Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Chuyên đề thực tập phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.83 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN ĐIỂM.................................4
1.1. Cơ sở lí luận:..............................................................................................4
1.1.1. Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của cá nhân và quần
chúng trong lịch sử.............................................................................................4
a. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử........................................4
b. Vai trò của cá nhân trong lịch sử................................................................5
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân đối với sự
phát triển của đất nước, của cách mạng...........................................................5
1.2. Cơ sở thực tiễn...........................................................................................7
1.2.1. Vai trị của nhân tố con người trong cơng nghiệp hóa ở các quốc gia.
..................................................................................................................7
a. Nhật Bản........................................................................................................7
b. Singapore.......................................................................................................9
c. Hàn Quốc.......................................................................................................9
d. Đài Loan......................................................................................................10
1.2.2. Thực tiễn Việt Nam về vấn đề sử dụng nguồn lực con người trong
cơn nghiệp hóa ở nước ta từ 1960 đến nay.....................................................12
a. Vấn đề nguồn lực con người Việt Nam thời kì trước đổi mới (19601986)...................................................................................................................12
b. Phát huy nguồn lực con người Việt Nam thời kì đổi mới.......................13
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM......................................................15
2.1. Nguồn nhân lực là gì?.............................................................................15
2.2. Tại sao phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững?................................................................................16
CHƯƠNG 3: NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN............................................18
3.1. Đánh giá quan điểm................................................................................18
3.2. Trách nhiệm của bản thân trong việc đưa quan điểm này vào thực tế..
...................................................................................................................20
3.2.1. Trách nhiệm của sinh viên kinh tế trong việc nhận định đúng quan
điểm. ................................................................................................................21


1


3.2.2. Trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến quan diểm đi vào cuộc sống.. 22
3.2.3. Trách nhiệm trong rèn luyện, tu dưỡng để trở thành nguồn nhân
lực chất lượng cao trong tương lai..................................................................22
a. Thể lực.........................................................................................................23
b. Trí lực..........................................................................................................25
c. Tâm lực........................................................................................................27
KẾT LUẬN........................................................................................................31
PHỤ LỤC THAM KHẢO................................................................................32

2


LỜI MỞ ĐẦU
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu
"Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh", cơng nghiệp hố, hiện đại
hố khơng chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi
cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của
con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành
công của quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi ngồi mới trường
chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ
với nhau, cùng tham gia vào quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhưng
mức độ tác động vào vai trị của chúng đối với tồn bộ q trình cơng nghiệp
hố hiện đại hố khơng giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động
lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu cơng nghiệp hố, hiện đại

hố phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Việt Nam đang từng bước trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Sau hơn 30 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy
nhiên bên cạnh đó cịn có nhiều vấn đề gay go cần được giải quyết đặc biệt như
nguồn lực con người chưa được đánh giá và phát huy một cách đầy đủ, để thúc
đẩy nhanh hơn nữa q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong phạm vi bài viết này, chúng em xin được phân tích quan điểm của
Đảng về cơng nghiệp hóa hiện đại hóa trong Đại hội VIII (6/1996): “Lấy phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN ĐIỂM
1.1. Cơ sở lí luận:
1.1.1. Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của cá nhân và quần
chúng trong lịch sử.
a. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Từ việc phân tích bản chất của con người, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Qua
đó nhấn mạnh rằng quần chúng nhân dân với tư cách là một cộng đồng con
người có liên kết với nhau cũng chính là chủ thể có ảnh hưởng đến lịch sử, vừa
sáng tạo lịch sử, vừa quyết định đến sự phát triển của lịch sử. Nhận định trên có
thể được phân tích theo ba góc độ sau đây:
Thứ nhất, để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình con người trở
thành lực lượng lao động cơ bản và trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất. Đây là
nhu cầu quan trọng nhất của mọi xã hội, ở mọi giai đoạn lịch sử, là yếu tố cốt
lõi sáng tạo ra lịch sử, quyết định sự phát triển của lịch sử.

Thứ hai, ngoài những nhu cầu về sinh lý con người cịn có nhu cầu về
tinh thần, nên đối với quá trình lịch sử, quần chúng nhân dân không chỉ là lực
lượng sản xuất mà còn là lực lượng sáng tạo ra giá trị văn hóa tinh thần – cái có
thể coi là linh hồn, là bản sắc của mỗi dân tộc. Từ trong quá trình lao động sản
xuất, từ những tâm tư tình cảm bên trong con người, mỗi cá nhân sẽ sáng tạo và
có sự đóng góp riêng vào kho tàng giá trị văn hóa tinh thần chung của cộng
đồng. Đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn, quần chúng nhân dân vừa kế
thừa những giá trị tinh thần của thế hệ trước, vừa sáng tạo ra những giá trị tinh
thần mới phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và sự phát triển của xã hội. Như
vậy, hoạt động của quần chúng nhân dân vừa là cơ sở hiện thực có ý nghĩa
quyết định, vừa là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã
hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi
cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng
lợi ích và nguyện vọng của mỗi cá nhân chính là động lực mạnh mẽ nhất để có
những cuộc cách mạng cải cách xã hội. Có thể nói: cách mạng là “ngày hội
quần chúng”, và trong ngày hội đó quần chúng nhân dân có thể tao ra lịch sử.
Từ nhận định này có thể hiểu rằng trong xã hội, mỗi cá nhân sẽ theo đuổi những
mục đích riêng, nhưng vì sống trong những điều kiện nhất định mà những mục
tiêu lợi ích riêng này có sự giao nhau, đó chính là điểm chung, là sự thôi thúc

4


mạnh mẽ để thực hiện những cuộc cải cách toàn xã hội, tạo ra các sự kiện lịch
sử, để lại dấu ấn trong sự phát triển cho lịch sử.
b. Vai trò của cá nhân trong lịch sử.
V.I.Lenin đã khẳng định rằng “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng

tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Như vậy, vai trị sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân khơng thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai
trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng
nhân dân. Điều này có thể được hiểu theo hai ý sau.
Thứ nhất, theo quan điểm của Mác-Lê cá nhân là những cá thể vừa mang
tính thống nhất, vừa mang tính riêng biệt trong cộng đồng. Như vậy, mỗi cá
nhân tùy theo năng lực, vị trí, chức năng, vai trị của mình mà tham gia đóng
góp vào quá trình sáng tạo lịch sử một cách khác nhau.
Thứ hai, vì mỗi cá nhân có sự đóng góp khác nhau trong quá trình sáng
tạo và phát triển lịch sử nên những người thủ lĩnh, những người lãnh tụ là những
cá nhân xuất sắc nhất sẽ là những người tạo ra những dấu ấn quan trọng, khắc
những nét sâu vào quá trình sáng tạo lịch sử. Họ sẽ là người đứng đầu xuất sắc
nhận biết được lợi ích chung mà toàn thể quần chúng nhân dân hướng đến để
tập hợp cộng đồng người dân lại, lãnh đạo họ cùng nhau thực hiện cách mạng
để đạt được lợi ích đó. Đây chính là những bước phát triển của lịch sử, ghi đấu
ấn sâu sắc nhất vào lịch sử.
Như vậy, vai trò của cá nhân và quần chúng nhân dân đối sự sáng tạo và
phát triển của lịch sử là vô cùng quan trọng và hai vai trị này khơng thể tách rời
nhau. Tổng quan chung thì quần chúng nhân dân là chủ thể to lớn sáng tạo ra
lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử, nhưng chính những cá nhânnhững thành phần riêng biệt trong quần chúng to lớn ấy mới là nhân tố ghi dấu
ấn riêng biệt, tác động sâu sắc nhất đến việc sáng tạo ra bản chất, nội dung của
lịch sử và là yếu tố quyết định sự định hướng phát triển của lịch sử.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của nhân dân đối với sự phát
triển của đất nước, của cách mạng.
Thứ nhất, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành cơng của
sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh đã nói: "Trong bầu trời khơng gì q bằng Nhân dân. Trong
thế giới, khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân".

5



Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của Nhân dân trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nhân dân là lực lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố tạo nên thắng
lợi của cách mạng bởi lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng,
không sợ gian khổ, tù đày. Người cũng đã khẳng định: “Có dân là có tất cả”, tin
ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ
bản trong chiến lược cách mạng của Người. Nguyên tắc quan trọng này bắt
nguồn từ các giá trị trong truyền thống dân tộc: “Chở thuyền là dân, làm lật
thuyền cũng là dân”, “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu
cũng xong”.
Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh là một tập hợp đơng
đảo quần chúng tài năng, trí tuệ, sáng tạo, ln ln sẻ áo, chở che, đùm bọc và
bảo vệ bộ đội, cán bộ cách mạng. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã nói: “Lực
lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, khơng ai chiến thắng được lực
lượng đó”. 
Thứ hai, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải
coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.
Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý,
Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải
phóng lao động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu
tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con
người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể từng giai đọan cách mạng.
Con người là động lực cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã
hội chủ nghĩa”, “có dân thì có tất cả”…
Tuy nhiên khơng phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là

những con người được giác ngộ tổ chức. Họ cần có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa,
đạo đức, được ni dưỡng trên truyền thơng lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam. Vì vậy cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Càng
chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người –
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh con người – động
lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Dựa vào những lí luận đã nêu ở trên, con người dù là cá nhân hay quần
thể nhân dân thì ln là yếu tố cốt lõi không chỉ trong việc sáng tạo lịch sử,

6


quyết định sự phát triển lịch sử mà còn cả trong sự phát triển của đất nước và là
yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển của đất nước cách mạng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vai trò của nhân tố con người trong cơng nghiệp hóa ở các quốc gia.
Thực tiễn cho thấy không một quốc gia nào phát triển mà khơng trải qua
tiến trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên khơng phải mọi
quốc gia tiến hành cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đều trở thành nước phát triển,
vậy điều gì làm nên sự khác biệt đó? Phải chăng nút thắt nằm ở chính cách họ
vận dụng các nguồn lực đề tiến hành công nghiệp hóa. Chẳng ở đâu xa ngay
trên mảnh đất châu Á này khi nhắc đến sự phát triển thần kì chúng ta không thể
không nhắc đến nền kinh tế đứng thứ ba thế giới Nhật Bản hay 3 niềm tự hào –
3 con rồng châu Á Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Nhìn nhận vị thế của họ
ngày hơm nay và quay lại lịch sử xuất phát thì đó là một khoảng cách rất xa,
một bức phát triển vượt bậc. Vậy khi đi lên họ có những gì? Sau chiến tranh thế
giới thứ hai 4 quốc gia đều là những mảnh đất bị tàn phá nặng nề, kiệt quệ về
kinh tế, nghèo nàn về tài nguyên, diện tích nhỏ hẹp. Và rồi chính trên cái nền
tảng bần cùng đó họ đã đứng lên kì diệu từ một yếu tố duy nhất hay theo cách
nói của cố thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu là “nguồn tài nguyên duy nhất”

– con người. Có chăng chính cái nhìn trực diện về những thiếu thốn tài nguyên
đã khiến cho họ sớm nhận ra nhân tố con người là động lực quan trọng là chủ
thể đưa quốc gia đi lên. Đến đây ta cũng có thể nhìn nhận rằng mỗi khi thế giới
nhắc về bước đi thần kì của quốc gia này họ khơng bao giờ quên đi những nhà
chính trị gia – những con người có tầm nhìn chiến lược, đương đầu với khó
khăn để xây dựng nên vị thế như ngày hôm nay. Cùng điểm lại cách thức họ sử
dụng nhân tố con người để tạo nên thành cơng trong cơng nghiệp hóa ở từng
quốc gia.
a. Nhật Bản.
Để trở thành nền kinh tế đứng thứ ba thế giới như ngày hôm này, trong
quá trình vận động cải cách, người Nhật đã từng bước nhận thức đúng con
đường cải cách và không ngừng phát triển, hồn thiện con đường cải cách đó
theo cách thức của dân tộc mình. Nhưng sự biến chuyển lớn lao đó của Nhật
Bản phải trải qua nhiều thăm trầm. Trong đó có hai giai đoạn đặc biệt quan
trọng trong lịch sử cận đại Nhật Bản. Giai đoạn thứ nhất là cuộc Canh Tân Minh
Trị trong những năm 1860-1911 đã biến chuyển Nhật Bản từ một quốc gia đóng
cửa với thế giới trở thành một cường quốc, với thể chế chính trị hiện đại, với
một nền giáo dục được canh tân và khai sáng. Và giai đoạn thứ hai là giai đoạn
phát triển sau năm 1945, đã biến một đất nước bị tàn phá trong Chiến tranh Thế
giới thứ II trở thành một quốc gia hiện đại. Nếu Thiên hoàng Minh Trị là người
7


đặt nền móng cho sự phát triển của nước Nhật thì Nhật hồng Hirohito chính là
người giúp cho nền móng đó đứng vững và phát triển.Thiên hồng Minh Trị là
vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản người được coi là một vị minh qn có
cơng lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, đã tiến hành cuộc cải cách Minh Trị canh
tân và đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ trở
thành thuộc địa của các nước đế quốc phương Tây giữa lúc chủ nghĩa thực dân
đang phát triển mạnh, mở ra một kỉ nguyên phát triển mạnh mẽ cho nước Nhật.

Hirohito là tên húy của Thiên hồng Chiêu Hịa,tức vị Thiên hồng thứ 124 của
Nhật Bản. Ơng là người đầu tiên của Hoàng gia Nhật Bản xuất ngoại đi châu Âu
suốt 6 tháng. Khi ông mới lên ngôi, Nhật Bản vẫn cịn là một quốc gia nơng
nghiệp, hoang sơ với rất ít các cơ sở cơng nghiệp. Q trình quân sự hóa Nhật
Bản trong những năm 1930, cuộc chiến tranh Trung-Nhật và Thế chiến thứ II đã
đưa nước Nhật trở thành một quốc gia công nghiệp và công nghệ hiện đại vào
bậc nhất thế giới.
Chúng ta đều biết rằng Nhật Bản là một đất nước nghèo nàn về tài
nguyên khoáng sản và cũng thường xuyên xảy ra thiên tai, phần lớn nguyên
nhiên vật liệu lại nhập khẩu, nền kinh tế Nhật lại bị phá hủy nặng nề trong
Chiến tranh thế thới thứ hai. Với mục tiêu phục hồi nền kinh tế đồng thời phải
tiếp tục đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa đất nước, Chính phủ Nhật Bản đã tiến
hành nhiều biện pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực từ bên ngồi và làm
cho chúng thích ứng với điều kiện Nhật Bản theo phương châm kết hợp “kỹ
thuật phương Tây” và “tinh thần Nhật Bản”. Phương pháp chủ yếu và xuyên
suốt của Nhật Bản trong việc tiếp cận với kỹ thuật tiên tiến phương Tây là bằng
con đường nhập khẩu với nhiều hình thức khác nhau: nhập khẩu trực tiếp công
nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người Nhật đi du học để tiếp
thu những tri thức mới của phương Tây, và “nhập khẩu" cả chuyên gia giỏi từ
nhiều nước khác nhau trên thế giới. Cách thức cụ thể là, Chính phủ “câu” nhân
tài các nước bằng chế độ lương bổng ưu đãi; khuyến khích các cá nhân và tổ
chức tiếp cận với những người nước ngồi có bằng sáng chế và có bản quyền
thích hợp, thu hút họ đến Nhật Bản làm việc; thu hút trở lại những người đi du
học ở nước ngoài… Bằng cách đó, số người nước ngồi đến làm việc tại Nhật
Bản ngày càng nhiều, từ cố vấn kỹ thuật, giáo viên, nhà đầu tư,  cho đến nhà
quản lý và thợ lành nghề. Chính vì vậy mà để có được sự phát triển như hiện
nay đó là sự đóng góp khơng nhỏ của nguồn lực con người. Có thể nói, Nhật là
nước đầu tiên ở châu Á đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực, ngay từ sau
chiến trang thế giới thứ 2 thì Nhật đã ưu tiên tuyển chọn, đào tạo những người
tài giỏi thích hợp cho cơng cuộc hiện đại hóa đất nước thơng qua các chính sách

đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhằm xóa khoảng cách về khoa học
– công nghệ giữa Nhật và các nước tiên tiến khác. Hiện nay, thì Nhật vẫn luôn
8


chú trọng vào việc phát triển yếu tố con người vì vậy mà người Nhật ln được
bạn bè thế giới đánh giá cao bởi sự chủ động sáng tạo, ý thức tập thế và tinh
thần trách nhiệm cao.
b. Singapore
Đảo quốc sư tử - Singapore mang đến câu chuyện thành công phi thường
và tên tuổi của cố thủ tướng Lý Quang Diệu. Ngay khi bị trục xuất khỏi Liên
bang Malaysia năm 1965. Singapore khi đó chỉ là một hịn đảo nhỏ, dân số ít ỏi,
khơng có tài ngun. Ở thời điểm đó, chưa có một mơ hình thành phố - nhà
nước nào để Chính phủ Singapore học hỏi. Quan điểm chung khi đó là quốc gia
Singapore độc lập sẽ khó tồn tại lâu. Tuy nhiên ngay khi đó, ơng Lý Quang
Diệu khẳng định tài sản lớn nhất mà Singapore sở hữu chỉ là nguồn nhân lực.
Ông Lý Quang Diệu tin rằng cung cấp các điều kiện tốt nhất để những cá nhân
tài năng đạt thành công là cách duy nhất để Singapore vươn lên: “Ai chiến
thắng trong chiến lược về con người sẽ chiến thắng trong chiến lược về kinh tế”.
Chính phủ Singapore đã dành một khoản đầu tư rất lớn để phát triển giáo dục.
Từ mức đầu tư khoảng 3% GDP những năm 1990 đã tăng lên tới 5% trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI. Để phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá
trình phát triển kinh tế, Singapore đã xây dựng một hệ thống trường cao đẳng
nghề, trường đại học quy mô lớn và khuyến khích các công ty tham gia đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước.
Ngoài việc đầu tư mạnh cho giáo dục – đào tạo, Singapore còn được đánh
giá là một trong những quốc gia có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao, đặc biệt là nguồn nhân lực tài năng bài bản nhất thế giới. Quốc gia
này coi việc thu hút nhân tài là chiến lược ưu tiên hàng đầu. Chính phủ
Singapore đã xây dựng chính sách sử dụng người nhập cư hay còn gọi là chính

sách tuyển mộ nhân tài nước ngoài như đòn bẩy về nhân khẩu để bù vào sự
thiếu hụt lực lượng lao động người bản địa. Nguồn nhân lực có kinh nghiệm và
chất lượng tốt ở nước ngoài được tuyển dụng một cách tích cực và có hệ thống
bổ sung cho những khu vực còn hạn chế của nguồn nhân lực trong nước. Những
người này được trợ giúp để cư trú tại Singapore. Chính phủ Singapore miễn xét
thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi
phí học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa
dạng. Có thể nói Singapore đã biến việc trọng dụng nhân tài trở thành một
thương hiệu quốc gia, từ đó, tạo lực kéo người đến và giữ người ở lại phục vụ
cho sự nghiệp phát triển đất nước.
c. Hàn Quốc

9


“Điều kì diệu trên sơng Hàn” gắn liền tên tuổi của tổng thống Park Chung
Hee. Trong hàng loạt các chính sách đương lối để đưa đất nước đi lên ông đã rất
khéo léo trong việc đánh thức niềm tin vào tương lai, khơi dậy ý chí cháy bỏng
vươn tới thịnh vượng của người dân và lãnh đạo đất nước, sự quản lý nghiêm
minh, hà khắc và độc đoán của nhà cầm quyền... đã là cái rất đáng kể làm nên
một Hàn Quốc như thế giới được chứng kiến hôm nay. Trong thời đại cách
mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra rất mạnh mẽ, Hàn Quốc rất coi trọng
phát triển nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở Hàn Quốc
bao gồm nhiều khía cạnh như đào tạo giới lãnh đạo trong bộ máy chính phủ, đội
ngũ cán bộ kinh doanh giỏi và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Đối với
các sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm nhà nước sẽ hỗ trợ một
khoản vay để họ có khả năng mở một doanh nghiệp nhỏ. Về phương pháp đào
tạo, Hàn Quốc rất chú trọng kết hơp chặt chẽ những yếu tố đặc sắc của văn hóa
phương Đơng với việc mở rộng và tiếp cận các kiến thức và thành tựu khoa học
công nghệ của phương Tây. Một đặc điểm khác về giáo dục của Hàn Quốc có

thể kể đến như việc thi vào đại học sau 12 năm học phổ thông ở đây luôn là một
vấn đề trọng đại của đăt nước cũng như là một việc cực kì khó khăn, áp lực cho
các học đinh. Điều này đã giúp tạo ra cho Hàn Quốc những nguồn nhân lực tài
giỏi thật sự.
d. Đài Loan.
Sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore Đài Loan là nền kinh tế đứng thứ
4 châu Á. Cùng các điểm tương đồng với Hàn Quốc, bắt đầu nổi lên ở những
năm 70 và mạnh mẽ vào những năm 80 của thế kỷ 20, trong khi các nền kinh tế
của các nước xã hội chủ nghĩa bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng
nhất để bắt đầu cho quá trình sụp đổ của Liên Xơ và Đơng Âu thì ngược lại, Đài
Loan bắt đầu bứt phá chóng mặt. Trong khoảng 30 năm liên tục bứt phá đó,
tăng trưởng ln duy trì ở ngưỡng trên 8,5%.
Cơng thức của Đài Loan chẳng có gì khác với những đất nước nêu trên:
xuất phát điểm là một nên kinh tế “khơng có gì”, nền sản xuất cũng “khơng có
gì” và bắt đầu với sự kham khổ: đầu tư rất nhiều, mức tiêu dùng thấp, đặt xuất
khẩu làm ưu tiên số một và đồng tiền được định giá thấp. Coi trọng ưu tiên phát
triển nguồn lực là chìa khố để phát triển đất nước. Trong đó, chú ý các yếu tố
như: Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với đặc trưng các giai đoạn phát triển
kinh tế; thực thi các chính sách khơn ngoan về dân số, giáo dục và thu hút nhân
tài từ bên ngoài…
Một trong những vấn đề nhân lực lớn nhất mà Đài Loan phải đối mặt là
tình trạng dân số già; nguồn cung lao động khơng đủ cầu. Theo đó, Đài Loan
chú trọng thực hiện chiến lược dân số theo hướng nâng cao chất lượng dân số,
10


bảo đảm nguồn cung lao động. Đài Loan đã thúc đẩy các biện pháp giáo dục
chăm sóc trẻ em mầm non; giảm bớt gánh nặng chi phí chăm sóc trẻ em cho các
gia đình; giúp đỡ người già có cuộc sống ổn thỏa, thúc đẩy kế hoạch kéo dài
tuổi trẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người già…

Bên cạnh đó, chính quyền chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thông qua các chiến lược giáo dục dài hạn. Theo đó, chú trọng phát huy và nâng
cao khả năng sáng tạo của học sinh trong giáo dục. Thiết lập hệ thống giáo dục
linh hoạt, tăng cường học đi đôi với hành, thúc đẩy giao lưu trao đổi nhân tài,
thiết bị, tư vấn kỹ thuật, rút ngắn khoảng cách nhu cầu nhân lực của doanh
nghiệp và giáo dục. Đồng thời, xây dựng cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc
tuyển sinh vào các khoa của các trường đại học, cao đẳng, để khi sinh viên ra
trường có thể đáp ứng nhu cầu của người tuyển dụng. Bên cạnh đó, tăng cường
các khóa học cơ bản về tư vấn giáo dục và ngoại ngữ, nâng cao khả năng ngoại
ngữ cơ bản và tăng cường trao đổi sinh viên quốc tế. Đài Loan đặc biệt chú
trọng đào tạo nhân lực cho các ngành nghề “mới nổi”; phát triển các ngành khoa
học kỹ thuật như: công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ, năng lượng mặt trời,
thông tin không dây, chất bán dẫn, thơng tin, phần mềm đa phương tiện, lập ra
chương trình đào tạo đặc biệt để tăng cường nhân tài cho các ngành khoa học kỹ
thuật trên.
Khơng dừng lại ở đó, Đài Loan còn rất thực dụng trong thu hút nhân tài ở
hải ngoại. Để thu hút được người tài về nước làm việc, chính quyền Đài Loan
đã thực hiện việc cho phép các doanh nghiệp, cơ quan trả mức lương cao đối
với nhân tài là kiều bào, coi đây là một trong những “trọng điểm” của công tác
khai thác nguồn nhân lực. Chính quyền Đài Loan đã thực thi một số chính sách
ưu đãi cụ thể như: Những người học tập ở nước ngoài về làm việc được hưởng
mức lương cao hơn 1-2 bậc so với người có học vấn tương tự trong nước. Ngồi
lương, cịn được hỗ trợ tiền nghiên cứu khoa học, mua nhà…Đối với những
chuyên gia cao cấp tạm thời chưa thể về nước thì thơng qua hình thức “học giả
khách mời”, “giáo sư thỉnh giảng”… để mời họ về giảng dạy hoặc tham gia các
cơng trình nghiên cứu, qua đó, đóng góp chất xám cho vùng lãnh thổ này.
Thơng qua những bước chuyển mình thần kì của 4 nền kinh tế hàng đầu
châu Á và câu chuyện làm nên thành cơng của họ ta có thể thấy chìa khóa quyết
định nên thành cơng của tiến trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của họ chính là
nhân tố con người. Chính con người là chủ thể quyết định những chính sách

bước đi đúng đắn và cũng chính nhân tố con người đã thực hiện chính sách đó
đem lại thành quả như ngày hôm nay. Dù là trong quá khứ, hiện tại hay tương
lại cả 4 quốc gia vẫn luôn lấy con người làm trung tâm của sự phát triển.

11


1.2.2. Thực tiễn Việt Nam về vấn đề sử dụng nguồn lực con người trong
cơn nghiệp hóa ở nước ta từ 1960 đến nay
a. Vấn đề nguồn lực con người Việt Nam thời kì trước đổi mới
(1960-1986)
Con đường cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa mang tính tất yếu trong
cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đường lối cơng nghiệp hóa đất
nước được hình thành từ Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960), xác định mục tiêu
cơ bản của cơng nghiệp hóa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân
đối và hiện đại, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Đảng đã đề ra các phương hướng
Một là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
Hai là kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
Ba là ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 1975 tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)
Bốn là ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh
phát triển công nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm cơng nghiệp như
Hải Phịng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Ngun, Nam Định…)
Đây là sự lựa chọn mơ hình chiến lược cơng nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu trên phạm vi Miền Bắc. Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đại hội IV
của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra đường lối nhất trí với đại hội III, trên phạm
vi cả nước và có sự phát triển thêm. Nhưng thực tế chúng ta không đạt được
như kì vọng bởi nhiều lý do, trong đó có vấn đề quan tâm không đúng mức đến
phát huy sử dụng nguồn lực con người. Nước ta cơng nghiệp hóa chủ yếu dựa

vào lợi thế về lao động, tài nguyên, viện trợ. Trong khoảng thời gian đó, lao
động Việt Nam dồi dào, nhưng chủ yếu là tay nghề lao động kém. Nguyên nhân
là Việt Nam bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên có tỷ lệ mù chữ, khơng được
đào tạo bài bản cao. Theo thống kê năm 1979, lượng lao động khơng có trình độ
chun mơn kĩ thuật là 95,03%; cơng nhân kĩ thuật và nhân viên nghiệp vụ có
bằng là 3,39%; trung học chuyên nghiệp là 1,06%; Cao đẳng trở lên là 0,52%.
Để cải thiện nguồn lực con người, đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, dậy nghề hình thành và phát triển, đã đào tạo được đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 là
thời điểm bắt đầu cơng nghiệp hóa nhưng vẫn còn là một con số nhỏ. Việc phân
bổ nguồn lực để cơng nghiệp hóa thực hiện thơng qua cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp, hạn chế khả năng quản lý vào tạo ra giá trị thặng dư
cho xã hội của nguồn lực con người. Đồng thời việc phân bổ lao động theo vùng
12


công nghiệp trọng điểm và nông thôn cũng không đồng đều dẫn đến sử dụng lao
động chưa được tối ưu, lao động thất nghiệp nhiều. Thời kì này, Đảng vẫn chưa
xác định đúng mức tầm quan trọng của nguồn lực con người nên chưa có lối đi
đúng đắn cho sự phát huy nguồn lực này.
b. Phát huy nguồn lực con người Việt Nam thời kì đổi mới
Có thể thấy rằng từ xưa các vị hào kiệt của nước ta đã nhận thức được vai
trò của con người trong việc phát triển đất nước có thể kể đến như Thân Nhân
Trung với câu dẫn nổi tiếng trên bia tiến sĩ  “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
vẫn được lưu giữ đến ngày hơm nay. Có thể thấy được phát triển con người
chính là điều tất yếu để phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn:

“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính
sự nghiệp đó. Càng chăm lo cho con người tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy được
con người tốt bấy nhiêu và tăng cường sức mạnh của con người thì sẽ nhanh
chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Tuy nhiên trong giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta lại có hướng đi chưa
thật sự đúng đắn, chưa nâng cao được vai trò của con người. Sang giai đoạn
phát triển thời kì đổi mới, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy về cơng nghiệp
hóa:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc
chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1985, trong đó chỉ ra sai lầm lớn nhất là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa khi
thiếu các tiền đề cần thiết. Từ đó đề ra phương hướng: “Đi đôi với công cuộc
cải tạo và phát triển kinh tế, chúng ta phải triển khai tích cực, kiên quyết và bền
bỉ các hoạt động về phát triển xã hội, xây dựng nền văn hoá mới và con người
mới, chống các hiện tượng tiêu cực, nhất là tệ tham nhũng, hối lộ, đầu cơ, trục
lợi, thiết lập công bằng xã hội”
Đại hội VII của Đảng (năm 1994) đã có bước đột phá trong nhận thức,
khẳng định: “Sự nghiệp cơng nghiệp hóa có thành cơng hay khơng, đất nước

13


Việt Nam bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không phần lớn tùy thuộc vào con người”.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới
đã xác định chúng ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên trong thời kì q độ, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đại hội đã khẳng định và tiếp tục
bổ sung phát triển quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hóa hiện đại hóa được

nêu lên ở đại hội VII. “Ngày nay, cơng nghiệp hóa ln gắn liền với hiện đại
hóa, với việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên
tiến của thời đại. Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết đinh thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.” Đảng đã chú trong sâu sắc vào việc đưa ra các chính sách
phát triển nguồn nhân lực, đưa giáo dục đào tạo lên hàng đầu, bồi dưỡng nguồn
lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) và XI (năm 2011) của
Đảng của Đảng, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức của Đảng về cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa  đã đưa ra quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
cụ thể là: cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học. cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Lấy phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đảng đề ra nội dung và định hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những
năm tiếp theo thiết thực và phù hợp xu thế thời đại, tất cả nhằm mục tiêu vì con
người, vì sự phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2050 nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại.
Hiện nay Việt Nam đang thực hiện nhiều chính sách ưu tiên cho giáo dục,
mở nhiều trường đại học, đào tạo dạy nghề. Tuy nhiên hiện có tới hơn 24.000
tiến sĩ, hơn 100.000 thạc sĩ. Trong đó có tới 225.500 cử nhân, thạc sĩ thất
nghiệp, có thể thấy được rằng Việt Nam đang xảy ra tình trạng đào tạo tràn lan,
ồ ạt dẫn đến mất kiểm soát. Các trường đại học mọc lên như nấm, đầu vào thấp.
Lẽ ra chúng ta nên tập trung xã hội hóa khối dạy nghề thì lại tập trung cho khối
đại học và trên đại học, dẫn đến thừa cử nhân. Xã hội ưa chuộng bằng cấp, cử
nhân ra trường thất nghiệp đua nhau đi học thạc sĩ dẫn tới tình trạng thừa thầy
thiếu thợ. Từ đó có thể thấy được, mặc dù nước ta đang có hướng đi đúng đắn
cho việc đầu tư nguồn lực là con người, tuy nhiên chúng ta lại chưa đưa ra được

những giải pháp có hiệu quả, do đó nguồn lực con người vẫn chưa được sử dụng
một cách triệt để nhất.
14


CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, Đảng ta
khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam”. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2015, Đảng
ta xác định mục tiêu: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển biến mạnh về giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Và trong
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011), Đảng ta
đặt mục tiêu: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội
ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao
động lành nghề”
2.1.

Nguồn nhân lực là gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.

Theo Liên hợp quốc: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ đến sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước’’
Theo Ngân hàng thế giới: “Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây

nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,…”
Theo tổ chức lao động quốc tế: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là tồn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản
xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân
lực bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ
tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ
các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể
lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
15


Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong
độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu
hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động
làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động
được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chun mơn, kiến thức và
trình độ lành nghề của người lao động.
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có
thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hồ thể lực và trí lực tồn tại trong tồn bộ lực
lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai
của đất nước.
2.2.


Tại sao phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững?

Để phát triển tăng trưởng kinh tế phải sử dụng nhiều nguồn lực, nhiều
yếu tố, tựu chung lại có 5 yếu tố cơ bản : vốn, KHCN, Con người, cơ cấu kinh
tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó, con người là nhân tố quyết
định nhất.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì trong thời kỳ quá độ và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng đã chỉ rõ: con người là nguồn lực quan
trọng nhất , là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất
nước. Chính con người là nhân tố sáng tạo ra các yếu tố khác. Các yếu tố khác
muốn phát huy được vai trị của mình trong thực tiễn đều phải thơng qua hoạt
động con người trực tiếp hay gián tiếp. Các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn
nhân lực), xét về mặt số lượng hay trữ lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào,
nhưng nếu khai thác và sự dụng không hợp lí thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ
trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp
khó khăn, nếu khơng nói là bị đe doạ. Trái lại, nguồn lực con người với tiềm
năng trí tuệ, chất xám thì ln sinh sôi và phát triển không ngừng nếu biết trau
dồi, bồi dưỡng. Có thể khẳng định nguồn lực con người là vô tận và do vậy, con
người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của
quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực,là nguồn lực cơ bản của sự phát triển
bền vững.
Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học
và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng
nhanh. Tuy nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế nào cũng khơng
thể thay thế hồn tồn vai trị của con người. Nguồn nhân lực vẫn đóng một vai
16


trị quan trọng, quyết định q trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế –

xã hội. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có của
các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh
ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Trong bối cảnh như vậy,
nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển nhanh và
bền vững
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được Đảng xác định
là của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Trong đó lực lượng cán bộ khoa
học và công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ cơng nhân lành nghề giữ
vai trị đặc biệt quan trọng. Nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ
yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình
trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay,
cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại ,q trình tồn cầu hố đã tạo điều
kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước đang phát triển có thể khắc phục sự yếu
kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của mình thơng qua con đường hợp tác, có
thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa trên quan hệ
đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề đặc biệt
quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng
giải quyết một cách có hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao. Nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
địi hỏi về số lượng, trí tuệ, khả năng tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học
và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đại
hội XI đã khẳng định rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm
cho phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững”. Nguồn nhân lực chất lượng cao là
một trong các yếu tố quyết định đến sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nguốn nhân lực chất lượng cao là quá trình chuyển đổi căn

bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động
thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo
cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

17


3.1.

CHƯƠNG 3: NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN
Đánh giá quan điểm

Quan điểm “Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững” là một quan điểm đúng đắn bởi các yếu tố như
sau.
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm dân số của Việt Nam. Dân số Việt Nam
gia tăng khá nhanh tính đến hết năm 2016 có: 93,421,835 người. Cơ cấu dân số
Việt Nam theo nhóm tuổi thuộc loại cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi
lao động chiếm 69,4% tổng dân số. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt
Nam đang phát triển dồi dào.
Với những ưu điểm trên, quan điểm tập trung phát huy nguồn lực con
người của Đảng ta trong tiến trình thực hiện Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa là
hồn tồn hợp lý .

Thứ hai, q trình thực hiện Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta dựa
trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên,… Tuy nhiên, bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải cần có một
nguồn lực chính thúc đẩy. Với những nguồn lực như vốn, khoa học cơng nghệ,
tài ngun thiên nhiên thì chúng chỉ là những vật vô tri vô giác, muốn phát huy

được tác dụng chỉ có thể thơng qua nguồn lực con người. Con người là nhân tố
quyết định nhất, chỉ có tác động của con người mới phát huy được vai trò của
chúng và đưa chúng vào hoạt động. Con người sử dụng sức lao động, nhận
thức, vận dụng những hiểu biết, tri thức về thế giới vào hoạt động thực tiễn để
18


để phục vụ mục đích ngày càng cao của chính mình, từ đó từng bước tiến tới
một nền kinh tế tăng trưởng, phát triển hơn.
Thứ ba, nguồn lực con người là một nguồn lực vô tận, không bị cạn kiệt,
càng khai thác sử dụng lại càng lớn lên. Sức mạnh của nguồn lực con người bị
chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau song yếu tố quan trọng nhất trong nguồn
lực con người không phải là số lượng, mà là chất lượng. Đây mới chính là yếu
tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, cũng như đối với sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Nói đến chất lượng của
nguồn lực con người là nói đến hàm lượng trí tuệ. Trong khi những nguồn lực
khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng,
phong phú. Ngược lại với các nguồn lực khác, nguồn lực con người càng được
sử dụng, lại càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả. Nhà tương lai học
người Mỹ Alvin Toffler đã khẳng định rằng “Mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể
khai thác cạn kiệt, chỉ có trí tuệ con người là khơng bao giờ cạn kiệt”. Qua đó,
ta thấy được vai trò của con người rất quan trọng trong việc sáng tạo ra những
yếu tố khác để cùng nhau trở thành nguồn lực đầu vào cần thiết cho sự phát
triển kinh tế nói riêng, đất nước nói chung.
Thứ tư, xuất phát từ nguyên lý “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa được xác định là sự nghiệp của tồn
dân. Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là sự nghiệp trọng đại của nhân dân ta, đất
nước ta, nhằm mục đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”. Nó khơng phải một cơng việc của riêng một bộ phận, một giai cấp mà là
sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện. Chính vì vậy, trong q trình

thực hiện Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, việc phát huy nguồn lực con
người hay chính là nguồn lực toàn dân là một yếu tố cơ bản phù hợp với tính
chất đặc điểm tình hình phát triển của nước ta.
Thứ năm, để phát huy nguồn lực con người ở nước ta nhất thiết phải phát
huy cao tinh thần dân chủ là trước nhất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh vai trị con
người chính là vai trị của quần chúng nhân dân, người sáng tạo chân chính ra
lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng nào", thể hiện qua các hoạt
động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội và
sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần. "Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều
do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông
dân, xã hội mới sống cịn phát triển", “dân là vốn q nhất, có dân là có tất cả”.
Khi tính dân chủ được phát huy cao, mọi người có quyền tự do sáng tạo, nêu lên
ý kiến cá nhân, bày tỏ quan điểm với mọi vấn đề xã hội; không chỉ giúp đánh
thức, phát huy năng lực tiềm ẩn trong mình mà cịn giúp xã hội ngày càng hoàn

19


thiện, phát triển, tham nhũng đẩy lùi, Nhà nước có thể đầu tư nhiều nguồn lực
hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Khi nào chúng ta biết tôn trọng, yêu thương, tin tưởng, dựa vào nhân dân,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với lòng người, quan tâm
tới quyền lợi của nhân dân, tạo ra động lực cho người lao động... thì lúc đó
chúng ta phát huy được nhân tố con người, khai thác và huy động được năng
lực, khả năng của mỗi cá nhân và toàn dân tộc vào tiến trình cách mạng.
Thứ sáu, trong thời đại hội nhập kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa như
hiện nay, nguồn nhân lực đơng đảo thơi chưa đủ, mà phải có chất lượng cao,
được trang bị những tri thức toàn diện, linh hoạt, sang tạo và chủ động nắm bắt
thời cơ, cơ hội, biết ứng dụng lí thuyết vào thực tiễn thì mới có thể phục vụ cho
sự nghiệp phát triển của đất nước. Khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ

nghĩa xã hội thì những ưu việt đó khơng do ai đưa đến. Đó phải là kết quả
những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển
cả về trí lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị-xã hội và đạo
đức, tình cảm trong sáng.
Với tinh thần “phát huy nhân tố con người”, “làm cho sản xuất bung ra”,
“giải phóng mọi năng lực sản xuất” trong nhân dân... được khởi xướng từ Đại
hội VI của Đảng (12-1986), đất nước đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế-xã hội. Nước ta từ thiếu đói đã tiến đến hồn thành mục tiêu “ăn no, mặc ấm”
và vươn tới những mục tiêu cao hơn. Những thành tựu đã đạt được trong mọi
mặt kinh tế, xã hội, nhất là ở các lĩnh vực công nghiệp, khoa học kĩ thuật, năng
lượng, điện tử... là những minh chứng rõ ràng nhất, cụ thể nhất cho vai trò to
lớn của con người, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của cơ chế thị trường đã làm
cho không ít cá nhân, tập thể, doanh nghiệp bị chìm đắm vào những lợi ích cá
nhân, vì đồng tiền, vì lợi ích mà đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của quốc
gia dân tộc. Còn rất nhiều những trường hợp “con sâu làm rầu nồi canh”, không
những không phục vụ được gì cho sự nghiệp phát triển của đất nước mà còn gây
ra sự nhũng nhiễu, bất ổn trong nhân dân, làm lung lay niềm tin của dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, thậm chí nhiều cá nhân cịn lạm dụng quyền
lực, tham ơ gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng cho Ngân sách Nhà nước. Những
tình trạng đó càng đặt ra vấn đề về cách dùng người, sử dụng cán bộ, những giải
pháp để phát huy được nhân tố con người thực sự xứng tầm “là cái cẩm nang
thần kỳ”, “bàn chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.
3.2.

Trách nhiệm của bản thân trong việc đưa quan điểm này vào thực tế

20




×