyên để từ đó phát huy đúng năng lực và sở trường của cán bộ trong công
tác là hết sức quan trọng. Theo Hồ Chí Minh đánh gí cán bợ là việc làm cần

thiết, nhưng rất khó khăn. Có đánh giá đúng cán bộ thì mới có cơ sở đề bạt và sử
dụng cán bộ đúng người, đúng việc, đúng lúc.
1.3.2. Khéo dùng cán bộ
Là phải lựa chọn đúng; sử dụng đúng và tạo điều kiện cho cán bộ phát
triển. Cán bộ tốt là tài sản vô giá của Đảng, của đất nước. Người xưa có câu:
“Nhân tài là nguyên khí của quốc gia”. Vì vậy khéo dùng người tài, khéo dùng
cán bộ là công việc có ý nghĩa quyết định. Đây là yêu cầu đặt ra đúng người
đúng việc.
“Khéo” ở đây không có nghĩa là chỉ dùng cán bộ “một bề”, mà phải
“dụng nhân như dụng mộc” tức là: “Dùng người cũng như dùng gỗ. Người
thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”. Thấy chỗ


tốt, chỗ xấu của cán bộ, đặt đúng người, đúng việc, tuỳ tài mà dùng người, từ
đó để nâng chỗ tớt, sửa chỡ xấu.
Khéo dùng cán bộ cịn thể hiện ở chỗ biết kết kợp các thế hệ cán bộ
một cách đúng đắn. Người dạy, trong đội ngũ cán bộ của Đảng có cán bộ già,
có cán bộ trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt
lãnh đạo, được rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán
bộ trẻ tuy chưa có một số ưu điểm như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái,
nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập, cho nên tiến bộ rất nhanh.
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở trọng dụng nhân tài cả trong và ngồi
Đảng. Theo Người, bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của
cách mạng là phải dùng..., vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc. 
Khéo dùng cán bộ là còn phải mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ
tiêu chuẩn và có triển vọng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dùng cán bộ đúng: Phải có độ lượng vĩ
đại, khơng có thành kiến với cán bộ. Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần
gũi những người mình khơng ưa. Phải có tính chịu khó dạy bảo để nâng đỡ

những cán bộ kém. Phải sáng suốt để khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán
bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật để cán bộ gần gũi mình. Mục đích khéo
dùng cán bộ là để cán bộ làm được việc, để thực hành tốt chính sách của Đảng
và Chính phủ. Ḿn vậy phải làm tốt những việc sau: Khiến cho cán bộ cả gan
nói, cả gan đề ra ý kiến. Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc.
Khơng nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới.
Phải có gan cất nhắc cán bộ. Nếu hiểu đúng cán bộ đã cần đến “độ
lượng vĩ đại” thì để cất nhắc đúng cán bộ thật sự phải “có gan”, bởi vì cất
nhắc đúng thì được việc, được người, được tổ chức, ngược lại, cất nhắc sai thì
mất việc, hỏng người, hại tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, có gan cất nhắc cán bộ
nghĩa là người cán bộ được cất nhắc có thể cịn điểm yếu, song phải biết được


khuyết điểm của họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ. Có gan cất
nhắc là khơng sợ người được cất nhắc sẽ vượt mình.
“Có gan” khơng có nghĩa là làm nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng khơng vì
danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cất nhắc cán bộ,
phải vì cơng tác, vì tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái”.
Sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ,
giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người cịn nhắc nhở: “Cất nhắc cán bộ,
khơng nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ.
Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc
họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên, thả xuống ba lần như thế
là hỏng cả đời”. “Khéo dùng” tức là làm sao cho cán bộ vui vẻ, thoải mái yên
tâm làm tốt mọi công việc, cống hiến được nhiều nhất cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của nhân dân. Muốn làm được điều này, theo Hồ Chí Minh,
những cá nhân và tở chức làm cơng tác cán bộ và liên quan tới công tác cán bộ
phải có cái tâm trong sáng và phương pháp đúng, phải có tư cách đạo đức và thái
độ đúng đắn.
1.3.3. Huấn luyện cán bộ

Đây là công việc gốc của Đảng. Theo Hồ Chí Minh muốn có cán bộ tốt
thì Đảng phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng”. Theo Người, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời
phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ
nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương, địa phương và cơ sở... Huấn
luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ
trong những lĩnh vực cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là cơng việc thường xun, cơng
phu, lâu dài, cần phải kiên trì và bền bỉ mới có kết quả tốt. Bởi vì: “Không
phải vài ba tháng hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt...
cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”.


Người đã đưa ra những vấn đề căn bản trong công tác huấn luyện, huấn
luyện là phải “huấn” và “luyện”. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch
những vết xấu xa trong đầu óc. Hồ Chí Minh nêu lên những vấn đề căn bản
trong công tác huấn luyện: Thứ nhất, phải thiết thực chu đáo trong công việc
huấn luyện. Phải trả lời được 4 câu hỏi: huấn luyện ai? Ai huấn luyện? Huấn
luyện gì? Huấn luyện thế nào?
Người chỉ rõ, học tập ở trường của Đoàn thể phải biết tự động học tập.
Phải hiểu “học để làm gì?”, “học ở đâu?”.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở BAN
TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2010 – 2016

2.1. Đặc điểm, tình hình Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình
(thực hiện theo Quy định 1247-QĐ/TU ngày 14/4/2014 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy là cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ mà trực

tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh uỷ về cơng tác
xây dựng Đảng thuộc các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, lý luận
chính trị, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, khoa giáo, biên soạn lịch sử
đảng bộ địa phương. Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên
giáo của Tỉnh uỷ.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy có nhiệm vụ chủ yếu là: Nghiên cứu, đề xuất;
tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát; thẩm định, thẩm tra; phối
hợp và thực hiện một số nhiệm vụ do Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ giao.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy gồm có Lãnh đạo
Ban (05 đồng chí) và các phịng chun mơn (07 đơn vị) gồm Văn phịng;
Phịng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; Phịng Tun truyền; Phịng Văn
hóa, văn nghệ - Báo chí, xuất bản; Phịng Khoa giáo; Phịng Thơng tin cơng


tác tuyên giáo; Phòng Chuyên trách Chỉ thị 05. Căn cứ quy định và số lượng
cán bộ, công chức, mỗi phịng có trưởng phịng và từ 1 đến 3 phó trưởng
phịng. Tổng số biên chế cán bộ, cơng chức được gia hiện nay là 32 biên chế,
ít hơn 01 biên chế so với chỉ tiêu được giao. Trong đó, có 30 cán bộ, công cức
và 02 hợp đồng 68/CP.
Chi bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trực thuộc Đảng ủy Khối Cơ quan tỉnh,
hiện có 30 Đảng viên đang sinh hoạt, ban chi ủy có 03 đồng chí, trong đó có
01 đồng chí Bí thư kiêm Phó trưởng Ban Tun giáo Tỉnh ủy, 01 đồng chí
Phó bí thư kiêm Chánh Văn phịng Ban và 01 đồng chí Ủy viên là Trưởng
phịng Khoa giáo.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức của Ban Tun giáo Tỉnh ủy có 16
đồng chí có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ (chiếm 50%), 13 đồng chí có trình độ
chun mơn đại học (chiếm 40,6%). Về lý luận chính trị: 16 đồng chí có trình
độ cử nhân, cao cấp lý luận chính trị (chiếm 50%); về ngạch cơng chức có 12
đồng chí giữ ngạch chun viên chính (chiếm 37,5%), 14 đồng chí giữ ngạch
chuyên viên (chiếm 43,75%).

Hàng năm, tập thể lãn đạo và cán bộ, công chức Ban Tun giáo Tỉnh
ủy ln hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tổ chức Đảng luôn đạt chi
bộ trong sạch vững mạnh; các tổ chức cơng đồn ln được công nhận là
những tổ chức vững mạnh; cơ quan liên tục đạt danh hiệu cơ quan văn hố,
khơng có cán bộ nào vi phạm quy định cũng như pháp luật của nhà nước.
2.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong công tác
xây dựng Đảng ở Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị có ý nghĩa quyết định
của đội ngũ cán bộ đối với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phịng, xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã
hội, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình đã tổ chức chỉ đạo, quán triệt, tuyên
truyền, phổ biến quan điểm, nguyên tắc của Đảng và tư tưởng của Hồ Chí


Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ vào thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tại
Ban; trước hết là giáo dục ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với Đảng, với
dân; thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ trong sạch, vững mạnh, cơ cấu hợp lý, quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ trẻ
đáp ứng với yêu cầu phát triển của đơn vị. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2010 2016 công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Ban đã có những ưu điểm và hạn
chế tồn tại như sau:
2.2.1. Ưu điểm
Căn cứ kế hoạch và hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã quán triệt đến tồn thể cán
bộ, cơng chức, đảng viên tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa XI) và đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/CW của Bộ Chính
trị (khóa XII); thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị cũng như nhiệm vụ chun
mơn đã được Đảng và Nhà nước giao phó.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy ln

có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, mục tiêu, lý tưởng và con đường mà
Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn đó là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội“; ln đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; ln tích cực tun
truyền, đấu tranh, bảo vệ và tổ chức thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức của Ban đã khắc
phục những khó khăn, hăng say, nhiệt tình trong cơng tác, cống hiến hết mình vì
sự nghiệp xây dựng đơn vị, đưa đời sống vật chất cũng như tinh thần của tập thể
cán bộ, công chức ngày một nâng cao. Đa số cán bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
vẫn giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng có lối sống lành mạnh, thẳng thắn,
khiêm tốn, gắn bó với quần chúng nhân dân, thực hiện những điều mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy.



×