Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Cơ sở thực tiễn các chế độ Bảo Hiểm XH ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.65 KB, 36 trang )

lời nói đầu
Việt Nam là một nớc đông dân (80 triệu ngời, đứng thứ 13 trên thế giới), nhng
lại là một trong những nớc nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu ngời hơn
400 USD .Vì vậy,an sinh xã hội nói chung và BHXH nói riêng có ý nghĩa to lớn đối
với ngời lao động và ngời dân.Ngay từ khi thành lập nớc,Chính phủ Việt Nam đã rất
chú trọng đến chính sách BHXH.Riêng lĩnh vực bảo hiểm xã hội,qua 40 năm thực
hiện,chính sách BHXH đã đợc mở rộng dần từng bớc,từ chỗ đối tợng chỉ là công
nhân viên chức Nhà nớc,đến nay đã mở rộng cho ngời lao động thuộc tất cả các thành
phần kinh tế. Tính đến nay đã có khoảng 4 triệu ngời tham gia bảo hiểm xã hội và 2
triệu ngời đang hởng các trợ cấp BHXH thờng xuyên.Chính sách BHXH góp phần to
lớn vào việc ổn định đời sống cho ngời lao động thụ hởng bảo hiểm xã hội;góp phần
ổn định chính trị xã hội của đất nớc.
Là những sinh viên chuyên nghành Kinh tế Lao động từ lâu chúng tôi đã muốn
tìm hiểu những vấn đề cơ bản của BHXH Việt Nam vì tác động rộng lớn của nó đối
với toàn xã hội, nó tồn tại xung quanh cuộc sống mà chúng tôi không hiểu về nó; và
rất may mắn chúng tôi đã đợc giao viết bài luận về vấn đề này.
Chắc chắn những hiểu biết từ thông tin thu thập đợc là không đầy đủ ;mong đ-
ợc sự góp ý, bổ sung của các bạn quan tâm đến vấn đề này và ý kiến cô giáo chủ
nhiệm Tiến sĩ Trần Thị Thu để chúng tôi hoàn chỉnh mảng kiến thức này.
Xin chân thành cảm ơn!
1
I. Cơ sở lý luận của bảo hiểm xã hội.
1.Tính tất yếu của BHXH.
Con ngời muốn tồn tại và phát triển ,trớc hết cần phải ăn mặc. Để thỏa mãn
những nhu cầu tối thiểu đó, ngời ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết.
Khi sản phẩm đợc tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con ngời ngày càng đầy đủ và
hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu
sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc vào chính khả năng lao động của
họ.Nhng con ngời ai cũng phải trải qua vòng đời sinh _lão _bệnh _tử.Khi còn nhỏ
phải dựa vào bố mẹ nuôi dỡng,khi trởng thành phải lao động nuôi sống bản thân và
gia đình,khi già lại cần con cái nuôi dỡng.Trong thực tế không phải lúc nào con ngời


cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thờng.
Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm
cho ngời ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn,
bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả
năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v. Khi rơi vào những trờng hợp
này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn
tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới nh: cần đợc khám chữa bệnh và
điều trị khi ốm đau; tai nạn thơng tật nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng v.v.
Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con ngời và xã hội phải tìm ra và thực tế
đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau .
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, do cha có t hữu t liệu sản xuất,mọi ngời
cùng nhau hái lợm săn bắn,sản phẩm thu đợc phân phối bình quân,nên khó khăn, bất
lợi của mỗi ngời đợc cả cộng đồng san sẻ gánh chịu.Trong xã hội phong kiến,quan lại
thì dựa vào chế độ bổng lộc của vua, dân c dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ
hàng,cộng đồng làng xã hay sự giúp đỡ hảo tâm và của nhà nớc.Rõ ràng, những cách
đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công trở nên phổ biến.
Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau phải đã cam kết cả việc
bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu
2
cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v. Trong thực tế, nhiều khi
trong một thời gian dài các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi ra
một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra nhiều
khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên
kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng
rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nớc đã
phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc
vai trò của Nhà nớc, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản
tiền nhất định hàng tháng đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra
đối với ngời làm thuê. Sự đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập

trung trên phạm vi một quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi
cần thiết nhằm đảm bảo cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính
nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi cả ngời lao động đợc dàn trải,
cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ đợc đẩm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy
mình có lợi và đợc bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh những xáo
trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng lớn
và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động đối với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên đ-
ợc thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động. Nh vậy, BHXH là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ngời lao động khi họ gặp
phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở
hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao
động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.BHXH là khách quan.
2.BHXH là yêu cầu khách quan trên con đờng đi lên CNXH
Bảo hiểm xã hội xuất phát từ yêu cầu bảo đảm một cách vững chắc cuộc sống
của ngời lao động.Ngời lao động Việt Nam cũng có mong muốn chính đáng đó.Đối
với nớc ta thì bảo hiểm xã hội cũng là một tất yếu khách quan.Tuy nhiên,quan niệm
về BHXH của Đảng và Nhà nớc ta là khác với các nớc T Bản chủ nghĩa. Trên con đ-
ờng đi lên chủ nghĩa xã hội ,từng thời kỳ với tình hình thực tiễn của Đảng ta đã đề ra
từng chiến lợc kinh tế đi đôi với những chính sách xã hội cụ thể .Trong sự thống nhất
hài hoà giữa hai chính sách đó,Đảng ta cũng xác định rõ tầm quan trọng của chính
3
sách xã hội: Nhằm phát huy mọi khả năng của con ng ời và lấy việc phục vụ con
ngời làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động.Đây chính là xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa Mac_Lênin về Con ngời là vốn quí nhất , và từ lý tởng ,mục
tiêu chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn trong đó có chứa đựng các đặc tr-
ng:Chủ nghĩa xã hội nớc ta là do dân làm chủ.Con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức
bóc lột,bất công, làm theo năng lực ,hởng theo lao động,có cuộc sống ấm no ,tự do
,hạnh phúc,có điều kiện phát triển toàn diện.Từ đó, chính sách xã hội phải là tổng thể
các biện pháp và phơng tiện của Đảng nhằm nâng cao không ngừng điều kiện

sống,lao động và luôn tạo sự an toàn trong cuộc sống lao động của nhân dân.Trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có nêu:Thực hiện các
chính sách xã hội nhằm tạo ra sự an toàn trong cuộc sống của mọi thành viên của
cộng đồng,bao gồm BHXH cho mọi ngời lao động thuộc các thành phần kinh tế .
BHXH khẳng định tính nhân văn của chế độ trong tiến trình đi lên Xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta.
2.Cơ sở khoa học của BHXH.
2.1.Cơ sở xác suất của Bảo hiểm xã hội.
Nh trên đã trình bày, BHXH xuất hiện trên những mối quan hệ đặc trng của sự
phát triển công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá ,nhằm thoả mãn những nhu cầu sinh
sống thiết yếu của ngời lao động trong những trờng hợp bị mất hay giảm thu nhập do
bị mất hay giảm khả năng lao động hay bị mất việc làm. Vậy thế nào là nhu cầu thiết
yếu?
Thông thờng ngời ta có rất nhiều nhu cầu.Ngoài những nhu cầu chung nhất
mà ai cũng có,còn có những nhu cầu mang dấu ấn cá nhân.Tất cả đợc phân chia làm
hai loại nhu cầu thiết yếu và nhu cầu ít thiết yếu hơn.Tuỳ theo khả năng thanh
toán,ngời ta tìm cách thoả mãn các nhu cầu của mình ở các mức khác nhau cũng theo
thứ bậc đó.Chẳng hạn ,trớc hết ngời ta u tiên thoả mãn nhu cầu ăn, mặc, ở rồi mới đến
nhu cầu giải trí du lịch. Vì một lý do nào đó mà ngời lao động bị giảm thu nhập hay
bị mất hẳn thu nhập thì ngời đó không còn đủ khả năng thanh toán để thoả mãn các
nhu cầu của mình, nhng họ vẫn phải sống,do đó làm nẩy sinh nhu cầu làm sao vẫn có
thu nhập.Đó chính là nhu cầu Bảo hiểm xã hội. Nhng do Quỹ BHXH không phải của
4
riêng ai mà là của chung tất cả mọi ngời tham gia đóng góp.Quỹ đợc hình thành từ
khoản đóng góp nho nhỏ hàng tháng của ngời sử dụng lao động ,ngời lao động đợc
tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất những biến cố của tập hợp những ngơì lao
động.Vì vậy, khi đem phân phối dới dạng trợ cấp để tạo nguồn thu nhập cho một số ít
trong tổng số những ngơì tham gia không may gặp phải những vấn đề bất lợi nói trên
thì không thể bảo đảm một mức thu nhập cao để có thể thoả mãn tất cả các nhu cầu
không thiết yếu. Bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở xác suất khoa học và dựa

trên các quy luật tâm lý cơ bản.
2.2.Lý luận về lợi ích biên mang lại
Kinh nghiệm nhiều năm về bảo hiểm xã hội trên thế giới cho thấy,thời gian
đóng góp càng dài,số ngời tham gia càng đông, quy mô của quỹ càng mở rộng thì
hiệu quả kinh tế và xã hội của quỹ ngày càng tăng.Cơ sở của sự lựa chọn này là lý
thuyết về lợi ích biên giảm dần. Có thể giải thích tóm lợc nh sau: Khi một ngời có
nhiều tiền thì mỗi đồng tiền có thêm sẽ mang lại lợi ích cho anh ta ngày càng ít đi.Ví
dụ cụ thể là một ngời nghèo thì rõ ràng rất quý 5000 đ do nó đem lại cho anh ta một
bát phở,anh ta cảm thấy cực kỳ sảng khoái khi ăn bát phở đó.Nhng đối với một nhà tỷ
phú có đánh rơi 5000 đ có lẽ anh ta cũng chẳng thèm nhặt bởi vì 5000 đ đó hầu nh
không mang lợi ích đáng kể cho anh ta.
Chúng ta có thể áp dụng mối quan hệ giữa số tiền tăng lên và lợi ích biên của
nó để xem xét hiệu quả của hoạt động và cách tổ chức của Quỹ BHXH.
Giả sử chúng ta mỗi năm có 4 đơn vị tiền tệ. Đơn vị tiền tệ thứ nhất mang lại
một lợi ích là 4 đơn vị lợi ích,đơn vị thứ 2 mang lại 3,đơn vị thứ 3 mang lại 2 và đơn
vị cuối mang lại một đơn vị lợi ích.Giả sử từ năm thứ nhất đến năm thứ 3 không trích
ra một đơn vị tiền tệ nào và cũng không có trờng hợp nào xảy ra suy giảm hay mất
khả năng lao động nên không phải chi ra một đơn vị tiền tệ nào,do đó cũng không
mất đi một đơn vị giá trị sử dụng nào.Nhng năm thứ 4 bị ốm đau và phải chi cả 4 đơn
vị tiền tệ nên mất đi 10 đơn vị giá trị sử dụng.Nếu mỗi năm trích ra một đơn vị tiền để
hình thành một quỹ ,đến năm thứ 4 bị ốm đau phải chi 4 đơn vị tiền tệ thì chỉ mất 4
đơn vị giá trị sử dụng.Với cách này,phần tính hữu ích của giá trị sử dụng bị mất đi sẽ
nhỏ hơn 6 đơn vị.Hay đây chính là phơng pháp dàn trải thiệt hại đồng đều theo thời
5
gian. Khi mở rộng khoảng cách thời gian thì sự dàn trải thiệt hại mở rộng ra nhiều thế
hệ,làm cho phần tổng thiệt hại của các thế hệ là ít nhất.Nếu huy động nhiều ngời
cùng tham gia và dựa trên cơ sở tính toán xác suất phát sinh các thiệt hại của cả tập
hợp ngời lao động tham gia bảo hiểm xã hội thì thiệt hại do đóng góp quỹ của mỗi
ngời không đáng kể ,song lợi ích họ nhận đợc lại rất lớn.Hay đây còn là sự dàn trải
thiệt hại theo không gian.BHXH là sự kết hợp dàn trải thiệt hại cả không gian và thời

gian.
BHXH là kết quả ứng dụng nhiều môn khoa học cơ bản.
II.Cơ sở thực tiễn các chế độ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
1.Một số chế định quan trọng về BHXH.
BHXH là một nội dung quan trọng của chính sách xã hội.Nó luôn đợc Đảng và
Nhà nớc quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta.Thực tiễn chứng minh chính sách BHXH đã thực hiện ở nớc ta
vào loại sớm nhất trong khu vực.Bằng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 của Chính Phủ
ấn định những chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân. Nh chúng ta đã biết, trong
thời gian kinh tế còn kém phát triển;chiến tranh kéo dài,nhng BHXH đã góp phần
động viên hàng triệu cán bộ,công nhân,viên chức nhà nớc,lực lợng vũ trang yên tâm
sản xuất ,công tác,chiến đấu và gắn bó với chế độ mới.
Đặc biệt,từ khi có ánh sáng Nghị quyết đại hội VI ,đất nớc chuyển sang nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc đòi hỏi:Xây
dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực có hiệu quả các chính sách xã hội
. Ngày 22/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP ;trớc hết nhằm xoá bỏ t
duy bao cấp,ỷ lại trong lĩnh vực BHXH; mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện; thực hiện đóng quỹ bảo hiểm đối với những ngời đợc hởng BHXH. Chính từ
Nghị định này và thực tiễn trên 30 năm thực hiện các chế độ BHXH,cơ chế BHXH
đã đợc chế định thành một chơng trong Bộ Luật Lao Động,và đợc cụ thể hoá
trong Điều lệ BHXH mới kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính
phủ(áp dụng với công chức, viên chức và mọi ngời lao động) và Nghị định 45/CP
6
ngày 15/7/1995 của Chính phủ (áp dụng với sỹ quan,quân nhân chuyên nghiệp,hạ sỹ
quan,binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân).
Bớc sang những năm đầu của thế kỷ 21,Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của
chiến lợc kinh tế xã hội trong 10 năm 2001-2010 : Đ a đất nớc ta thoát khỏi tình
trạng kém phát triển,nâng cao rõ rệt chất lợng đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân.Tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công
nghiệp theo hớng hiện đại,nguồn lực con ngời,năng lực khoa học và công

nghệ,kết cấu hạ tầng,tiềm lực kinh tế,quốc phòng an ninh đợc tăng cờng vững
chắc;thể chế cơ chế thị trờng, định hớng xã hội chủ nghĩa đợc hình thành cơ
bản.Vị thế của nớc ta trong quan hệ quốc tế đợc củng cố và nâng cao.Nhằm góp
phần đạt đợc mục tiêu ấy,Đảng ta vẫn tiếp tục xác định rõ vai trò, vị trí của BHXH
đối với sự nghiệp chung của Đảng và nhân dân ta nh Chỉ thị 15/CT-TW của Bộ
chính trị đã ghi : Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà n ớc,góp
phần ổn định đời sống cho ngời lao động,ổn định chính trị trật tự an toàn xã
hội,thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.Thực trạng các chế độ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
Tháng 6/1952, Tổ chức Lao động quốc tế có công ớc số 102 tại Giơnevơ về
một loạt những vấn đề liên quan đến BHXH, trong đó, họ khuyến cáo BHXH thế giới
phải hình thành một hệ thống bao gồm 9 chế độ sau:
+ Chế độ chăm sóc y tế
+ Chế độ trợ cấp ốm đau
+ Chế độ trợ cấp thất nghiệp
+ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ trợ cấp tuổi già (hu trí)
+ Chế độ trợ cấp gia đình
+ Chế độ trợ cấp sinh đẻ (thai sản)
+ Chế độ trợ cấp khi tàn phế
+ Chế độ trợ cấp cho những ngời còn sống( tử tuất).
7
Trong đó một quốc gia đợc coi là có thực hiện chính sách BHXH phải có ít
nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có 1 trong 5 chế độ sau: Chế độ trợ cấp ốm đau,
Chế độ trợ cấp thất nghiệp, Chế độ trợ cấp sinh đẻ (thai sản), Chế độ trợ cấp khi tàn
phế, Chế độ trợ cấp cho những ngời còn sống( tử tuất). Đến nay đã có rất nhiều nớc
thực hiện đợc cả 9 chế độ. Nớc ta cho đến thời điểm hiện tại đã tiến hành 5 chế độ
Bảo hiểm xã hội : Chế độ trợ cấp ốm đau,chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp,Chế độ hu trí và chế độ trợ cấp thai sản.
2.1.Chế độ trợ cấp ốm đau.

Ngời lao động là ngời tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Khi họ bị
ốm đau, họ phải đợc nghỉ ngơi, điều trị, an dỡng.Trong thời gian này, họ phải đợc xét
trợ cấp BHXH thay vì tiền lơng.Mức trợ cấp phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, thời
gian công tác và mức lơng.
2.1.1. Ngời lao động muốn đợc hởng chế độ trợ cấp ốm đau phải có các điều
kiện sau:
+Có đóng phí bảo hiểm theo quy định
+Có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ y tế quy định về ốm đau, tai nạn, rủi ro.
Nếu tự hủy hoại sức lao động do say rợu hoặc dùng chất ma túy thì không đợc
hởng trợ cấp ốm đau.
2.1.2.Thời gian tối đa ngời lao động đợc hởng trợ cấp ốm đau đợc quy định:
+Đối với ngời làm việc trong điều kiện bình thờng:
30 ngày/năm nếu đã đóng BHXH dới 15 năm
40 ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến dới 30 năm
50 ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ 30 năm trở lên
+Đối với ngời lao động làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, làm
việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên đợc hởng:
40 ngày/năm nếu đã đóng BHXH dới 15 năm
50 ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến dới 30 năm
60 ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ 30 năm trở lên
+Ngời lao động bị mắc các bệnh cần điều trị dài ngày thì thời gian đợc hởng
tối đa là 180 ngày/năm không phân biệt thời gian đóng BHXH nhiều hay ít.
8
Nếu hết thời hạn 180 ngày mà vẫn phải tiếp tục điều trị thì thời gian này vẫn đ-
ợc hởng trợ cấp ốm đau bằng 70% mức tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH trớc khi
nghỉ việc nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên.Bằng 65% mức tiền lơng làm căn cứ
đóng BHXH trớc khi nghỉ việc nếu đóng BHXH dới 30 năm
+Nếu ngời lao động có con thứ nhất, con thứ hai (kể cả con nuôi theo quy định
của Luật hôn nhân gia đình) dới 7 tuổi bị ốm đau có yêu cầu của tổ chức y tế phải
nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau đợc hởng trợ cấp BHXH (nếu cả bố mẹ có con ốm

đau đều tham gia BHXH thì chỉ 1 ngời đợc hởng trợ cấp BHXH trong thời gian nghỉ
việc để chăm sóc con ốm đau).
Thời gian tối đa đợc hởng trợ cấp chăm sóc con ốm đau:
20 ngày/năm đối với con dới 3 tuổi
15 ngày/năm đối với con từ 3 tuổi đến dới 7 tuổi
Mức trợ cấp ốm đau nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau bằng 75% mức tiền l-
ơng làm căn cứ đóng BHXH trớc khi nghỉ việc.
+ Ngời lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình:
Nạo thai đợc hởng nghỉ trợ cấp 20 ngày nếu thai dới 3 tháng, 30 ngày nếu thai
từ 3 tháng trở lên.
Nam thắt ống dẫn tinh, nữ thắt ống dẫn trứng đợc nghỉ việc hởng lơng 15 ngày.
Lao động nữ đặt vòng hoặc hút điều hoà kinh nguyệt đợc hởng trợ cấp 7 ngày.
Mức trợ cấp bằng 75% mức tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH trớc khi nghỉ
việc.( NĐ 12CP ngày 26/01/1995).( TT06 LĐTBXH ngày 04/04/1995).
2.1.3. Những tồn tại trong thanh toán trợ cấp ốm đau, thai sản
Thực hiện chi trả đúng đối tợng, đúng chế độ chính sách BHXH là công đoạn
tơng đối phức tạp của quá trình thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với ngời lao
động. Nó không những bảo đảm việc thực hiện tốt chính sách của Đảng vàNhà nớc ta
mà nó còn mang một ý nghĩa chính trị ,kinh tế xã hội sâu sắc. Trong đó việc chi trả
đúng,đủvà kịp thời trợ cấp ốm đau ,thai sản là việc làm có ý nghĩa,giúp ngời lao động
không bị đảo lộn cuộc sống trong khi bản thân tạm thời không có khả năng lao động
va không đợc thanh toán tiền lơng. Trong những năm qua, việc chi trả hai chế độ ốm
9
đau,thai sản đã đợc cơ quan BHXH VN hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện để ngời
lao động đợc trợ cấp một cách nhanh, kịp thời. Từ năm 1996 đến năm 2001, ngàng
BHXH đã thực hiện chi trả cho trên 5 triệu lợt ngời hởng chế độ ốm đau với tông số
tiền trên 432.529 triệu đồng;chi trả cho gần 770 nghìn ngời nghỉ thai sản với số tiền
gần 1.030 tỷ đồng.
Tỷ lệ chi trợ cấp ốm đau, thai sản chiếm khoảng 25% so với tổng chi các chế
độ BHXH. Tuy nhiên con số này chỉ là thống kê theo báo cáo, cha phản ánh một cách

chính xác và đầy đủ con số thực té về tỷ lệ ốm đau thai sản của ngời lao động trên hai
khía cạnh:
Thứ nhất, đối với các DNNQD: Tỷ lệ chi ốm đau cao thờng tập trung ở các
DNNQD, đặc biệt các nông lâm trờng,các đơn vị sản xuất kinh doanh không ổn
định,thiếu việc làm cho ngời lao động. Trên thực tế,tỷ lệ chi hai chế độ ốm đau ,thai
sản có biểu hiện ngày càng cao và đặc biệt cao ở một số đơn vị sử dụng lao động do
nhiều nguyên nhân. Về khách quan thì một số đơn vị nhiều lao động nữ, đặc biệt la
lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ;lao động nặng nhọc, độc hại..là những yếu tố dẫn
đến tỷ lệ sinh đẻ và ốm đau tăng. Tại một số công ty có vốn đầy t nớc ngoài, có hiện
tợng ngời lao đông thoả thuận với giám đốc xin vào làm việc và chi sau đó mấy tháng
là xin nghỉ đẻ, nghỉ ốm, sau khi nghỉ xong theo chế độ quy định của Điều lệ BHXH
thì ngời lao động xn nghỉ việc hoặc xin chuyển cơ quan. Rõ ràng đây là kẽ hở của
chính sách BHXH đã không quy định về điều kiện thời gian tham gia BHXH tối thiểu
để đợc hởng chế độ ốm đau,thai sản nh nhiều nớc trên thế giới đã thực hiện.
Tuy nhiên,cũng nhiều ý kiến cho rằng tỷ lệ chi hai chế độ ốm đau, thai sản tăng
mạnh chính là từ sự thiếu trách nhiệm của những đơn vị sử dụng lao động và các cơ
sở y tế. Không ít trờng hợp với mục đích cá nhân hoặc một nhóm cá nhân mà đã lợi
dụng những điểm còn cha phù hợp hoặc thiếu chặt chẽ của ĐIều lệ BHXH và các quy
định về BHXH để thanh toán tiền ốm đau từ quỹ BHXH. Chủ sử dụng lao động ở
nhiều đơn vị không có việc làm, sản xuất không ổn định,ngời lao động không có thu
nhập hoặc thu nhập thấp đã tạo điều kiện cho ngời lao động nghỉ ốm để thanh toán
tiền BHXH bởi vì tiền trợ cấp ốm đau do quỹ BHXH chi trả còn cao hơn tiền công
của ngời lao động và bản thân chủ sử dụng lao động thì lại không phải trả lơng. Về
phía các cơ sở y tế, hoặc có thể cha hiểu hết đợc trách nhiệm của mình trong việc cấp
10
giấy nghỉ ốm chongời lao động có liên quan nh thế nào đến việc hởng trợ cấp ốm đau
của họ hoặc cũng có thể có một số y, bác sĩ đã thiếu trách nhiệm nghề nghiệp, bỏ qua
sự gian trá của chủ sử dụng lao động và ngời lao động lập nên những hồ sơ giả h-
ởng trợ cấp ốm đau. Việc thẩm định chi hai chế độ ốm đau.thai sản dựa trên chứng từ
là các giấy nghỉ hởng BHXH do các cơ sở y tế xác nhận,nên có những đơn vị chủ sử

dụng lao động còn chỉ đạo trạm y tế cơ quan ghi ngày nghỉ của số cán bộ CNV trong
đơn vị đợc hởng chế độ theo quy định hang năm để rút tiền BHXH về làm quỹ cơ
quan. Quả là một việc làm hết sức hợp lý về thủ tục hồ sơ mà lại phạm pháp.!
Rõ ràng là việc làm thủ tục hồ sơ nghỉ ốm giả giữa ngời lao động, chủ sử
dung lao động và các cơ sở y tế là không mấy khó khăn khi mà trách nhiệm của họ
thiếu vững vàng và thiếu hiểu biết về sự ràng buộc trách nhiệm của mình đối với
quyền lợi hợp pháp của ngời lao động..Có nhiều đơn vị cho rằng thôi thì trong lúc khó
khăn,ngời lao động không có việc làm, không có tiền lơng thì để cho họ hởng cái
BHXH của Nhà nớc để mà sống. Nếu chẳng may cơ quan BHXH có phát hiện ra thì
sự đã rồi, truy thu sau cúng chẳng sao vì có bị phạt gì đâu ?!
Tất cả những thực trang trên không những dẫn tới quỹ BHXH bị thâm hụt một cách
trầm trọng,mà sâu xa hơn còn làm mất sự công bằng trong xã hội, vi phạm Điều lệ
BHXH đã đợc quy định trong Bộ luật lao dộng.

Thứ hai,đối với các đơn vị hởng lơng từ NSNN. Tại các đơn vị này tồn tại một
thực trạng là phần đông số ngời nghỉ ốm thờng chỉ báo cáo với cấp lãnh đạo để xin
nghỉ. ngời lao động nghỉ ốm nhng không hởng trợ cấp ốm đau từ quỹ BHXH mà vẫn
hởng lơng từ NSNN bởi nếu hởng BHXH thì chỉ ddợc 75% lơng NSNN. Về phía lãnh
đạo đơn vị thì hoặc là không để ý đến hoặc cũng hiểu nhng thôi thì đấy là của Nhà
nớc(!). Chính vì lẽ đó mà tỷ lệ chi hai chế độ ở những đơn vị HCSN thờng thấp hơn.
Điều lệ BHXH quy định, trong tổng số 20% đóng BHXH thì 5% đợc dùng chi
cho hai chế độ ốm đau, thai sản.Điều này cũng kông có nghĩa là việc chi hai chế độ
này chỉ giới hạn trong 5%, mà thực tế nhiều đơn vị chi lớn hơn 5% thì quỹ BHXH vẫn
phải chi trả. Đây chinh là sự thể hiện tính chất cộng đồng của chính sách BHXH. Tuy
nhiên, với những tồn tại nêu trên cho thấy số liệu thống kê chi trả của ngành BHXH
hiện nay cũng cha phản ánh đúng thực tế tỷ lệ ốm đau,thai sản của ngời lao động. Vì
11
vậy để phản ánh chính xác đợc tỷ lệ chi hai chế độ ốm đau,thai sản làm cơ sở cho
việc tính toán tỷ lệ đóng BHXH dùng chi trả cho hai chế độ này tiến tới xây dựng
Luật BHXH.

Bảng:Đối tợng tham gia bảo hiểm xã hội 1996-2002.
Đơn vị : 1000 ngời
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Số lao động
tham gia
bhxh
2821 3162 3355 3579 4100 4422 4731

Bảng :Đối tợng hởng chế dộ ốm đau từ 1996-2002
Đơn vị tính : 1000 ngời
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Số ốm
đau
1.001 1.153 1.250 1.137 1.201 1.182 1.022
2.2. Chế độ thai sản.
2.2.1.Đối tợng
Chế độ trợ cấp thai sản: là một trong các chế độ của bảo hiểm xã hội Việt Nam
Việt Nam: đợc áp dụng đối với các trờng hợp:Đối tợng đợc hởng là lao động nữ có
thai, sinh con thứ nhất, thứ 2 hoặc lao động nữ nuôi con sơ sinh.Tất nhiên những đối
tợng trên có tham gia đóng bảo hiểm xã hội nên mới đợc hởng
2.2.2 Thời hạn
-Khi có thai đợc nghỉ việc khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày
-Sảy thai sản xuất nghỉ 20 ngày 30 ngày tuỳ theo tháng thai
-Khi sinh con đợc nghỉ 4 - 6 tháng tuỳ theo điều kiện làm.
-Sinh 1 lần nhiều con thì tính từ con thứ 2 trở đi, mỗi con sinh thêm mẹ đợc
nghỉ thêm 30 ngày
12
-Trờng hợp sau khi sinh con chết, ngời mẹ đợc nghỉ 75 ngày kể từ ngày sinh.
Nếu con dới 60 ngày tuổi bị chết thì ngời mẹ đợc nghỉ thêm 15 ngày kể từ khi con bị
chết. Nhng không quá thời hạn nghỉ sinh con theo quy định chung.

-Nếu nuôi con sơ sinh thì ngời nuôi sản xuất nghỉ cho đến khi con đủ 4 tháng
tuổi.
2.2.3. Mức trợ cấp:
Đợc hởng trợ cấp bằng 100% mức tiền lơng làm cơ sở đóng bảo hiểm xã hội tr-
ớc khi nghỉ trong thời hạn đã nêu.
2.2.4 Một số kết quả thực hiện.
a. Những mặt đã đạt đợc:
Đảm bảo chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho đối tợng đủ điều kiện thụ h-
ởng đầy đủ và nhanh chóng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của hệ thống bảo
hiểm xã hội Việt Nam.Việc chi trả đầy đủ đúng thời gian các chế độ bảo hiểm xã hội
nói chung chế độ thai, sản nói riêng không những chỉ đảm bảo đời sống ổn định cho
họ mà còn liên quan trực tiếp đến sự ổn định xã hội - chính trị của đất nớc.
Hiểu rõ vai trò đó, ngành bảo hiểm xã hội đã thực hiện tốt công tác chi trả chế
độ bảo hiểm xã hội. Năm 2000 đã có gần 160 ngàn ngời nghỉ hởng chế độ thai sản
với số tiền đợc nhận từ ngành bảo hiểm xã hội trên 228,6 tỷ đồng.Đến 6 tháng đầu
năm 2001 có hơn 150 nghìn ngời chỉ chế độ thai sản đợc thanh toán từ quỹ bảo hiểm
xã hội số tiền gần 179 tỷ đồng.
Hiện nay trong các doanh nghiệp thu nhập thực tế của ngời lao động cao hơn
quỹ lơng tham gia đóng bảo hiểm xã hội thậm chí gấp nhiều lần.Thu nhập này còn
thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khối lợng sản phẩm khoán
thuộc vào công việc đợc doanh nghiệp giao cho.Đối với các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh phát đạt và ổn định thu nhập thực tế của ngời lao động khá cao. Họ chỉ
quan tâm đến việc làm, đến thời gian sản xuất trong doanh nghiệp.
Do vậy đối tợng lao động trong các doanh nghiệp này ngoài nghỉ thai sản và
điều trị bệnh lâu dài ngày bắt buộc tại bệnh viện thì họ không cảm thấy cần thiết việc
thanh toán trợ cấp khác qua cơ quan bảo hiểm xã hội (kể cả trợ cấp ốm đau)
Còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặo khó khăn. Việc trả đủ tiền
cho ngời lao động trở thành vấn đề nan giải cha đến chuyện đóng đủ bảo hiểm xã hội
13
cho ngời lao động. Nhiều lao động tại các đơn vị này luôn phiên nhau nghỉ ốm để đợc

cơ quan bảo hiểm thanh toán. Nh là một biện pháp tăng thu nhập hoặc lấy tiền từ bảo
hiểm xã hội để quay lại đóng bảo hiểm xã hội.
XN, Cty
Số ngời
nghỉ ốm
Ngày nghỉ
ốm
Ngời nghỉ
( )
Ngày nghỉ
( )
Gạch Huynen (Lào Cai) 144 1017 -
Dệt len Sài Gòn 638 1881 -
Cao su Phớc Hoà 2.336 9.287 166
Công ty dệt T Sơn 398 2.786 23
Trong các doanh nghiệp gặp khó khăn việc cấp các chứng từ nghỉ ốm trở nên
dễ dàng hơn với những doanh nghiệp lớn có hệ thống y tế trực thuộc dễ dàng có sự
thoả thuận hay chỉ đạo của chủ sử dụng lao động.
Trong khối doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đặc điểm nổi bật là ngời lao
động đóng bảo hiểm xã hội với mức lơng cao hơn khi thanh toán các chế độ bảo hiểm
xã hội họ cũng đợc cao. Nhiều doanh nghiệp loại hình này cũng nhận vào làm việc
những ngời mắc bệnh dài ngày, những ngời có thai, đóng bảo hiểm xã hội vài tháng
để sau đó đợc hởng bảo hiểm xã hội với số tiền lớn.
Ví dụ: trờng hợp bà Lê Thị Hồng Vân làm việc tại văn phòng đại diện BTR
Power System: đóng bảo hiểm xã hội đợc 7 tháng với mức đóng 34 USD 1 tháng thì
nghỉ thai sản đợc cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán trên 120 triệu đồng bỏ việc
b. Những mặt hạn chế bất cập trong quản lý chi trả trợ cấp thai sản
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc đối với ngời lao
động. Việc quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của ngành; Chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng đối tợng là mục đích của công

tác quản lý chi.
ở đây chúng tôi chỉ nói đến chi trả thai sản là một loại trợ cấp ngắn hạn hay
nói cách khác đây chính là chi trả BHXH trả thay lơng. Ngời lao động đang làm việc
đợc hởng tiền lơng hoặc tiền công và có tham gia đóng BHXH. Nhng trong thực tế
hiện nay khi thanh toán chi trả ốm đau thai sản của những đơn vị liên doanh hoặc của
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, chứng từ C04-BH đã đợc đánh máy vi tính
sẵn cho từng ngời lao động và bình quân ai cũng nghỉ ốm 3 ngày trong một đợt thanh
toán. Cho đến khi thanh toán hết ngày đợc nghỉ theo điều lệ BHXH là 30, 40, 50 hoặc
14

×