Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Bảo đảm quyền con người của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.11 KB, 60 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“ Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” là hạnh phúc gia đình, là chủ
tương lai của đất nước kế thừa sự nghiệp xậy dựng bảo về đất nước.Để trẻ em
trở thành người chủ tương lai của đất nước, công dân tốt, xứng đáng là người
kế tục sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc thì đòi hỏi mỗi gia đình, nhà trường và tổ
chức xã hội phải thường xuyên chăm lo giáo dục, đồng thời có trách nhiệm
bảo vệ trẻ em.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến viêc bảo vệ quyền lợi trẻ em và
đã có nhiều cố gắng nỗ lực rất lớn trong lĩnh vực này. Một trong những biểu
hiện rõ nét nhất là nước ta sớm phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em,
cam kết với cộng đồng quốc tế, làm tất cả những gì có thể làm tốt hơn nữa
công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ các quyền trẻ em. Trong giai
đoạn hiện nay, khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển, nước ta trên con đường
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội văn minh thì con người đóng vai trò là nhân tố quyết định
đến mục tiêu phát triển đất nước. Cuộc sống thay đổi, đời sống con người
được nâng cao về mọi mặt. Dẫu vậy bên cạnh đó thì vẫn có nhiều vấn đề còn
tồn tại về việc liên quan đến bảo về quyền con người đặc biệt là bảo vệ quyền
trẻ em.
Trẻ em là mầm móng tương lai cho sự phát của đất nước. Tương lai của
mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em. Trong nhiều năm qua việc chăm sóc trẻ em được quan tâm ở những
tầm mức khác nhau và ở nhiều mặt như miễn giảm chi phí chữa bệnh, học phí
đối với con hộ nghèo, được khuyến khích đưa trẻ đến trường, phổ cập giáo
dục tiểu học… Đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ vào đời
sớm thì xã hội càng mở rộng vòng tay trong điều kiện có thể như: phát triển
nâng cao các mái ấm, nhà nuôi, trường tương lai, viện mồ côi… Điều đó cho
thấy đời sống xã hội ngày càng phát triển, trẻ em cũng có điều kiện được quan
1
1


tâm, chăm lo nhiều hơn. Song bên cạnh đó do nhiều nguyên nhân khách quan
cũng như chủ quan mà tình trạng xâm hại đến trẻ em xảy ra còn nhiều đang là
vấn đề được xã hội quan tâm như: nạn xâm phạm tình dục trẻ em, hay các vụ
bạo hành trẻ về thể xác lẫn tinh, xảy ra ngay tại chính các gia đình, trường
học, các hành vi phạm pháp do trẻ em thực hiện lên tới con số đáng báo
động . Pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể chặt chẽ đối với các
hành vi xâm phạm đến quyền con người của trẻ em, nhưng bên cạnh đó pháp
luật còn nhiều vướng mắc nên dẫn đến những bấtcập trong khi thực thi quy
định của pháp luật trong quá trình xét xử, quyêt định hình phạt, thi hành án
ảnh hưởng đến quyền lợi trẻ em. Để làm rõ những vấn đề trên tôi đã chọn đề
tài “ Bảo đảm quyền con người của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp hình sự”.
2. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích:
Nhằm khắc phục những vướng mắc của pháp luật hiện hành
Bảo vệ toàn diện quyền lợi của trẻ em.
- Nhiệm vụ:
Làm rõ các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của trẻ em trong tư
pháp hình sự:
Phân tích làm rõ nội dung các thiết chế đảm bảo cho quyền con người
của trẻ em trên cơ sở nêu bật nội dung và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ
em trong luật hình sự, trong tố tụng hình sự, trong luật thi hành án hình sự.
Làm rõ thực trạng bảo vệ quyền trẻ em: những kết quả đạt được trong
hoạt động bảo vệ quyền con người của trẻ em, từ đó có những phương thức
bảo vệ tốt hơn.
Kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
- về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý thì đề tài sẽ giới hạn phạm vi nghiên
cứu như sau:
+) Về không gian: nghiên cứu trong phạm vi áp dụng pháp luật Việt Nam
2

2
+) Về thời gian: nghiên cứu bộ luật hình sự 1985,1999, 1999 sửa đổi bổ
sung 2009, luật tố tụng hình sự 2003, pháp lệnh thi hành án hình sự 1993, luật
thi hành án hình sự 2010.
- Về áp dụng pháp luật hiện hành: Đề tài sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu
như sau:
+) Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
trên cả nước nói chung và địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, cụ
thể là tại Tòa Án nhân dân huyện Thanh Chương
+) Thời gian nghiên cứu: số liệu 4 năm trở lại đây( giai đoạn 2010-2013)
4. Phương pháp nghiên cứu
+) Phương pháp phân tích : trong đề tài này sẽ sử dụng phương pháp
phân tích từng nội dung trong phần nội dung của đề tài.
+) Phương pháp so sánh: trên cơ sở phân tích thì so sánh để thấy được sự
thay đổi của pháp luật theo thời gian có quy định khác nhau trong việc bảo về
quyền của trẻ em.
+) Phương pháp tổng hợp thống kê: trên cơ sở các số liệu thực tiễn thu
thập được.
5.Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đối với các nhà làm luật thì sẽ giúp cho các nhà làm luật có cái nhìn
mới về các quy định bảo về quyền lợi của trẻ em, từ đó có thể sửa đổi luật
thực định cho phù hợp, góp phần hoàn thiện pháp luật.
+) Giúp người nghiên cứu cũng như bạn đọc hiểu sâu hơn pháp luật về
vấn đề nghiên cứu.
+) Giải quyết được một vấn đề trong xã hội là bảo về quyền lợi của trẻ
em từ đó giúp ổn định xã hội loại bỏ tội phạm xảy ra với trẻ em.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận của đề tài thì phần nội dung gồm có
2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo đảm quyền con người của trẻ

em trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
3
3
Chương 2: Thực trạng vấn đề đảm bảo quyền con người của trẻ em
trong giai đoạn 2010-2013. Các giải pháp kiến nghị để nâng cao hiệu quả việc
đảm bảo quyền con người của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

4
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC
TƯ PHÁP HÌNH SỰ
1.1. Những thiết chế đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người
của trẻ em nói riêng
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ là đường lối nhất quán, xuyên suốt trong
sự nghiệp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới thành
lập(3-2-1930) dù trong hoàn cảnh kháng chiến có khó khăn, nhiệm vụ lớn
nhất lúc đó là giành chính quyền nhưng Đảng vẫn giành mối quan tâm rất lớn
cho chính sách đối với trẻ em hay còn gọi là nhi đồng, thiếu niên, thể hiện
thái độ cuộc cách mạng nhân dân xác định rất lớn. Trong chương trình Việt
Minh với tư cách là một cương lĩnh vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền do Đảng cộng sản lãnh đạo được đưa ra trong những ngày
tiền khởi nghĩa đã xác định học sinh, nhi đồng như hai tầng lớp nhân dân –
lực lưỡng của cách mạng: đối với học sinh chính sách của Việt Minh là “ bỏ
học phí, mở thêm trường học, giúp đỡ học trò nghèo” [1, trang.419 ] đối với
nhi đồng thì chính sách là “được Chính phủ chăm sóc đặc biệt về thể lực và trí
dục” [1,trang. 442]. Trong bài diễn ca Hồ Chí Minh viết, ý tưởng này đã
thành lời ca thân thiết:

“ Trẻ em, bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi Chính phủ giúp cho đủ đầy
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trợ nghèo, hàn nho” [1, trang.422]
Như vậy, vấn đề trẻ em và quyền trẻ em nói chung nói trong Chương
trình Việt Minh mang dấu ấn rất đậm nét, đặc thù của Hồ Chí Minh. Thái độ
cách nhìn nhận của Người, phản ánh vị trí của vấn đề trong đường lối chung
của Cách mạng, vừa thể hiện cả tấm lòng, sự quan tâm, niềm hy vọng của
Người đối với thể hệ mần non, người chủ tương lại của đất nước,của chính
quyền [2, trang.18]. Cách mạng tháng Tám thành công giành chính quyền về
5
5
tay nhân dân lao động, tiến tới giành độc lập tại miền Nam và thống nhất đất
nước( năm 1975), cả nước bước vào thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhất quán với tư tưởng về con người, về trẻ em Đảng ta lại có thêm những
điều kiện mới để chăm lo, giáo dục trẻ em. Năm 1979, chính sách, đường lối
của Đảng về trẻ em được cụ thể hóa trong” Pháp lệnh Bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em”. Có thể coi pháp lệnh này là một trong những nền tảng pháp lý
đầu tiên cho công tác Bảo vệ, Chăm sóc, Giáo dục trẻ em. Cho đến nửa cuối
những năm 80, Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc đổi mới Nhà nước về
nhiều phương diện. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của trẻ em cũng là một trong
những bộ phận quan trong của công cuộc đổi mới này. Đường lối, chính sách
của Đảng đối với trẻ em được đổi mới về cả chiều sâu lẫn chiều rộng và được
cụ thể hóa trong pháp luật, hàng loạt các văn bản có hiệu lực pháp lý cao ra
đời nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về trẻ em vào trong
pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế- xã hội cũng như chế
độ chính trị. Vì vậy chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong suốt
một thời gian dài kể từ khi đổi mới cho đến nay.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới phê
chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 29/02/ 1990. Từ đó đến nay, mặc

dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc đưa
tinh thần và nội dụng của Công ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
và luật pháp quốc gia.
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong
Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và 2 nghị định thư không bắt buộc
bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, Nghị định thư về sự tham gia
của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác
định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các
quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền
trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về độ tuổi được
6
6
coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC.
Quyền trẻ em được chế định dưới 4 dạng, trong đó 2 dạng đầu là quyền
trực tiếp; hai dạng sau, tạm gọi là quyền gián tiếp hay quyền thụ động:
1.Quyền: được sống và phát triển, có họ tên và quốc tịch,
2.Tự do (hay quyền cơ bản): tự do tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín
ngưỡng, tôn giáo,
3.Trách nhiệm của cha mẹ và xã hội: thực hiện các quyền trẻ em, có
quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp,
4. Bảo vệ của cha mẹ và xã hội: khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục,
khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do, khỏi ảnh hưởng
của xung đột vũ trang,
Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 4 nhóm: a/ Nhóm
quyền được sống hay được tồn tại (các Điều 5, 6, 24, 26, 27); b/ nhóm quyền
được bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 32, 33, 34,
35, 36, 37, 38, 39, 40); c/ nhóm quyền được phát triển (các Điều 17, 18, 28,
29, 31, 32); d/ nhóm quyền được tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30)
Trên cơ sở các quy đinh của quốc tế về trẻ em cũng như phù hợp với

điều kiện xã hội, và sự phối hợp với các ngành luật khác đảm bảo sự thống
nhất trong pháp luật. Đặc biệt là nhu cầu tâm sinh lý, sự phát triển khả năng
nhận thức điều khiển hành vi của trẻ em mà theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày 115/6/2004, có hiệu lưc
ngày 01/01/2005( thay luât bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991) quy
định: Trẻ em là công dân dưới 16 tuổi, mọi trẻ em không phân biệt đều được
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, đó là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các
cơ quan nhà nước và công dân, các quyền của trẻ em phải được tôn trọng thực
hiện, mọi hành vi xâm hại trẻ em đều bị nghiêm trị.
Theo đó, quyền trẻ em có thể được khái quát như sau: quyền trẻ em là
tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và
an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không còn là tiếp nhận thụ
7
7
động lòng nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên tham gia
tích cực vào quá trình phát triển của xã hội.
Theo đó quyền trẻ em bao gồm:
Quyền được sống còn: bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống
bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát
triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc
sức khoẻ. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời.
+ Quyền được phát triển: gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát
triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi,
tham gia các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ
để có thể phát triển hài hoà.
+ Quyền được bảo vệ: bao gồm những quy định như trẻ em phải được
bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình
dục, lạm dụng matuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em
còn được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư. Quyền

được bảo vệ bao gồm cả không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng trong trường
hợp trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ.
+ Quyền được tham gia: tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ
quan điểm và ý kiến về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình.
Trẻ em còn có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp hoà bình, được tạo điều
kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp.
1.1.2. Khái niệm quyền con người
Quyền con người( humun rights) chính là sự kết tinh của những giá trị
văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới thông qua một quá trình lịch sử lâu
dài của nhân loại. Kể từ khi được Liên hợp quốc chính thức thừa nhận vào
năm 1948, với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn Thế giới về quyền con
người( Universal Declaration of Human right- UDHR) quyền con người đã
phát triển như một đạo đức, chính trị, pháp lý và như một định hướng nhằm
8
8
phát triển một thế giới tự do khỏi sợ hãi và tự do là điều mong muốn. Ngày
nay trong tuyên ngôn của Hội nghị Thế giới(Aó) về quyền con người năm
1993 và các nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được thông qua nhân dịp kỷ
niệm 50 năm ngày ra đời cuả Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người(1948-1998). Tuy nhiên cho đến nay cách hiểu về quyền con người vẫn
chưa có sự thống nhất. Một mặt, đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về nguồn gốc, bản chất của quyền con người, mặt khác quyền con người được
xem xét dưới gốc độ khác nhau như: triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật…
Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc
tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả thuộc tính
của quyền con người. Tùy vào tính chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực
nghiêm cứu mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Tuy nhiên ở cấp độ quốc tế, định nghĩa phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của
văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR). Theo định
nghĩa này: “ Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng

bảo vệ các cá nhân và các nhóm người trước những hành động hoặc sự mặc
làm tổn hại đến nhân phẩm, quyền lợi và tự do cơ bản” của con người.
Còn một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo
học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản không thể
tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người.
Ở Việt Nam đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người.
Trong tác phẩm giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác
giả định nghĩa quyền con người là “ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp luật quốc tế”.
Tuy nhiên có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan điểm
chung của cộng đồng quốc tế quyền con người được xác định dựa trên hai bình
diện đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức quyền con người là
giá trị xã hội cơ bản, vốn có( những đặc quyền) của con người như nhân phẩm,
bình đẳng xã hội, tự do…dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền con người
9
9
những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con
người cũng được xác định như là một chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị
nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người
bằng pháp luật trong tư pháp hình sự với các luận cứ khoa học thì đã từ lâu
các chính trị gia và các luật gia chân chính, cũng như các chiến sĩ bảo vệ nhân
quyền trên thế giới luôn coi các quyền tự nhiên của con người là những giá trị
cao quý nhất của nên văn minh nhân loại, đồng thời là đối tượng nghiên cứu
quan trọng của nhiều nghành khoa học, trong đó có chính trị học và luật học.
Ngày 18/12/1948 tức là chỉ 3 năm sau khi Liên Hợp Quốc(LHQ) được thành
lập (1945) tổ chức quốc tế lớn nhất của các quốc gia trên thế giới đã thông
qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền mà trong khi đó khẳng định

việc bảo vệ các quyền và tự do của con người bằng pháp luật là nhiệm vụ
chung của tất cả các quốc gia và các dân tộc[3]đã nhấn mạnh : “ Điều cốt
yếu là quyền con người cần được pháp luật bảo vệ để con người không buộc
phải nổi dậy như là biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp
lực” [3]. Như vậy cùng với góc độ chính trị học này của việc bảo vệ các
quyền của con người bằng pháp luật nói chung thì góc độ pháp lý của việc
nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề về bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự chính là phải đưa ra được
sự phân tích những vấn đề đó cùng một lúc dưới khía cạnh của các ngành luật
hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự.
Quyền con người trong tư pháp hình sự là một lĩnh vực của quyền con
người.Và cụ thể quyền con người của trẻ em trong tư pháp hình sự Việt Nam
được thể hiện cụ thể qua các lĩnh vực sau.
- Đối với lĩnh vực hình sự:
+ Trẻ em với vấn đề quyền con người trong luật hình sự Việt Nam.
Luật hình sự bảo đảm quyền con người của trẻ em dưới 2 góc độ đó là:
10
10
khía cạnh bảo vệ quyền lợi của trẻ em khỏi sự xâm hại của tội phạm và khía
cạnh khi trẻ em là chủ thể của tội phạm
+ Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự với vấn đề quyền con người
của trẻ em khi trẻ em phạm tội.
- Đối với lĩnh vực Tố tụng hình sự:
+ Quyền con người trong thủ tục tố tụng đối với trẻ em về việc quy định
áp dụng biện pháp ngăn chặn khi trẻ em phạm tội, quyền bào chữa tại phiên
tòa và thành phần hội đồng xét xử bắt buộc khi trẻ em phạm tội.
- Đốivới lĩnh vực Thi hành án.
Là các quy định có lợi, đặc thù khi trẻ em vào chấp hành án trong tù
hay các biện pháp tư pháp được áp dụng với trẻ em phạm tội.
1.1.3. Khái niệm các thiết chế bảo đảm quyền con người của trẻ em

trong tư pháp hình sự
Dựa vào những nội dung vừa nêu trên, có thể xây dựng khái niệm thiết
chế bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự như sau:
" Thiết chế bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự là
những yếu tố ảnh hưởng đến sự bảo vệ và phát triển quyền con người trong
lĩnh vực này. Do đó, các thiết chế này bao gồm:
- Hệ thống các quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự điều
chỉnh vấn đề về quyền con người.
- Yếu tố con người, bao gồm chủ thể đại diện cho quyền lực Nhà nước
và chủ thể đại diện cho bị can bị cáo( bao gồm cả bị cáo) mà ở đây chính là
đại diện cho trẻ em
- Cơ sở vật chất, kĩ thuật ".
Là hệ thống các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công
dân( trẻ em) và các quy định bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật
và cơ chế đảm bảo cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế.
1.1.4. Nội dung các thiết chế đảm bảo quyền con người của trẻ em trong
hoạt động tư pháp hình sự
11
11
Đảm bảo Quyền con người của trẻ em trong hoạt động tư pháp là một
lĩnh vực đảm bảo quyền con người, quyền công dân nói chung. Vì vậy, đảm
bảo quyền con người của trẻ em trong hoạt động tư pháp phải hội tụ đầy đủ
các yếu tố điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân nói chung.
Đồng thời là một bộ phận của cái chung, nên đảm bảo quyền con người của
trẻ em trong hoạt động tư pháp còn bao gồm các thiết chế sau:
• Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình
sự
- Vai trò của pháp luật đối với quyền con người của trẻ em trong tư
pháp hình sự:
+ Pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con người.

+ Thông qua pháp luật, công dân mới có cơ sở pháp lý để thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật trong
lĩnh vực hoạt động tư pháp, là cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Là công cụ sắc bén, là cơ sở pháp lý để các cơ quan tư pháp hình sự,
cơ quan bổ trợ tư pháp hình sự thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng để thực hiện và
bảo vệ quyền con người.
Để đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp, trước hết phải
xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này. Đó
chính là chuẩn mực chung, công bằng đối với tất cả mọi người, vừa cần đến
Nhà nước để thực hiện công bằng xã hội vừa cần đến để hạn chế sự lạm quyền.
- Sự ảnh hưởng, tương tác của pháp luật với vấn đề quyền con người
của trẻ em.
Thứ nhất, pháp luật về lĩnh vực quyền con người trong tư pháp hình sự càng
hoàn thiện thì việc bảo vệ và phát triển quyền con người của trẻ em được đảm bảo
thực thi có hiệu quả trên thực tế. Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của trẻ em,
pháp luật phải được quy định đầy đủ, cụ thể, trong đó có các quyền quan trọng
12
12
như: Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, quyền
được có người bào chữa khi trẻ em phạm tội, quyền được miễn một số hình
phạt, quyền kháng cáo các bản án đang có hiệu lực pháp luật thông qua người
bào chữa Điều này thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội.
Thứ hai, khi trẻ em được bảo vệ thông qua các quyền con người nói
chung và các quyền con người trong tư pháp hình sự nói riêng với các quy
định chặt chẽ của pháp luật yêu cầu mọi người phải tuân theo thì các quyền
của trẻ em sẽ hạn chế được sự xâm hại.
Tóm lại, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống các quy phạm
pháp luật về quyền con người nói chung và quy phạm pháp luật về quyền con

người của trẻ em trong hoạt động tư pháp là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để
từ đó tổ chức thực hiện các đảm bảo khỏi mọi sự xâm hại tới quyền lợi trẻ em.
Cùng với việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật về quyền con người
trong hoạt động tư pháp, một yêu cầu quan trọng đặt ra là phải thường xuyên
làm tốt công tác hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
này để kịp thời loại bỏ những quy phạm pháp luật không còn phù hợp, sửa
đổi, bổ sung những quy phạm pháp luật chưa sát hợp với thực tiễn, làm cơ sở
cho việc ban hành mới những quy phạm pháp luật do nhu cầu thực tiễn của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đặt ra cho lĩnh vực này.
• Về yếu tố con người
Để đảm bảo quyền con người của trẻ em trong hoạt động tư pháp, yếu tố
quyết định vẫn là con người trong việc tổ chức và tiến hành các hoạt động tư
pháp hình sự.
Hoạt động tư pháp mà đặc trưng là hoạt động tố tụng, là toàn bộ trình tự,
thủ tục giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của công
dân trước Tòa án, trong đó một bên bao giờ cũng là cơ quan nhà nước và bên
kia là người có quyền và nghĩa vụ pháp lý cần được phân xử bởi Nhà nước. Do
đó, con người trong hoạt động tư pháp bao gồm hai nhóm người sau:
- Chủ thể đại diện cho quyền lực Nhà nước trong tư pháp hình sự, đây là
13
13
chủ thể đảm bảo quyền con người.
Chủ thể này là quan trọng nhất trong các thiết chế ảnh hưởng đến quyền
con người trong tư pháp hình sự vì chủ thể này là những người hiện thực hóa
pháp luật, tức là pháp luật có được thực thi đúng trên thực tế hay không là phụ
thuộc vào họ. Chủ thể này vừa là những thủ phạm vi phạm quyền con người,
đồng thời cũng có vai trò cốt yếu trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Theo pháp luật tư pháp hình sự Việt Nam, chủ thể đại diện cho quyền
lực Nhà nước bao gồm các cơ quan sau:
+ Tòa án nhân dân: là cơ quan có quyền xét xử duy nhất, là nơi phán

quyết tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực tố tụng.Cho nên, Tòa án
luôn luôn là trung tâm của hoạt động tư pháp. Thông qua hoạt động xét xử,
tòa án nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế thống nhất, bảo
vệ quyền và lợi ích của trẻ em, bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền phát
triển, học tập của trẻ em. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu, tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân nhằm thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhất
chức năng xét xử của hệ thống Tòa án là yêu cầu đặc biệt quan trọng.
+ Viện kiểm sát nhân dân: là cơ quan công tố và kiểm sát tư pháp, bảo
đảm các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của
trẻ em đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Do đó, Viện kiểm sát nhân
dân là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự.
+ Cơ quan điều tra: là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống tư
pháp hình sự trong việc tiến hành điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho
hoạt động truy tố, xét xử đối với người phạm tội là trẻ em trước Tòa án, điều
này nó ảnh hưởng rất lướn đến tâm sinh lý của trẻ em nên hoạt động cơ quan
điều tra phải thực hiện theo đúng quy định thủ tục tố tụng cho trẻ em.
+ Cơ quan thi hành án: cơ quan này bảo đảm cho các bản án, quyết định
của Tòa án được thực thi trên thực tế.
Trong hoạt động bảo đảm quyền con người cho trẻ em thì đây là nhóm
14
14
chủ thể trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ, do đó sự nghiêm minh,
khách quan đặt ra cho nhóm chủ thể này là nhu cầu thiết yếu.
+ Thứ hai, chủ thể đại diện cho quyền lợi của trẻ em, họ tham gia tố tụng
vì có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến sự phán xét của các cơ quan
tiến hành tố tụng.
Quyền con người của người tham gia tố tụng được thể hiện rõ rệt nhất
thông qua quyền được xét xử công bằng.
Theo khái niệm khoa học pháp lý về quyền được xét xử công bằng như

sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội
trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư
pháp (công an, công tố và toà án), được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi
nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể (như được bảo đảm quyền bào
chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi toà án độc lập, không thiên
vị ) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công bằng, cũng như các quyền và
lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân. Bao gồm tập hợp một số quyền như sau:
- Một số quyền trong giai đoạn trước xét xử: Không bị bắt hoặc giam giữ
vô cớ, bảo đảm quyền tự do và an toàn về thân thể của trẻ em, không bị tra
tấn, bị đối xử tàn ác hay vô nhân đạo
- Quyền bào chữa tại phiên tòa( yêu cầu có người bào chữa kh trẻ em
phạm tội).
- Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên.
- Quyền kháng cáo thông qua người bào chữa.
Ngoài ra, để đảm bảo QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngoài các
quyền được quy định trong pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng còn
được làm những gì mà pháp luật không cấm.
• Về cơ sở vật chất, kỹ thuật của hoạt động tư pháp hình sự
Cơ sở vật chất kỹ thuật so với 2 thiết chế trên tuy không quan trọng bằng
nhưng nó cũng là một bộ phận quan trọng, nó phục vụ hoạt động điều tra, xét
xử, thi hành án hình sự được thể hiện qua các khía cạnh cụ thể sau.
15
15
- HĐTP gắn liền với quá trình hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án và các HĐTP khác, nhằm các vi phạm pháp luật để giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Cho nên, HĐTP đòi hỏi một khối lượng cơ sở vật chất kỹ
thuật rất lớn. Nếu cơ sở vật chất kĩ thuật không đáp ứng được yêu cầu thì sẽ
gây rất nhiều khó khăn như:
+ Với hoạt động điều tra: xảy ra các tình trạng điều tra không chính xác,

điều tra thiếu tình tiết quan trọng, thời gian điều tra lâu hoặc có thể là không
thể tiến hành điều tra do kĩ thuật không hiện đại, không phù hợp với trình độ
tội phạm ngày càng tăng.
+ Với hoạt động xét xử: thiếu cơ sở vật chất thì hoạt động xét xử ít được
diễn ra, ví dụ như có nhiều vụ án cần được đưa ra xét xử nhưng lại có ít các
hội trường xét xử nên các vụ án phải rất lâu sau mới được xét xử và đôi khi
chất lượng của các phiên tòa xét xử không cao. Điều này ảnh hưởng đến tính
răn đe của pháp luật đối với những người phạm tội, không đáp ứng được nhu
cầu xét xử các vụ án đang ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng.
+ Đối với hoạt động thi hành án: nếu không có hoạt động thi hành án thì
hoạt động điều tra và xét xử đều trở nên vô nghĩa vì các bản án, quyết định
của Tòa án không được thực thi trên thực tế. Thực tế cho thấy, hoạt động thi
hành án gặp nhiều khó khăn trên thực tế như thiếu nhà tạm giữ, tạm giam, các
phương tiện công cụ phục vụ nếu cơ sở vật chất, kĩ thuật không đáp ứng
được chất lượng, số lượng thì đó sẽ là những kẽ hở cho những người phạm tội
trốn tránh trách nhiệm.
Chỉ trên cơ sở đáp ứng được cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật thì các cơ
quan tư pháp hình sự mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi các mối quan hệ cần được giải quyết
trong HĐTP đều gắn liền với thành quả phát triển của khoa học, kỹ thuật.
Chỉ khi nào cơ sở vật chất kỹ thuật được đáp ứng thì hoạt động của hệ
thống tư pháp hình sự mới đảm bảo được hiệu lực và hiệu quả. Cho nên, đầu
16
16
tư đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ quan nhà nước trong hệ thống tư
pháp hình sự là đồng nghĩa với việc góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự.
Chính vì vậy, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho HĐTP là sự đầu tư
quan trọng cả về số lượng cũng như chất lượng mang tính chiến lược cho hoạt
động của hệ thống các cơ quan tư pháp hình sự. của HĐTP. Việc đảm bảo cơ

sở vật chất kỹ thuật cho HĐTP còn bao gồm sự đáp ứng kịp thời các trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ cho hoạt động của các cơ quan tư
pháp hình sự.
Tóm lại, đảm bảo QCN trong HĐTP là việc đảm bảo các điều kiện, yếu tố
cần và đủ cho quá trình thực hiện QCN trong lĩnh vực HĐTP nhằm làm cho hoạt
động này có hiệu lực, hiệu quả cáo nhất. Bao gồm các yếu tố cơ bản như: Có hệ
thống các quy phạm pháp luật về lĩnh vực này đầy đủ, không ngừng được hoàn
thiện; có hệ thống các cơ quan tư pháp hình sự hoàn chỉnh, có chất lượng, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả; có cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của
hoạt động; có cơ chế giám sát chặt chẽ, thông suốt, có sự tham gia đông đảo của
các cơ quan nhà nước,tổ chức chính trị xã hội và công dân…
1.2. Nội dụng bảo đảm quyền con người của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp
hình sự
1.2.1. Nội dung, ý nghĩa của việc đảm bảo quyền con người của trẻ em trong luật
hình sự
Pháp luật hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con
người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng. Tại điều 1 Bộ luật
hình sự năm 1999( sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định: “ Bộ luật hình sự có
nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ quyền bình đẳng giữa các đồng bào dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Quy định tại
17
17
điều 1 này đã khẳng định bảo vệ quyền con người là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của luật hình sự, trong đó có quyền con người của trẻ em.
Bảo vệ quyền con người của trẻ em trong luật hình sự là một bộ phận
quan trọng trong chế định bảo vệ quyền con người nói chung thể hiện rõ tinh
thần nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Quyền con người của trẻ em được bảo

đảm thông qua việc bảo đảm quyền con người trong trường hợp trẻ em với tư
cách là người bị hại và khi trẻ em là người phạm tội. Điều này được thể hiện ở
các quy định trong phần chung và phần các tội phạm của Bộ luật hình sự tạo
thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người đối
với trẻ em.
• Trẻ em là người bị xâm hại
Luật hình sự bảo đảm quyền con người của trẻ em là người phạm tội với
tư cách là người bị hại thông qua việc quy định xử lý nghiêm khắc hơn đối
với hành vi xâm hại đến trẻ em với hành vi tương ứng xâm hại đến người đã
thành niên. Việc xử lý nghiêm khắc hơn này được Bộ luật hình sự quy định
thành các dấu hiệu tăng năng trách nhiệm hình sự có thể là dấu hiệu định tội,
định khung tăng nặng, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong phần chung của Bộ luật hình sự 1999 tình tiết phạm tối đối với trẻ
em được nhà làm luật quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự( điểm
h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự: Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai,
người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ
thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.) và vừa là
tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt quy định ở một số tội phạm.
Phạm tội đối với trẻ em (trẻ em là người bị xâm hại) là trường hợp người
phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự
và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của pháp luật. Sở dĩ phạm tội
đối với trẻ em được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không chỉ
xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ
lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ
18
18
1 thực tế là trẻ em không có khả năng tự vệ, và đây là lý do chính mà nhà làm
luật quy định “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự. Do đó, khi xác định mức độ tăng nặng của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào
độ tuổi của nạn nhân. Nếu trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì

mức tăng nặng càng nhiều. [4….].
Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16
tuổi là trẻ em. Quy định về độ tuổi đối với trẻ em của Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em cũng phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự về độ tuổi
của trẻ em. Ví dụ: Điều 112 Bộ luật hình sự quy định: “người nào hiếp dâm
trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 114 Bộ luật hình sự quy định:
“người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 115 Bộ
luật hình sự quy định“người nào đã thành niên giao cấu với trẻ em từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi”.v.v Trẻ em là người dưới 16 tuổi,[6] nên việc xác
định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Mục đích của các nhà làm luật quy định là tình tiết tăng nặng nhằm mục
đích để trừng trị nghiêm khắc những người có hành vi xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của trẻ em, ngăn ngừa răn đe, giáo dục đối với những
người có ý định phạm tội đối với trẻ em.
Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng
TNHS quyết định hình phạt tại Điểm h, Khoản 1, Điều 48 BLHS mà trong
nhiều trường hợp nó là yếu tố định tội như:
Tội hiếp dâm trẻ em( Điều 112)
Tội cưỡng dâm trẻ em( Điều 114)
Tội giao cấu với trẻ em( Điều 115)
Tội dâm ô với trẻ em( Điều 116)
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em( Điều 120)
Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em( Điều 228
Nhìn từ góc độ pháp luật, Bộ luật hình sự năm 1999 tách riêng hai loại
19
19
đối tượng( người lớn với trẻ em) là nạn nhân trong tội hiếp dâm là một bước
tiến mới. Tình hình hiếp dâm trẻ em ngày càng gia tăng, nguy hiểm về tính
chất, nghiêm trọng về hậu quả cho nên việc quy định riêng thành một điều

luật như vậy phần nào có hiệu lực răn đe đối với những kẻ thực hiện hành vi
phi nhân tính, đáp ứng được nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ em.
Những quy định về các tội xâm hại tình dục và mua bán trẻ em là những
loại tội phạm xâm lại đến quyền con người đối với trẻ em hậu quả của xâm
hại tình dục ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phát triển của trẻ. Các em dễ
mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, có thể mất khả năng sinh sản. Điều
nguy hiểm là nhiều trường hợp thường rơi vào trạng thái hoảng loạn, sợ hãi,
xấu hổ, sống mặc cảm, không muốn giao tiếp với mọi người. Nếu không may
mang thai, các em còn phải nghỉ học giữa chừng với gánh nặng trở thành bà
mẹ “bất đắc dĩ”. Trong khi ấy trẻ em là đối tượng chưa phát triển về mặt thể
chất nên khả năng chống trả, cũng như phòng vệ kém là đối tượng dễ bị xâm
hai của các đối tượng phạm tôi. Một vấn đề đặt ra đó chính là lúc này quyền
con người của trẻ em đã gián tiếp xâm hại mang lại sau đó nhiều hậu quả. Khi
bị xâm hại sau đó trẻ em thường gặp những vấn đề về tâm lý và hành vi phức
tạp ảnh hưởng rất lâu dài, nguy hại nó còn xâm phạm đến quyền sống của trẻ
khi mà một số đã tìm đến cách tử tự để giải thoát. Khi trưởng thành, có em
mất niềm tin vào người lớn nên luôn hủy hoại bản thân, sa vào rượu chè, ma
túy mại dâm, có em có cái nhìn lệch lạc, sống trong vòng luẩn quẩn của lạm
dụng tình dục và bạo hành. Có em trở thành người luôn che dấu cảm xúc thật
hoặc chối bỏ cảm xúc của mình như một cơ chế tự vệ. Vậy một loại các vấn
đề về quyền con người của trẻ bị ảnh hưởng rất lớn, và một trong những nhân
tố gây nên đó là chính gia đình và nhà trường, xã hội, mà ở đây là sự thờ ơ
không quan tâm của bố mẹ, không dạy dỗ con cái những kiến thức cần thiết,
kĩ năng tự bảo vệ mình. Sự suy thoái về đạo đức, các hình phim ảnh gợi dục
tràn lan ở nhiều nơi khiến không ít kẻ rơi vào tội ác, giở trò đồi bại với trẻ em
khi có cơ hội.
20
20
Đảng và Nhà nước đã và đang có nhiều biện pháp để dần hạn chế tiến tới
xóa bỏ tội phạm tình dục trẻ em. Trong các nhóm tội xâm phạm tình dục của

trẻ em thì tội “ Cưỡng dâm trẻ em” ( Điều 114) đang diễn ra ngày càng nhiều,
hành vi của tội phạm này đã xâm phạm thuần phong mỹ tục, trật tự xã hội, tội
này thể hiện người phạm tội dùng thủ đoạn để người lệ thuộc người phạm tôi
hoặc đang trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hành
vi.Trong quy định tại điều 114 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã thay cụm từ “
người chưa thành niên” trong Bộ luật hình sự năm bằng cụm từ “trẻ em”
nhằm nhấn mạnh đối tượng bảo vệ ở đây là trẻ em.
Ngoài ra để đảm bảo cho quyền con người của trẻ em các hành vi mua
bán, đánh tráo và chiếm doạt trẻ em luôn được coi là tội phạm và người phạm
tội phải xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự. Hành vi đó trước hết là xâm phạm
đến quyền được chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đồng thời hành vi mua bán, đánh
tráo, bắt trộm trẻ em, coi trẻ em như một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường
là xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xã hội luôn
luôn lên án với hành vi đó. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để cho con người
được sống và phát triển bình thường, trả lại giá trị đích thực cho con người,
sẵn sàng trừng trị những kẻ mưu toan vì những lý do khác nhau mà xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm của mỗi con người. Đối với trẻ em nhà nước ta kiên
quyết trừng trị những ai có hành vi trên. Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999
quy định:
21
21
1. Người nào mua bán đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kì hình thức
nào, thì bị phạt từ từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức
b) Có tính chất chuyên nghiệp
c) Vì động cơ đê hèn
d) Đối với nhiều trẻ em
đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân

e) Để đưa ra nước ngoài
g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo
h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm
i) Tái phạm nguy hiểm
k)Gây hậu quả nghiêm trọng
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm.
Hành vi này không những xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm
của trẻ em mà còn xâm phạm tới sức khỏe thậm chí cả tính mạng của trẻ em.
Để trẻ em có điều kiện phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần thì Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm đến lao động trẻ em, điều này đã được thể hiện
rõ trong quy định của Bộ luật lao động như: độ tuổi lao động, học nghề của
trẻ em,các chế độ chính sách… Tuy nhiên hiện nay đất nước ta đang trên đà
phát triển mạnh, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mở ra, nhu cầu việc
làm đang trở thành vấn đề nóng bỏng. Nước ta đang phát triển nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa với chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa, đã
làm cho tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi rõ rệt. Trẻ em từ mọi miền
đất nước kéo lên thành phố, các khu trung tâm lớn làm việc ngày càng ồ ạt.
Giá trị sức lao động trẻ em luôn rẻ mạt các em sẵn sàng làm tất cả mọi việc kể
cả chấp nhận làm việc trong môi trường vẫn biết là độc hại,nguy hiểm. Chính
vì vậy nên đã lợi dụng điểm yếu này mà một số bên sử dụng lao động đã có
hành vi vi phạm pháp luật, trẻ em đã trở thành đối tượng dễ bị lạm dụng sức
22
22
lao động gây nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng. Đáp ứng đảm bảo cho
quyền trẻ em trong trường hợp này nhà làm luật quy định “tội vi phạm quy
định về sử dụng lao động trẻ em”( Điều 228):
1. Người nào sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu

quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm:
a) Phạm tội nhiều lần
b) Đối với nhiều trẻ em
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi
triệu đồng.
Ngoài ra, các nhà làm luật quy định dấu hiệu “phạm tội với trẻ em” là
dấu hiệu định khung tăng nặng trong các điều luật như như:
Điểm c khoản 1 điều 93 ( tội giết người)
Điểm c khoản 2 điều 103 ( tội đe dọa giết người)
Điểm d khoản 1 điều 104( tội cố ý gây thương tích gây tổn hại sức khỏe
của người khác)
Điểm a khoản 2 điều 110 ( tội hành hạ người khác)
Điểm b khoản 2 điều 117( tội lây truyền HIV cho người khác)
Điểm c khoản 2 điều 118 ( tội cố ý truyền HIV cho người khác)
Điểm đ khoản 2 điều 134( Tôi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản)
23
23
Các tội phạm xâm phạm đến sức khỏe cũng như tính mạng của trẻ em
được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền sống, quyền bất khả xâm phạm
thân thể của trẻ em – đối tượng được toàn xã hội quan tâm, chăm sóc, và bảo
vệ.Vậy bằng những quy định thành các dấu hiệu định tội,dấu hiệu định khung
tăng nặng và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự một cách cụ thể, rõ ràng,
chặt chẽ như vậy. Bộ luật hình sự năm 1999( sửa đổi bổ sung 2009) đã thể
hiện vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người của trẻ em, thế hệ
của đất nước.

• Trẻ em là người phạm tội
Luật hình sự đã bảo đảm quyền con người của trẻ em khi trẻ em phạm tôi
một cách chặt chẽ thông qua các quy đinh có trong các điều luật. Chính sách
hình sự đối với trẻ em phạm tội thể hiện thống nhất trong những quy định cụ
thể của PLHS, về nguyên tắc xử lý, về hệ thống hình phạt và các biện pháp tư
pháp khác nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ em khi trẻ em là chủ thể đặc biệt.
Bảo đảm quyền con người của trẻ em thông qua quy định về độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự:
Theo quy định tại khoản 2 điều 12 của BLHS 1999 thì “ người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trong do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, trẻ
em không bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự khi chưa đủ 14
tuổi, đây là một trong những quy định nhằm miễn truy tố trách nhiệm hình sự
cho trẻ em dưới 14 tuổi bảo vệ quyền con người cho trẻ em, vì độ tuổi này trẻ
em vẫn chưa được hình thành đầy đủ nhân cách, mà còn được chăm sóc và học
tập, giáo dục đây là những quyền cơ bản của trẻ em. Còn đối với trẻ em từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp tội phạm thực hiện là tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý, đặc biệt nghiêm trọng thì mới chịu trách nhiệm hình sự,
như vậy để bảo vệ quyền con người cho trẻ em pháp luật hình sự dựa trên mức
độ gây nguy hiểm cho xã hội và ý chí của trẻ em khi phạm tội để truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu mức độ gây nguy hiểm của tội phạm chưa cao và trẻ em
24
24
phạm tội do vô ý thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này có ý
nghĩa nhằm bảo vệ quyền con người đối với trẻ em, trẻ em trong độ tuổi từ 14
đến dưới 16 tuổi tuy nhận thức, nhân cách đang hình thành đầy đủ, và đang
nằm trong độ tuổi dậy thì có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, muốn chứng tỏ bản
thân nên rất dễ bị khích động, xúi dục và có thể phạm tội. Chính vì vậy mà luật
hình sự quy định như vậy để bảo vệ quyền con người cho trẻ em trong độ tuổi
này, tạo cho các em có cơ hội để sửa chữa, nhận ra lỗi lầm.

Đối với trẻ em, việc xác định một trường hợp cụ thể người thực hiện
hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc
được quy định tại điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999.Sở dĩ, có quy định như
vậy là dựa trên cơ sở phân tích về tâm lý đối với người chưa thành niên là đối
tượng chưa phát triển đây đủ về thể chất cũng như về tinh thần, bị hạn chế về
nhận thức cũng như kinh nghiệm, kỹ năng sống thiếu điều kiện về bản lĩnh,
khả năng tự kiềm chế chưa cao nên dễ bị kích động dụ dỗ, dễ lôi kéo vào các
hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm và manh động. Vì vậy pháp luật hình sự đã
đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của trẻ em.
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý trẻ em phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích
cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội
của trẻ em, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận
thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên
nhân điều kiện gây ra tội phạm
Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm lý,
trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, nguyên nhân
điều kiện phạm tội của họ chủ yếu do môi trường sống của họ, trong đó có
phần trách nhiệm lớn của gia đình và xã hội. Chính vì vậy, việc xử lý trẻ em
phạm tội chủ yếu là để giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy
tắc của cuộc sống xã hội Xã hội chủ nghĩa, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh trở thành người có ích cho xã hội.
25
25

×