Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV, AIDS ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 87 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ LUYỆN




BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ
TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cn b hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái




HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

    
         
 





NGƯỜI CAM ĐOAN



VŨ THỊ LUYỆN







MỤC LỤC










 








MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS 8
1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS 8
1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS 8
1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật 14
1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS 16
1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS 27
1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS 27
1.2.2 Các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS 37

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM 49
2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS 49

2.1.1 Thành tựu của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS 50
2.1.2 Hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS 60
2.2 Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam 62
2.2.1 Thành tựu trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam 62
2.2.2 Hạn chế trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam 69
2.3 Giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam 72
2.3.1 Giải pháp về pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam 72
2.3.2 Giải pháp thực tiễn trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS 73
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS: Aquired ImmunoDeficiency Syndrome
CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
HIV: Human Immunodeficiency Virus
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị
ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

ILO: Tổ chức lao động quốc tế
PLTMC: Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
UDHR: Tuyên ngôn nhân quyền
UNAIDS: Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS
WHO: Tổ chức y tế thế giới






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
HIV là một loại vi rút gây suy giảm hệ thống miễn dịch cơ thể người, làm
cho cơ thể không có khả năng chống chọi với các bệnh tật khác, giai đoạn cuối cùng
của HIV là AIDS và dẫn đến tử vong. Khác với các bệnh dịch khác, HIV có khả
năng lây nhiễm và hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh và chưa có thuốc điều trị
đặc hiệu, mặt khác nguồn gốc lây nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, do quan hệ
tình dục và do mẹ truyền sang con khi mang thai. Chính vì những lý do dịch tễ học
nêu trên mà dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện tại Mỹ vào năm 1980,
sau đó lây lan nhanh chóng và được coi là một đại dịch mang tính toàn cầu. Theo
thống kê của UNAIDS và WHO cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu
người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS,
ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới
mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và
trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình
trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với

HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6].
Trong suốt những năm đầu thập kỷ 1980 sự kỳ thị, phân biệt đối xử với
những người có HIV/AIDS và người thân của họ diễn ra khá phổ biến trên thế giới.
Các biện pháp như giam giữ, cách ly người nhiễm HIV/AIDS khỏi cộng đồng với
mục đích ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã tỏ ra không hiệu quả, bởi số lượng
người nhiễm HIV ngày càng tăng trên thế giới, mặt khác làm tăng sự kỳ thị, phân
biệt đối xử của xã hội đối với người nhiễm HIV/AIDS và như vậy là vi phạm
nghiêm trọng các quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS.
Cũng giống như những căn bệnh khác, người nhiễm HIV có nhu cầu thiết
yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, được chăm sóc y tế, được đảm bảo an ninh cá nhân, giáo
dục, lao động …để sống một cuộc sống có nhân phẩm, nhưng những nhu cầu thiết
yếu này luôn bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội.


2
Cùng với sự phát triển của y học thì con người nhận thức rõ hơn về cơ chế
lây truyền HIV/AIDS và sự đấu tranh bền bỉ của các tổ chức, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực quyền con người đã tạo sự chuyển biến lớn trong cách đối xử với
những người có HIV/AIDS. Dần dần, quan điểm cho rằng việc chống kỳ thị, phân
biệt đối xử, thừa nhận và bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của người có HIV/AIDS
là một yếu tố cốt yếu để phòng ngừa sự lây lan của đại dịch mặt khác, góp phần bảo
đảm quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS. Thực tế cho thấy sự kỳ
thị, phân biệt đối xử đã đẩy những người có HIV/AIDS vào “bóng tối” từ đó làm
tăng nguy cơ với cộng đồng do họ tìm cách che dấu tình trạng của bản thân, thậm trí
có người còn tìm cách trả thù cộng đồng.
Trong bối cảnh HIV/AIDS, phụ nữ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất, do phụ nữ là đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV và phải chịu những hậu quả
nghiêm trọng về mọi mặt do tình trạng nhiễm HIV của bản thân như bị phân biệt
đối xử, không được đảm bảo các nhu cầu về học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe,
an ninh cá nhân … điều này là đi ngược lại với những giá trị về quyền con người đã

được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người
như: Tuyên ngôn nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966)…
Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định: “Mc
t ng v n”, Điều 2 tiếp tục ghi nhận: “Mi
ng tt c  
t k s i x  chng t,
 hon gc hoi,
n xua v ”.
Vì vậy, phụ nữ nhiễm HIV được hưởng đầy đủ các quyền con người đã được
cộng đồng quốc tế ghi nhận và trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức
trong xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đó, được ghi nhận trong
pháp luật quốc gia và bảo đảm thực thi trên thực tế.
Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình phòng, chống lây nhiễm HIV đã chỉ ra


3
rằng, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS góp phần
quan trọng vào việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch.
Mặc dù vậy, trên thực tế quyền con người của những phụ nữ nhiễm
HIV/AIDS vẫn bị vi phạm nghiêm trọng bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Đòi hỏi các
quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền của
nhóm xã hội dễ bị tổn thương này.
Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các
công ước quốc tế về quyền con người, do đó hệ thống pháp luật quốc gia không
ngừng được hoàn thiện để ghi nhận và thực thi các quyền con người đã được thừa
nhận, trong đó có quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS
dưới góc độ quyền con người còn chưa phổ biến. Do vậy tác giả đã chọn đề tài
“Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam” là

đề tài luận văn thạc sỹ của mình, với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các quy định
của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người
của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam trong việc
bảo đảm quyền con người của phụ nữ và qua đó đề xuất các biện pháp về mặt pháp
lý cũng như về mặt thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của
phụ nữ để hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đến
đời sống của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng HIV/AIDS thường được tiếp
cận dưới góc độ là một vấn đề y học, vấn đề xã hội nhằm các mục tiêu y tế công.
Một cách tiếp cận mới là phòng chống HIV/AIDS dựa trên quyền con người,
theo đó Chương trình hỗn hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Văn phòng cao
ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã thông qua “ng dn quc t v
i” năm 2001 nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một
cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo
hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch trong khi
vẫn đảm bảo được sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.


4
Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người
của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ. Các
bài nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó
khăn mà phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài “Ph n  
Vii dch HIV/AIDS” hay bài “Ph n  u vi
khng hong” của tác giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số
271 năm 2005 hay cuốn “Sc khe sinh si vi ph n sng chung
vi HIV/AIDS” do tác giả Lê Anh Tuấn chủ biên. Các bài viết này mới chỉ phân tích
ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích
vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người. Hay các bài viết về

phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam như bài
“a nhim HIV  ph n   gii”của tác giả Nguyễn
Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài “V  nhim
” của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên tạp chí Lao
động xã hội số 289 năm 2006. Đặc biệt bài viết “Quyi ca ph n trong
bi cnh HIV/AID của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng
trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể
và cơ sở của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp
nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm
“i” trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở
pháp luật, chính trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh
HIV/AIDS và đảm bảo quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối
cảnh HIV/AIDS trong đó có đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu
phân tích toàn diện các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của
pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy


5
được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và
bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác
giả hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về
quyền con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các
giải pháp mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với

các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các
giải pháp thực tiễn để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS.
Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên của luận văn, tác giả
đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS.
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối
với phụ nữ có HIV/AIDS.
Phân tích rõ cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền
con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s
Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực
tiễn về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh,
nhận xét, đánh giá để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.


6
5. Những nét mới của luận văn
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những
bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo
đảm quyền con người của phụ nữ.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó
đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời

đánh giá thực trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như
những giải pháp thực tiễn để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản
về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực
chính trị, pháp luật và kinh tế đồng thời làm rõ các quyền con người của phụ nữ có
HIV/AIDS được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt
Nam, qua đó đưa ra những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp
luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật
Việt Nam, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở đánh
giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp thực tiễn
nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý
nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và
thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.


7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu gồm 02 chương:
1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người
của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về
HIV/AIDS. Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích

các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế
và đưa ra những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo
đảm về chính trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế.
2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS. Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật
Việt Nam và thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo
đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.


8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS

1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS
1.1.1 Khi qut về HIV/AIDS
HIV (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency
Virus) là tên gọi tắt của một loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người. Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, dẫn đến hệ miễn
dịch của cơ thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị “vô hiệu hóa” và điều đó có nghĩa là cơ thể
con người không còn được bảo vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi
trùng nhân cơ hội gây nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người có HIV và dẫn đến tử vong.
AIDS (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired
ImmunoDeficiency Syndrome) - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người -
giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Thời gian từ khi nhiễm HIV cho đến khi thành
AIDS dài hay ngắn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành vi của từng người.
Trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi thành AIDS kéo dài từ 5-7 năm, nhưng có nhiều
trường hợp có thể kéo dài đến hàng chục năm nếu người nhiễm HIV biết cách giữ gìn

sức khỏe và không có hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV.
Nhiễm HIV không phải là thành AIDS ngay mà nó diễn ra trong một khoảng
thời gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và trong khoảng thời gian này,
người nhiễm HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ vẫn sống, lao động và học tập bình
thường, nhưng họ có thể làm lây truyền HIV từ người này sang người khác. Quá
trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức
đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự
chăm sóc của gia đình, người thân, mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội.
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa nghiên cứu và sản xuất được vắc xin phòng
ngừa và thuốc điều trị triệt để HIV/AIDS.


9
Trên thực tế HIV chỉ có thể lây truyền qua ba con đường đó là:
- Đường máu;
- Đường tình dục
- Đường truyền từ mẹ sang con;
Phụ nữ dễ bị tổn thương với lây nhiễm HIV hơn so với nam giới, cụ thể:
Về mặt sinh học: Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn nam giới do đặc
điểm đặc thù về sinh học. Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV do quan hệ tình dục cao
gấp 2 đến 4 lần so với nam giới do diện tích cơ thể tiếp xúc với vi rút HIV cao
hơn nam giới.
Về y học: Khi có thai, hệ thống miễn dịch trong cơ thể phụ nữ bị giảm sút,
sức đề kháng đối với bệnh tật giảm vì vậy vi rút HIV dễ dàng xâm nhập hơn. Mặt
khác, phụ nữ thường phải truyền máu vì bị giảm sút hồng cầu hay do những bất trắc
trong sinh nở làm tăng khả năng nhiễm HIV cao hơn nhiều so với nam giới.
Về kinh tế: Phụ nữ thường phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế. Hơn
2/3 phụ nữ trên thế giới mù chữ và 70% sống trong đói nghèo [29,41], vì vậy họ
khó có cơ hội thực hiện quyền tự chủ, dẫn đến họ khó có thể chủ động về địa
điểm cũng như cách thức quan hệ tình dục an toàn. Do đó nguy cơ phơi nhiễm

HIV là khó tránh khỏi.
Về xã hi: Nam giới thường có nhiều quyền lực hơn nữ giới trong gia đình
và ngoài xã hội. Phụ nữ thường không có nhiều quyền quyết định đến những việc
có liên quan đến cơ thể của họ như đàn ông. Thông thường, đàn ông cảm thấy
mình có quyền lực đối với phụ nữ, đặc biệt là với vợ và bạn tình của mình. Vì vậy,
một người phụ nữ khi có quan hệ tình cảm với một người đàn ông thì người đàn
ông có thể kiểm soát việc khi nào họ quan hệ tình dục và có sử dụng biện pháp
bảo vệ hay không. Người phụ nữ thường cảm thấy mình không có quyền để nói
“không” với quan hệ tình dục hoặc yêu cầu bạn tình của mình sử dụng biện pháp
bảo vệ. Mặt khác, đàn ông thường có nhiều bạn tình hoặc có quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân. Đây là yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV từ chồng hoặc bạn
tình đối với phụ nữ. Hơn nữa, ở Việt Nam, những chuẩn mực xã hội lâu đời không


10
khuyến khích thảo luận cởi mở về tình dục, điều này hạn chế cơ hội của phụ nữ để
có được tình dục an toàn.
HIV không lây qua tiếp xúc thông thường. Như vậy, chúng ta 
HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980 tại Mỹ,
sau đó đã lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS
cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với
HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ
em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở
những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng
gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản
thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có
17,5 triệu là phụ nữ [44,6].
Tại khu vực châu Á, từ lâu dịch HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các
nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm và

khách hàng của họ và nam tình dục đồng giới. Tuy nhiên dịch HIV/AIDS tại nhiều
khu vực của châu Á đang dần lan sang các nhóm có nguy cơ lây nhiễm thấp như
thông qua sự lây nhiễm HIV sang bạn tình của những người thuộc nhóm có nguy cơ
lây nhiễm cao. Năm 2008, tại Châu Á có 4,7 triệu người sống với HIV/AIDS, ước
tính khoảng 35% trong số đó là phụ nữ trong khi đó tỷ lệ phụ nữ có HIV/AIDS năm
2000 chiếm khoảng 19% [44,6]. Bằng chứng thực tiễn từ nhiều quốc gia châu Á
cũng chỉ ra rằng hầu hết số phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS không phải do hành vi tình
dục của bản thân họ mà do chồng hoặc bạn tình của họ đã tham gia vào các hành vi
không an toàn. Ước tính có đến hơn 90% số phụ nữ sống với HIV/AIDS bị lây
nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nam của họ [44,6].
Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS hiện đang tập trung ở các nhóm có nguy cơ
lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam tình dục đồng
giới. Theo thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 197.335 người nhiễm HIV
đang còn sống, đã có 52.325 người chết do HIV/AIDS, dịch HIV/AIDS đã xuất


11
hiện ở 100% tỉnh, thành phố [22]. Năm 2007, số nam giới trong độ tuổi trưởng
thành (từ 15 tuổi trở lên) nhiễm HIV/AIDS cao gấp 3 lần so với phụ nữ và nam giới
vẫn chiếm đa số các ca nhiễm mới [44]. Nhưng theo ước tính của Bộ Y tế, khoảng
cách này giảm xuống còn 2,6% vào năm 2012 [44].
Như vậy, HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, đói
nghèo, lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc.
Ở Việt Nam, Chị thỉ 54 ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư đã nhận định “Cho



Chiến lược quốc gia về phòng,
chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài.
Khác với nhiều căn bệnh khác HIV/AIDS là một vấn đề y học – xã hội.

Về mặt dịch tễ học, khác với nhiều bệnh lây truyền, mãn tính khác
HIV/AIDS là bệnh mãn tính, thời gian ủ bệnh kéo dài, gây tử vong, hiện tại vẫn
chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Con đường lây nhiễm
chủ yếu qua quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. Những đặc điểm
dịch tễ học nói trên cùng với sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội đối với những người có
HIV/AIDS và những người thân của họ làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của
những người có HIV/AIDS và những người thân của họ.
Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, thái
độ ban đầu của cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các gia đình
là tiêu cực. Khi bị phát hiện là nhiễm HIV/AIDS, những người bị bệnh bị từ bỏ,
cách ly, ngay cả người thân trong gia đình cũng không cho họ cùng ăn, thậm chí
còn nhốt họ và cách ly để tránh lây nhiễm. Cộng đồng từ chối làm việc với những
người có HIV/AIDS và những thành viên gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS.
Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn
sóng kế tiếp nhau:


12
Giai đoạn đầu: Người mạnh khỏe trở thành người mang virut HIV. Đặc điểm
của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh kéo dài, khó nhận biết và có thể lây truyền
sang người khác. Do đặc điểm của giai đoạn này, nhiều người không biết tình trạng
có HIV của bản thân do vậy họ vẫn tiếp tục có những hành vi vô tình làm lây truyền
HIV sang cho người khác như: quan hệ tình dục với vợ hoặc bạn tình của mình.
Giai đoạn hai: Người mang virut chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất
hiện nhiều bệnh lây nhiễm khác do hệ miễn dịch bị tàn phá. Giai đoạn này tác động
đến nhiều mặt của đời sống người có HIV, gia đình họ và toàn xã hội. Đối với
người có HIV họ phải sống trong sự lo sợ do cái chết đã được báo trước đồng thời
họ phải đối mặt với nhiều bệnh tật do hệ miễn dịch của cơ thể bị tàn phá đồng thời
họ phải chịu sự xa lánh, kỳ thị của người thân, của cộng đồng. Đối với gia đình

người có HIV kinh tế gia đình giảm sút do thu nhập của những thành viên có HIV
bị mất hoặc giảm đi mặt khác phải tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc, thuốc điều
trị cho người có HIV. Đồng thời họ cũng phải gánh chịu sự phân biệt, kỳ thị của
cộng đồng. Đối với xã hội, cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do năng suất lao động
xã hội giảm, những chi phí cho y tế, cho phòng ngừa, ngăn chặn HIV cũng tăng lên,
kèm theo đó là những vấn đề về đói nghèo, thất học, mồ côi …cũng là những gánh
nặng cho xã hội.
Giai đoạn ba: Người có HIV chuyển sang giai đoạn AIDS – là giai đoạn cuối
cùng của quá trình nhiễm HIV trong cơ thể. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6
tháng đến 2 năm và kết quả là người bệnh sẽ tử vong. Giống như giai đoạn trước,
người bệnh, gia đình họ và xã hội đều bị tác động to lớn về nhiều mặt.
Giai đoạn bốn: Là những hậu quả sau cái chết của người có AIDS. Sự kỳ thị,
phân biệt đối xử với người thân của người chết vì AIDS, cũng như gây ra các vấn
đề xã hội như trẻ em mồ côi, đói nghèo, thất học, góa bụa…
Về mặt xã hi: Cho rằng HIV/AIDS là một căn bệnh do suy đồi đạo đức, lối
sống, gắn liền với các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, ngoại tình và đây cũng là
một nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS.
Những người có HIV/AIDS theo một số nghiên cứu được chia làm ba thế hệ:


13
Thế hệ thứ nhất: Đó là những người bị lây nhiễm do tiêm chích ma túy và
mại dâm không an toàn.
Thế hệ thứ hai: Là những người bị lây nhiễm từ người thân của thế hệ thứ
nhất (vợ, chồng).
Thế hệ thứ ba: Bao gồm con cái của những người có HIV/AIDS và những
người bị lây nhiễm bởi nhiều lý do khác như rủi ro nghề nghiệp hoặc phơi nhiễm.
Thế hệ thứ hai và thứ ba đang có xu hướng mở rộng. Hai thế hệ này hoàn
toàn không liên quan đến ma túy, mại dâm, không vi phạm pháp luật xong họ vẫn bị
kỳ thị, phân biệt đối xử.

Nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn những người có HIV/AIDS thuộc tầng
lớp nghèo, thiếu hiểu biết, thiếu điều kiện tự bảo vệ mình dẫn đến họ phải chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng hơn như không có điều kiện để được chăm sóc sức khỏe, thất
nghiệp, đói nghèo…
Thế hệ thứ hai bị nhiễm HIV/AIDS trong hoàn cảnh sinh hoạt gia đình bình
thường, hoàn toàn lành mạnh. Do thời gian ủ bệnh kéo dài, do không có điều kiện
xét nghiệm, do bất bình đẳng về giới đã vô tình nhiễm HIV từ người thân của mình.
Nhóm thế hệ lây nhiễm này đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Như vậy, những người có HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều
kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu bao trùm dẫn
đến sự lây nhiễm là do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và nhận thức chung
của xã hội còn thấp.
Những quan niệm về HIV/AIDS gắn liền với tệ nạn xã hội, những người có
HIV/AIDS là những người thoái hóa về đạo đức, lối sống đã không còn phù hợp.
Khi dịch HIV mới xuất hiện trên thế giới, do sự hiểu biết hạn chế về
HIV/AIDS nên biện pháp cô lập, tách biệt người có HIV/AIDS với cộng đồng đã
được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và nhận thức
của con người về HIV/AIDS thì biện pháp cô lập người có HIV/AIDS trở nên bất
cập trước diễn biến của đại dịch. Bởi số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng lên
mặt khác làm tăng gánh nặng cho nhà nước và vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người của người có HIV/AIDS.


14
Dưới góc đ quyền con người: HIV/AIDS dẫn đến hậu quả tiêu cực to lớn.
Đó là hình thành một nhóm xã hội dễ bị tổn thương với số lượng ngày càng tăng
gồm những người có HIV/AIDS và những người sống chung với họ. Nhiều quyền
của nhóm người sống chung với HIV/AIDS bị vi phạm nghiêm trọng đặc biệt là
quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền
được làm việc, đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ,

người di cư…
Như vậy, những người nhiễm HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều
kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nhưng xuất phát từ những đặc điểm về dịch tễ
học của căn bệnh này mà cộng đồng thậm chí người thân của người có HIV/AIDS
xa lánh, kỳ thị, phân biệt đối xử với họ dẫn đến sự vi phạm nghiêm trọng các quyền
con người của những người có HIV/AIDS và phụ nữ là đối tượng phải chịu hậu quả
nặng nề nhất.
1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước php luật
Bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người, quyền công dân và cũng
là nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong quá trình lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đó là quyền của mỗi người được xác lập tư cách công dân trước pháp luật,
không bị pháp luật phân biệt đối xử và quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật
và được pháp luật bảo vệ như nhau.
Trước hết, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một
chủ thể tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Trong
xã hội, sẽ không thể có tự do nếu không có sự bình đẳng thật sự giữa các thành
viên trong xã hội. Bản chất của sự bình đẳng là công nhận các giá trị như nhau
của các thành viên xã hội trong tất cả các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội.
Điều 1 UDHR nêu rõ, mc t ng
v n
Điều 2 UDHR quy định, mng tt c 
t t k s i x  chng ti


15
 hon gc
c hon xua v .
Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định: u


Điều 63 Hiến pháp qui định:  n ngang
nhau v mi mt kinh t
Thứ hai, bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Dưới
góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một
quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Điều 6 UDHR quy định, m
t  m Quy định này được tái khẳng
định nguyên văn trong Điều 16 ICCPR.
Thứ ba, quyền bình đẳng trước pháp luật có nội dung là quyền không bị
pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ.
Như trên đã nói, con người sinh ra có sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín
ngưỡng, tôn giáo và địa vị xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ để pháp luật
phân biệt trong việc hưởng các quyền và chịu trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, pháp
luật luôn đặt giá trị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách
không bình đẳng đó bằng việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau.
Quyền bình đẳng trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử còn có khía
cạnh khác đó là quyền được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi,
mọi lúc và mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng: Quyền con người
luôn đứng trước nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía. Đó có thể là các cá nhân, tổ chức
khác trong xã hội cũng có thể từ phía công quyền. Khi những quyền đó bị xâm hại,
dưới góc độ bình đẳng trước pháp luật, con người đều có quyền được pháp luật bảo
vệ như nhau với các quyền pháp lý nhất định. Bảo vệ quyền bình đẳng này cũng là cơ


16
sở để bảo vệ các quyền khác của con người. Quyền được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp lý từ phía nhà nước.

Về khía cạnh này, Điều 7 UDHR quy định, mc
  t bo v m  t k s
 Điều 8 UDHR cụ thể hóa một khía cạnh quy định ở Điều 7 khi nêu
rằng, mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng
các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của
họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
Điều 26 ICCPR tái khẳng định hai quy định kể trên của UDHR, đồng thời
nêu rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm
bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân
biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính
trị hoặc quan điểm khác.
Như vậy, trách nhiệm của nhà nước trong vấn đề này là ghi nhận trong pháp
luật các quyền một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và tạo ra cơ chế bảo vệ
quyền khi nó bị xâm phạm. Nội dung của quyền bình đẳng trong bảo vệ quyền đòi
hỏi mọi hành vi vi phạm phạm đều phải bị xử lý như nhau trước pháp luật.
Như vậy, sự bình đẳng của công dân trước pháp luật, là một quyền cơ bản
của con người và cũng là cơ sở, nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong việc ghi
nhận, thực thi và bảo vệ quyền của mỗi công dân quốc gia mình. Đặc biệt, trong bối
cảnh HIV/AIDS, quyền này của công dân phải được nhà nước thi hành triệt để bởi
quyền này dễ bị vi phạm nghiêm trọng nhất và trong trường hợp bị vi phạm sẽ ảnh
hưởng đến việc thực thi các quyền con người khác của người có HIV/AIDS.
1.1.3 Cc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Mặc dù các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS là quyền tự nhiên,
vốn có nhưng các quyền đó luôn đứng trước nguy cơ bị vi phạm bởi các cơ quan
nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, vì vậy cần có các biện pháp để bảo
đảm cho việc ghi nhận và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
tránh bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội và tạo điều kiện cho nhóm đối


17

tượng dễ bị tổn thương này có điều kiện để thực hiện các quyền của mình. Theo đó
các đảm bảo quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được bảo đảm về chính trị,
bảo đảm về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật.
1.1.3
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS về mặt chính trị bao
gồm những cam kết của nhà nước ở cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ
quốc tế là những cam kết của nhà nước với cộng đồng quốc tế và cấp độ quốc gia là
những cam kết của nhà nước với nhân dân.
Ở cấp độ quốc tế, tiêu biểu là cam kết của các quốc gia nỗ lực trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Bao gồm 8 mục
tiêu của Liên hợp quốc được 189 quốc gia thành viên cam kết đạt được vào năm
2015. Những mục tiêu này được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày mùng 6 đến
ngày mùng 8 tháng 9 năm 2000 tại trụ sở của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Liên
quan đến việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS: mục tiêu thứ ba
về nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ: Xóa bỏ tình trạng chênh
lệch về giới tính ở giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tốt nhất là vào năm 2005 và
ở mọi cấp không chậm hơn năm 2015; mục tiêu thứ năm là cải thiện sức khỏe bà
mẹ: Giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990 – 2015 và đến năm
2015, phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản; trong đó mục tiêu trực tiếp nhất trong
việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS đó là mục tiêu sáu: Phòng
chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác, theo đó các quốc gia sẽ chặn đứng
và bắt đầu thu hẹp sự lây lan của HIV/AIDS vào năm 2015, đến năm 2010, mọi đối
tượng có nhu cầu đều được điều trị HIV/AIDS.
Các mục tiêu Thiên niên kỷ là cơ sở quan trọng cho việc các quyền con
người của phụ nữ HIV/AIDS được bảo đảm tốt hơn, bởi các quốc gia ký cam kết, sẽ
nỗ lực bằng mọi biện pháp và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đạt được
mục tiêu chung.
Một cam kết của cộng đồng quốc tế về HIV/AIDS đó là Tuyên bố cam kết về



18
HIV/AIDS năm 2001- “Khủng hoảng toàn cầu – Hành động toàn cầu” được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết S-26/2 ngày 27/06/2001. Đây là
một văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề ra những mục
tiêu cơ bản về bảo vệ quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS,
đặc biệt với đối tượng là phụ nữ và đây là cam kết khẳng định lại một lần nữa cam
kết về HIV/AIDS trong tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Nội dung của Tuyên bố này khá toàn diện. Trước tiên, Tuyên bố nhận định
tình hình, diễn biến của đại dịch, thừa nhận sự quan ngại sâu sắc của cộng đồng
quốc tế về phạm vi, quy mô tác động và tàn phá của HIV/AIDS đối với con người
và khẳng định đây là một vấn đề toàn cầu và là một trong những khó khăn nhất đối
với cuộc sống và nhân phẩm cũng như cho việc hưởng thụ có hiệu quả các quyền
con người. Tuyên bố nhấn mạnh “phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái là những
người phải chịu rủi ro nhiều nhất”.
Tuyên bố đề ra phương hướng lãnh đạo toàn diện, ở mọi cấp độ từ cấp quốc
gia, cấp khu vực và cấp độ toàn cầu nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Tuyên bố đưa ra những mục tiêu, đòi hỏi các quốc gia cần có biện pháp thích
hợp để đạt được các mục tiêu này. Một trong những yêu cầu đặt ra là các quốc gia
cần xây dựng chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS, phát huy mọi nguồn
lực quốc gia cùng với sự hợp tác quốc tế để đạt được các mục tiêu: đến năm 2005,
giảm 25% tình trạng nhiễm HIV phổ biến trong nam và nữ thanh niên từ 14 đến 24
tuổi ở những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất và đến năm 2010 là 25% trên phạm vi
toàn cầu. Cam kết đến năm 2005 sẽ tạo được môi trường lao động nhằm trợ giúp
người lao động có HIV/AIDS. Đặc biệt, trong đó có mục tiêu về giảm bất bình đẳng
giới, đến năm 2005 đảm bảo ít nhất 90% và đến năm 2010 ít nhất 95% nam, nữ
thanh niên từ 14-24 tuổi được tiếp cận giáo dục về HIV/AIDS, mục tiêu đến năm
2010 bảo đảm 80% phụ nữ mang thai được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc tiền sản,
được cung cấp dịch vụ tư vấn và phòng chống HIV.
Tuyên bố thừa nhận hiện thực hóa các quyền con người là cần thiết để làm

giảm nguy cơ trước HIV/AIDS. Các quốc gia cam kết, đến năm 2003, ban hành,


19
tăng cường hoặc thực hiện pháp luật, các quy định và những biện pháp khác để xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử và đảm bảo sự thụ hưởng đầy đủ các quyền con
người và tự do căn bản của người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt bảo đảm cho
họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục phục hồi, lao động, y tế, xã hội và sức khỏe, phòng
chống, hỗ trợ và điều trị, thông tin và bảo vệ pháp luật, đồng thời tôn trọng cuộc
sống riêng tư của họ và đảm bảo bí mật. Đặc biệt, Tuyên bố nhấn mạnh đến việc
thực hiện các chiến lược quốc gia nhằm mục tiêu đến năm 2005, thúc đẩy sự tiến bộ
của phụ nữ và sự thụ hưởng đầy đủ tất cả các quyền con người của phụ nữ bằng
cách nâng cao quyền năng cho phụ nữ để kiểm soát và quyết định tự do và có trách
nhiệm về những vấn đề liên quan đến tình dục của họ để nâng cao khả năng tự bảo
vệ trước sự lây nhiễm HIV, bằng việc thông qua các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
y tế kể cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, thông qua giáo dục nhằm thúc
đẩy bình đẳng giới và bằng cách xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử cũng
như mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái.
Trên phương diện nghiên cứu và phát triển ứng dụng, Tuyên bố này khuyến
khích các quốc gia tăng cường nghiên cứu các loại thuốc vắc-xin về HIV, thuốc về
phòng chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đảm bảo người dân đặc biệt là phụ nữ
có thể tiếp cận an toàn, đáp ứng được về mặt chi phí đối với các thuốc này.
Tuyên bố cũng nhấn mạnh đến việc các quốc gia cam kết sẽ bảo đảm các
nguồn lực dành cho hành động toàn cầu nhằm giải quyết HIV/AIDS là thỏa đáng,
bền vững và tập trung hướng tới đạt kết quả.
Như vậy, Tuyên bố cam kết này, có vai trò quan trọng đối với hoạt động
phòng chống HIV/AIDS ở mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Cam kết này đòi
hỏi các quốc gia ký cam kết phải thực hiện mọi biện pháp được đề xuất tại Tuyên
bố này có xét đến yếu tố đặc thù của từng quốc gia, cũng như diễn biến HIV/AIDS
ở mỗi quốc gia để xây dựng chiến lược, chính sách phòng chống HIV/AIDS của

quốc gia mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Có thể nói, Tuyên bố cam kết năm 2001, có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, thể hiện ở các khía cạnh sau:


20
Các quốc gia xác định được sự tác động to lớn của HIV/AIDS đến mọi mặt
của đời sống xã hội mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế, đặc biệt thừa nhận phụ nữ và
trẻ em gái là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất qua đó có sự quan tâm và đầu tư
mọi nguồn lực cho việc hạn chế những rủi ro do HIV/AIDS gây ra.
Tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế trong một
cuộc chiến toàn cầu phòng chống HIV/AIDS và bảo đảm các quyền con người của
những người có HIV/AIDS đặc biệt là việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ.
Những mục tiêu mà Tuyên bố đề ra là đòi hỏi các quốc gia phải có chính
sách, chiến lược và áp dụng mọi biện pháp để thực hiện.
Sau 10 năm thực hiện, đến năm 2011, trong Tuyên bố chính trị về HIV và
AIDS của Liên hợp quốc đã ghi nhận, cộng đồng quốc tế đã đạt được những kết quả
quan trọng như: giảm hơn 25% tỷ lệ các ca nhiễm mới ở hơn 30 quốc gia, giảm
đáng kể lây truyền HIV từ mẹ sang con, và việc mở rộng chưa từng có khả năng
tiếp cận điều trị ARV cho hơn 6 triệu người, kết quả đưa đến là giảm hơn 20% số ca
tử vong có liên quan đến HIV. Tuyên bố này cũng ghi nhận, cam kết trên toàn thế
giới đối với dịch HIV toàn cầu là chưa từng có tiền lệ kể từ Tuyên bố cam kết năm
2001 về phòng, chống HIV, những cam kết này được thể hiện bằng việc gia tăng
nguồn kinh phí gấp 8 từ 1,8 tỷ USD năm 2001 lên 16 tỷ USD năm 2010, số lượng
tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh duy nhất trong lịch sử.
Vào tháng 6 năm 2011, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên bố chính trị về
phòng, chống HIV và AID với mục tiêu tăng cường mạnh mẽ nỗ lực của cộng đồng
quốc tế để xóa bỏ HIV và AIDS bằng cách thúc đẩy việc tiếp tục các cam kết chính
trị và sự tham gia của các nhà lãnh đạo vào một ứng phó toàn diện tại cấp độ cộng
đồng, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đẩy lùi dịch

HIV và giảm thiểu tác động của dịch. Yêu cầu các quốc gia xây dựng và triển khai
các kế hoạch tài chính và chiến lược quốc gia đa ngành để chống HIV/AIDS, chú
trọng vào những vấn đề trọng tâm như: xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử và cách ly
xã hội, lôi kéo sự tham gia của các nhóm có nguy cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, lồng
ghép quan điểm về giới …

×