Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

tìm hiểu thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh trên thị trường việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.91 KB, 28 trang )

Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 1

BÀI THO LUN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG
CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM


Nhóm CDA – K11 – Lớp công cụ phái sinh sáng thứ 4 ca 2 H504


Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 2





Mục lục.
1. Lời nói đầu. 3
2. Thực trạng sử dụng các loại hình công cụ phái sinh ở Việt Nam. 3
2.1. Khung pháp lý điều chỉnh. 3
2.2. Thực trạng sử dụng hợp đồng quyền chọn. 7
2.3. Thực trạng sử dụng hợp đồng kỳ hạn. 11
2.4. Thực trạng sử dụng hợp đồng tương lai. 17
2.5. Thực trạng sử dụng hợp đồng hoán đổi. 21
3. Tổng kết. 26
Phụ lục : Danh sách thành viên + phân công công việc 28


Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 3


1. Lu
Công cụ tài chính phái sinh từ rất lâu đã quá quen thuộc với thị trường tài chính thế giới.Tuy nhiên,
mới chỉ trong khoảng 10 năm trở lại đây, công cụ này mới thực sự được áp dụng trên thị trường tài chính
Việt Nam.Được áp dụng trên rất nhiều loại hình kinh doanh như tiền tệ,hàng hóa, các công cụ phái sinh
đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng không ngừng của thị trường ấy nói riêng và nền kinh tế nói riêng.
Hiện nay, tại Việt Nam,công cụ phái sinh được sử dụng nhiều nhất dưới 4 hình thức : Hợp đồng quyền
chọn ( Options );Hợp đồng hoán đổi ( Swap );Hợp đồng tương lai ( Future );Hợp đồng kỳ hạn ( Forward )
Bài viết sẽ cho thấy thực trạng sử dụng của 4 loại công cụ trên trong thị trường tài chính Việt Nam
thời gian vừa qua cũng như đưa ra những nguyên nhân, giải pháp phát triển đối với loại hình công cụ tài
chính còn khá mới mẻ này.
2. Thc trng s dng công c phái sinh  Vit Nam.
2.1. u chnh.
Khung pháp lý chế độ kế toán Việt Nam liên quan đến công cụ tài chính phái sinh hiện nay
 Năm 2006, sau khi được Bộ Tài chính chấp thuận, NHNN đã ban hành chế độ kế toán nghiệp vụ
phái sinh tiền tệ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) (thể hiện ở Quyết định số 29/2006/QĐ-NHNN ngày
10/07/2006 của Thống đốc NHNN; Côngvăn số 7404/NHNN-KTTC ngày 29/08/2006 của NHNN).
 Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quy nh s -NHNN13 ngày
24/12/1997 và sau này là quy nh s -NHNN ngày 17/7/2001 ca th c
NHNN.Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM.Nó chỉ được
sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND
 Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các ngân hàng
sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế.
NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và
rủi ro tỷ giá. Theo quynh s - NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch
hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ

hoán đổi lãi suất.
Thực trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh sản phẩm tài chính
phái sinh có thể tóm lược qua các điểm chủ yếu sau đây:
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 4

Một là, Việt Nam chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh về kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh.
Hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có văn bản quy phạm pháp luật độc lập điều chỉnh tổ
chức và hoạt động của thị trường giao dịch các công cụ tài chính phái sinh và hoạt động cung cấp dịch vụ
phái sinh của các tổ chức tín dụng, ngoại trừ hai quy chế về kinh doanh hối đoái và kinh doanh vàng trên
tài khoản2 của các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Hai là, Việt Nam cũng chưa có khung pháp lý về tổ chức và hoạt động của thị trường công cụ tài
chính phái sinh, ngoại trừ Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân
hàng Nhà nước ban hành. Theo Quy chế này, các ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện hoạt động
kinh doanh đối với một số công cụ tài chính phái sinh về ngoại tệ (swap, option…) với nhau qua thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại chủ yếu thực hiện hoạt động kinh
doanh công cụ tài chính phái sinh với khách hàng qua thị trường OTC.
Ba là, chưa có quy định pháp lý chính thức cho phép các ngân hàng thương mại kinh doanh hoặc đầu
tư vào các sản phẩm tài chính phái sinh. Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật chưa có quy định cụ thể cho phép các ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ phái sinh dựa trên
hàng hoá và các tài sản tài chính hoặc cho phép các ngân hàng thương mại đầu tư vào các sản phẩm này.
Đồng thời, pháp luật ngân hàng chưa có quy định cụ thể về việc cấp phép, giám sát rủi ro, thanh tra của
Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh của các ngân hàng
thương mại. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại được quy định trong Luật các Tổ chức
tín dụng không có các sản phẩm tài chính phái sinh. Các sản phẩm tài chính phái sinh do các tổ chức tín
dụng cung cấp hiện tại đều được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thí điểm.
Bốn là, các quy định của pháp luật hiện hành chưa có quy định về các biện pháp, tỷ lệ đảm bảo an
toàn, hạn chế rủi ro của các ngân hàng thương mại khi cung cấp hoặc đầu tư vào các sản phẩm tài chính
phái sinh và chưa có quy định làm cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên tham gia

vào các giao dịch mua, bán các công cụ tài chính phái sinh.
Năm là, theo các quy định Phụ lục G - Việt Nam3 của BTA, nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ
tại Việt Nam được phép tự doanh hoặc kinh doanh cho khách hàng các sản phẩm phái sinh. Nhưng trên
thực tế cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước chưa ban hành các quy chế nghiệp vụ về hoạt động kinh doanh
các sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại, nên các ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam chưa thể
triển khai thực hiện việc cung cấp các sản phẩm này và Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có cơ sở pháp lý
để giám sát, thanh tra đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ này của các ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt
Nam (nếu họ cung cấp các dịch vụ này theo BTA). Thực trạng này cũng dẫn đến sự đối xử không bình
đẳng trong các quy định pháp luật hiện hành khi các ngân hàng Hoa Kỳ có thể được cung cấp các sản
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 5

phẩm phái sinh theo quy định tại BTA, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa được phép
cung cấp dịch vụ này hoặc chỉ được phép thực hiện khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép thí điểm.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã chưa tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại trong nước nâng cao
khả năng tài chính, năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hoá sản phẩm/dịch vụ ngân hàng…
 Một số khuyến nghị về việc xây dựng các văn bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh sản phẩm tài
chính phái sinh của ngân hàng thương mại
Thực trạng và bất cập nêu trên của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh các công cụ
tài chính phái sinh đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên cứu,
xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh
doanh các công cụ tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại. Trong điều kiện thực tiễn của Việt
Nam, chúng tôi cho rằng việc xây dựng và ban hành các văn bản nêu trên cần phải lưu ý một số vấn đề
pháp lý sau đây:
 Về hình thức văn bản
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, trong thời gian trước mắt, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, soạn
thảo và ban hành ngay Quy chế về kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động cấp phép, giám sát rủi ro và kiểm tra, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh các công cụ tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại. Trong tương lai, trên cơ sở kinh

nghiệm thực tiễn và yêu cầu của thị trường, Nhà nước xem xét ban hành Luật giao dịch công cụ tài chính
phái sinh điều chỉnh thống nhất về tổ chức, hoạt động của thị trường tài chính phái sinh và hoạt động kinh
doanh các sản phẩm tài chính phái sinh như thông lệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực.
 Về sự cần thiết của việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các công cụ tài chính
phái sinh của các ngân hàng thương mại
 Về nguyên tắc và theo thông lệ quốc tế : các ngân hàng thương mại có thể tham gia thực hiện các
nghiệp vụ phái sinh theo một trong các tư cách: (i) Người cung cấp dịch vụ ngân hàng liên quan đến công
cụ phái sinh hoặc cung cấp dịch vụ môi giới, tư vấn cho khách hàng mua, bán công cụ phái sinh (ngân
hàng cung cấp dịch vụ); (ii) Nhà đầu tư mua, bán các sản phẩm phái sinh. Theo loại tài sản gốc, các sản
phẩm phái sinh có thể chia thành các sản phẩm phái sinh dựa trên tài sản tài chính (như ngoại tệ, lãi suất,
cổ phiếu, trái phiếu, khoản vay, tiền gửi…) và các sản phẩm phái sinh dựa trên hàng hoá (như gạo, cao su,
cà phê, xăng dầu…). Chúng tôi cho rằng, cần căn cứ vào tính chất của từng loại hình công cụ phái sinh,
mức độ rủi ro và tư cách tham gia vào giao dịch phái sinh của ngân hàng thương mại để có hình thức
quản lý phù hợp. Cụ thể: Thứ nhất, nhóm các hoạt động/dịch vụ không cần xin phép là các dịch vụ ngân
hàng cung cấp cho khách hàng kinh doanh các công cụ phái sinh như hoạt động môi giới, tư vấn, nhận ủy
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 6

thác và quản lý tài khoản đầu tư vào các sản phẩm phái sinh của khách hàng. Với tư cách là người cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng đầu tư vào sản phẩm phái sinh, ngân hàng thương mại không phải gánh
chịu rủi ro nảy sinh từ hoạt động kinh doanh công cụ phái sinh, do vậy, việc cấp phép riêng cho các
nghiệp vụ này là không cần thiết. Thứ hai, nhóm các hoạt động/dịch vụ cần xin phép là hoạt động kinh
doanh công cụ tài chính phái sinh giữa các ngân hàng thương mại và giữa ngân hàng thương mại với
khách hàng. Với tư cách là một bên tham gia giao dịch mua bán các công cụ tài chính phái sinh, các ngân
hàng thương mại sẽ phải gánh chịu rủi ro từ giao dịch nên việc cấp phép, thanh tra và giám sát của Ngân
hàng Nhà nước là cần thiết để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của bản thân ngân
hàng và sự ổn định của cả hệ thống.
 Về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro
Do yêu cầu của quá trình cải cách hành chính, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp

phép5 cho việc cung cấp từng dịch vụ tài chính phái sinh cụ thể của các ngân hàng thương mại theo
hướng: (i) Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho từng sản phẩm tài chính phái sinh của ngân hàng
thương mại, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung cấp từng nhóm sản phẩm tài chính phái
sinh (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính sách quản lý rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ).
Khi có đủ các điều kiện này, tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài
chính phái sinh và Ngân hàng Nhà nước chỉ giám sát, thanh tra việc cung cấp dịch vụ của tổ chức tín
dụng trên cơ sở tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng Nhà nước quy định; (ii) Ngân hàng Nhà nước không
quy định cụ thể các loại sản phẩm tài chính phái sinh mà ngân hàng thương mại được phép cung cấp
trong giấy phép của từng ngân hàng, mà nên quy định chung theo nhóm các dịch vụ tài chính phái sinh sẽ
được cung cấp (có thể theo tiêu chí phân loại dựa vào tài sản tài chính gốc của công cụ phái sinh như các
công cụ tài chính phái sinh dựa trên giao dịch ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, tiền gửi, khoản vay, lãi
suất ).
 Tóm lại, việc xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh về công cụ tài chính phái sinh yêu cầu cấp
thiết, nhưng chỉ là bước đi đầu tiên làm cơ sở pháp lý để các ngân hàng thương mại phát triển các nghiệp
vụ tài chính phái sinh trong hoạt động kinh doanh của mình. Để các nghiệp vụ này thực sự trở thành hoạt
động kinh doanh hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, khách hàng và đặc biệt có thể
cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài thời kỳ hậu gia nhập WTO, các ngân hàng thương mại
trong nước cần phải có các giải pháp đồng bộ về chính sách quản lý rủi ro, đào tạo cán bộ, chính sách
khách hàng và đa dạng hóa các sản phẩm tài chính phái sinh…


Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 7

2.2. 
Trên thị trường Việt Nam thì hợp đồng quyền chọn đang được sử dụng trong một số lĩnh vực như
chứng khoán, tiền tệ, hàng hóa…Trong đó, hợp đồng quyền chọn tiền tệ là phổ biến và được biết đến
nhiều nhất. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ bao gồm quyền chọn ngoại tệ- ngoại tệ và quyền chọn nội tệ-
ngoại tệ.

2.2.1. Quyn chn ngoi t- ngoi t
Hợp đồng quyền chọn ngoại tệ trong giai đoạn đầu phải tuân theo những quy định nhất định của
NHNN. Đó là : ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối có vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ kinh
doanh ngoại tệ có lãi trong ít nhất 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là
1 tỷ USD. Ngoài ra, NHTM phải lập ra quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và trình cho thống đốc
ngân hàng nhà nước (NHNN) chấp thuận bằng văn bản cho thực hiện thí điểm.
Ngân hàng Eximbank là ngân hàng đầu tiên được cấp phép thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ
đầu tiên.
Đến tháng 6/2005: NHNN cho phép thêm 7 ngân hàng nữa đươc thực hiện nghiệp vụ này là BIDV,
Agribank, VCB, Viettin bank, ACB, Citibank, HSBC
Đến ngày 10/11/2004: NHNN ra quyết định 1452/2004/ QĐ-NHNN cho phép các TCTD thực hiện
các giao dịch hối đoái trong đó có hợp đồng quyền chọn. Quyết định này đã kết thúc giai đoạn thí điểm
nghiệp vụ quyền chọn. Ngoài ra quyết định này còn cho phép các cá nhân tham gia vào giao dịch hợp
đồng quyền chọn
 
Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro đã thấy rõ như
một nhu cầu cấp thiết, nhưng số lượng hợp đồng được ký kết chỉ dừng lại con số 50 hợp đồng quyền chọn
với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD của Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu trong thời gian thí điểm nghiệp vụ quyền chọn, còn 6 ngân hàng còn lại không ký được hợp đồng
nào.
Việc cho phép giao dịch quyền chọn ngoại tệ trong giao dịch ngoại hối đã tạo ra một phương án để đề
phòng rủi ro cho các doanh nghiệp và cá nhân. Nhưng trên thực tế, đến hết năm 2005, sau khi có 8 ngân
hàng được phép giao dịch quyền chọn ngoại tệ thì doanh số giao dịch chỉ đạt có 5% doanh số giao dịch
giao ngay của các ngân hàng này.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 8

Từ năm 2004 đến nay, khi mà các tổ chức tín dụng đều được phép thực hiện các hợp đồng quyền
chọn thì doanh số giao dịch cũng không tăng lên đáng kể.

Ngân hàng ACB là một ngân hàng được thực hiện các giao dịch quyền chọn cho khách hàng. Dựa
vào bảng cân đối kế toán của ACB trong thời gian gần đây ta có thể đánh giá tình hình thu nhập của các
giao dịch quyền chọn ngoại tệ

2009
2008
Tỷ trọng/ tổng tài sản
Mua quyền chọn tiền
tệ
1524
90.131
0,00091%
0,086%
Bán quyền chọn tiền tệ
958.259
42.209
0,57%
0,04%
Tổng tài sản
167.881.047
105.306.130
100%
100%
Như vậy ta có thể thấy mặc dù ACB là một ngân hàng thương mại khá lớn nhưng tỷ trọng của các
giao dịch quyền chọn chiếm tỷ rất nhỏ trong tổng tài sản và thu nhập của ACB,từ đó có thể thấy nghiệp
vụ này vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam.Nếu nhìn vào quá khứ ta tự đặt ra câu hỏi tại sao một
nghiệp vụ phái sinh rất phổ biến trên thế giới được giao dịch đồng thời ở cả hai thị trường tập trung và phi
tập trung,không nhưng thế lại xuất hiện từ khá sớm ở Việt Nam lại kém phát triển thế?.Phải chăng do hoạt
động kinh doanh ngoại tệ tại Việt Nam quá an toàn nên không cần công cụ này đề phòng trừ rủi ro?
2.2.2. -  

Tháng 4/2005 NHNN Việt Nam đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn
giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị
hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này
cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).
Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8 triệu USD-100.000 USD và chỉ
được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây
không còn quy định giới hạn cho giá trị hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như
Eximbank, GPbank cũng tham gia nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng 5/2008, đã có 7 ngân hàng
được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ.
 Đặc điểm giao dịch
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 9

Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn ngoại tệ với VNĐ yêu
cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề án chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án
phòng ngừa rủi ro, và được NHNN chấp nhận bằng văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:
Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng
thời hạn.
Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ giá do ngân hàng và khách hàng tự
thỏa thuận.
 Doanh số giao dịch
Mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các NHTM không đáng
kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết
quả thăm dò, các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia các
nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể.
Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai NH mạnh về lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt
động vẫn không cao. Tính trong năm 2006-2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 37,53 triệu USD (chiếm
chưa đến 0,1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128,12 triệu USD (chiếm khoảng 0,8%
trong tổng số giao dịch ngoại tệ).

Đến ngày 18/3/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Văn bản số 1820/NHNN - QLNH, yêu cầu tất cả
các ngân hàng thương mại kể từ 23/3/2009 phải dừng thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ tiền đồng
 Nguyên nhân
Năm 2009 được coi là năm thị trường ngoại hối không ổn định, tỷ giá liên tục tăng cao và khoảng
cách chênh lệch tỷ giá giữa trong và ngoài hệ thống có lúc lên tới mấy nghìn đồng mỗi USD. Nhiều
doanh nghiệp dưới sự “tư vấn” của ngân hàng thương mại đã ký hợp đồng quyền chọn mua/bán ngoại tệ
dưới hình thức “quyền chọn Mỹ”.
Trong các hợp đồng này, hai bên ký với nhau giá mong muốn, cộng với phí và không chờ đến thời
điểm đáo hạn, họ tất toán luôn.
Nhờ đó, hai bên thoải mái giao dịch với nhau
với mức giá như “chợ đen” nhưng vẫn “qua mắt”
được Ngân hàng Nhà nước, và lúc đó, tỷ giá công
bố của Ngân hàng Nhà nước bỗng trỏ thành… danh
nghĩa. Ví dụ, tỷ giá kịch trần của Ngân hàng Nhà
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 10

nước là 18.700 VND/USD, giá tự do là 19.700 VND/USD thì hợp đồng vẫn ký là 18.700 VND/USD
nhưng doanh nghiệp phải trả thêm mức phí “quyền chọn” là 1.000 VND/USD và tất toán hợp đồng.
2.2.3. 
Trong giai đoạn thí điểm hiện nay, UBCK chỉ cho công ty chứng khoán VCBS thí điểm triển khai
nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu, với đối tượng giao dịch là giữa VCBS và các nhà đầu tư (kể cả cá nhân
và tổ chức). Thế nhưng, do là một nghiệp vụ mới nên rất ít các nhà đầu tư biết đến và sử dụng dịch vụ
này, các con số về hợp đồng, doanh thu của tổ chức thực hiện VCBS hầu như là không đáng kể.
2.2.4. 
.
Ở Việt Nam, các nghiệp vụ phái sinh nói chung và options nói riêng mới bắt đầu được sử dùng từ đầu
những năm 2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ options này còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng giao
dịch của các công cụ này còn hết sức khiêm tốn:

- Về quyền chọn ngoại tệ: NHNN đã cho phép thực hiện thí điểm đối với Eximbank, VIB,
Vietcombank; ACB, BIDV, Techcombank, NHTMCP Quân đội, nhưng doanh số về hoạt động này vẫn
không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống. Mặc dù thị trường các công cụ tài chính phái
sinh, quyền chọn ngoại tệ đã hình thành ở Việt Nam, nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến.
- Về quyền chọn cổ phiếu: Thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời được 8 năm, nó đã trải qua
nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm, thị trường lên xuống thất thường, rủi ro cho các nhà đầu tư là khá
lớn, nhu cầu phòng ngừa rủi ro đã trở thành cấp thiết. Thế nhưng, quyền chọn cổ phiếu vẫn chưa chính
thức được ra đời ở nước ta để hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường vẫn mới ở
trong giai đoạn chuẩn bị, thí điểm nhỏ lẻ, những kết quả thu được hầu như chỉ là con số không.
Như vậy, điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh cũng như quyền chọn ở Việt
Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là một công cụ không thể thiếu trong
phòng ngừa rủi ro. Theo báo cáo tại hội thảo khoa học về “giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt
Nam” năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường giữa các ngân hàng với khách hàng ngày
càng tăng lên: Năm 2004 tăng 30%, từ năm 2005-2007 trung bình tăng khoảng 20%/năm. Trong đó, các
giao dịch giao ngay chiếm từ 90-95%, các giao dịch quyền chọn ngoại tệ chỉ chiếm từ 1-5%, một tỉ trọng
rất nhỏ.
2.2.5. Nhng tn ti.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 11

Tóm lại, mối quan tâm của DN – người mua quyền và ngân hàng – người bán quyền là mối quan tâm,
kỳ vọng ngược chiều nên chỉ khi nào tỷ giá biến động với biên độ dao động lớn thì việc thực hiện giao
dịch quyền lựa chọn mới kỳ vọng mang lại hiệu quả. Vì phí giao dịch của ngân hàng luôn biến động
khoảng trên dưới 1% giá trị thực hiện, mà như trên đã đề cập, sự biến động giảm giá của VND so với
USD từ đầu năm đến tháng 3 năm 2003 chỉ có 0,33% thì rõ ràng việc DN mua quyền chọn lựa chưa trở
thành một nhu cầu bức thiết, chưa kể tỷ giá USD/VND chỉ có tăng (VND mất giá) chứ không giảm mấy,
chỉ có vài đợt giảm nhưng rất nhẹ. Chỉ có các đồng ngoại tệ như USD, EUR, GBP, JPY, mới có biên độ
giao động lớn.
2.2.6.  xut

Trên cơ sở những phân tích trên đây, để tạo những cơ sở, điều kiện tiền đề và điều kiện pháp lý cho
việc phát triển và mở rộng giao dịch quyền lựa chọn, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất:
1. Ngân hàng Nhà nước nên xác định chính sách tỷ giá giữa VND và USD một cách hợp lý trên cơ
sở xác định ngang giá trung tâm dựa trên tỷ giá thực tế với một dải băng có biên độ từ 2,5% – 3% làm
khung giao dịch, có như vậy tỷ giá VND mới có sự biến động theo tín hiệu của thị trường.
2. Các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng Option thêm quyền được mua
ngoại tệ khi DN không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các DN nhập
khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn ngoài ý nghĩa
về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số
lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu khi đến hạn.
3. Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp
vụ giao dịch hợp đồng Option là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang
tính chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của các DN không thuộc các tổ chức
tài chính – tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán. Trên cơ sở này,
Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền lựa chọn là một khoản chi phí
hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.
4. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để có nhiều DN Việt Nam quen dần với các nghiệp vụ giao
dịch hối đoái, trong đó có giao dịch hối đoái quyền lựa chọn.
2.3. Thc trng s dng hng k hn.
Thống kê của ngân hàng thanh toán quốc tế cho thấy, đến hết 2006, số dư hợp đồng giao dịch phái
sinh trên thị trường tài chính quốc tế tương đương 417 tỷ USD. Thế nhưng, con số này ở Việt Nam rất ít
được nhắc tới vì quá khiêm tốn, mặc dù đây là công cụ bảo hiểm rủi ro tài chính phổ biến trên thế giới.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 12

Công cụ phái sinh hiện phát triển khá khiêm tốn ở chi nhánh ngân hàng Citibank, Standard Chartered,
BIDV, Vietcombank, HSBC với doanh số chưa đáng kể so với doanh số nghiệp vụ truyền thống. Ngay cả
với HSBC, mặc dù hoạt động tại Việt Nam đã 6 năm với hơn 1.000 khách hàng, nhưng sau 2 năm triển
khai dịch vụ, mới chỉ có vài doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này.

Bảng số liệu tỷ trọng của giao dịch kỳ hạn từ 1998 đến 2006 trên Vinaforex
Giao dịch kỳ hạn chiếm tỷ lệ nhỏ dưới 11% trong tổng doanh số giao dịch trên VinaForex. Tính trung
bình, tỷ lệ của giao dịch kỳ hạn qua các năm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ khoảng 5.7% tổng doanh số giao
dịch ngoại hối trên VinaForex. Điều này nói lên rằng.
- TTNH VN còn rất sơ khai về mặt nghiệp vụ, giao dịch ngoại hối chủ yếu là giao ngay.
- Các đơn vị kinh doanh XNK chưa được bảo vệ rủi ro trước sự biến động tỷ giá.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 13

- Các NHTM chưa thực sự sẵn sàng phát triển nghiệp vụ kỳ hạn, vì trong suốt thời gian qua, tỷ giá
VND/USD chỉ biến động tăng 1 chiều, trong lúc ngoại tệ lại luôn khan hiếm. Do đó, các đơn vị XNK chỉ
muốn ký hợp đồng mua kỳ hạn ngoại tệ từ ngân hàng làm cho nghiệp vụ này chưa thể phát triển được.
Tỷ trọng mua bán kỳ hạn quá chênh lệch: Mua kỳ hạn chỉ chiểm khoảng 23%, trong khi đó bán kỳ
hạn chiếm tới 77%. Ngoài mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá, các đơn vị kinh tế tham gia hợp đồng kỳ
hạn chủ yếu nhằm có được ngoại tệ trong tương lai để thanh toán cho nước ngoài.
Vì tỷ trọng NHTM bán kỳ hạn lớn hơn rất nhiều so với tỷ trọng mua kỳ hạn nên nếu xét riêng nghiệp
vụ mua bán kỳ hạn thì các NHTM luôn ở trạng thái ngoại tệ đoản, nghĩa là chịu rủi ro khi tỷ giá tăng
nhiều hơn so với dự kiến.
2.3.1. Mt s ví d v doanh s giao dch k hn ti các ngân hàng.
Doanh số giao dịch kỳ hạn và tỷ lệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 14



Khảo sát giao dịch kỳ hạn tại 2 ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển tại Việt Nam ta
thấy giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm doanh số nhỏ trongg toàn bộ giao dịch kinh doanh ngoại tệ của cả 2 ngân
hàng. Tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tỷ trọng giao dịch kỳ hạn là khoảng 8,38% tính trung bình

cho 9 năm, tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần xuất nhập khẩu, tỷ trọng của giao dịch kỳ hạn tính trung
bình cho 3 năm là 4,66%
Hiện nay trên website của các ngân hàng đều cung cấp thông tin về các sản phẩm công cụ phái sinh,
chủ yếu là trong giao dịch ngoại tệ và một vài mặt hàng nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên có thể thấy rằng
không phải tất cả các ngân hàng đều có những hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng các công cụ đó như thế
nào mà chỉ nói về lợi ích chủ yếu là phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Như thế sẽ gây khó khăn cho khách hàng
trong việc hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 15

2.3.2. Nguyên nhân và gii pháp:
 Nguyên nhân:
Một là, thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng.
Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức trần so với giá
NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, sang năm 2007
và đầu năm 2008, thị trường chứng kiến sự biến động và đảo chiều mạnh mẽ của VND so với đồng Đôla
Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao dịch tại mức sàn. Nguyên nhân là do lượng lớn ngoại tệ từ các
hoạt động đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại
tệ do mất cân đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề rủi ro tỷ
giá, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà phê và các ngành sản
xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác
hơn là chưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối với các hoạt động ngoại tệ của mình.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD hoặc EUR để đầu
tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường bán số ngoại tệ này chuyển sang
VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ họ phải mua lại số ngoại tệ đó bằng VND. Trong
thời gian tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi suất cho vay và cả
tỷ giá hối đoái. Nếu sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi suất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn
về ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi suất vay là thả
nổi và khi lãi suất thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc bảo hiểm được rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ có xu

hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại tệ.
Hai là, thiếu cơ sở pháp lý.
Trong vài năm trở lại đây, NHNN đã cho phép các NHTM được thực hiện nhiều nghiệp vụ mới như
quyền chọn ngoại hối, quyền chọn vàng, hoán đổi lãi suất. Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái
sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất đã có quy chế của NHNN là Quyết định
số 1133/2003/QĐ-NHNN, ngày 30/09/2003. Mặc dù hiện nay tất cả các NHTM đều được thực hiện
nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy nhiên chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tệ, còn
quyền chọn giữa ngoại tệ và VND thì phải được sự cho phép từ phía NHNN. Trên thực tế, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu thường chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ hoạt động đầu tư sản xuất trong
nước mà hầu như không chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại tệ. Đây cũng là trở ngại lớn đối với các NHTM
làm cho doanh số giao dịch quyền chọn rất thấp. Hợp đồng kỳ hạn cũng rất ít được sử dụng ở VN.
Ba là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 16

Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp đối với thị trường
Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có hệ thống thông tin dự báo tỷ giá quốc
tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công cụ đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ
các nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ
quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được. Đối với các doanh nghiệp thì việc
hiểu biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế.
 Gii pháp:
 Về phía ngân hàng:
Thứ nhất, tại các NHTM, các nghiệp vụ phái sinh hiện nay rất ít, chủ yếu là mua bán kỳ hạn, quyền
chọn ngoại tệ, hoán đổi lãi suất với quy mô và mức độ thực hiện thấp. Do đó, các NHTM cần phải phát
triển các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và phong phú hơn nhằm thu hút doanh nghiệp từ chính những tiện
ích mang lại từ các dịch vụ này.
Thứ hai, các NHTM cần hiện đại hóa đồng bộ công nghệ ngân hàng. Các nghiệp vụ phái sinh là
những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nên đòi hỏi các ngân hàng phải trang bị hệ thống công nghệ thông

tin hiện đại, đồng bộ mới có thể thu thập, xử lý, phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, từ
đó mới có thể hạn chế rủi ro cho chính các ngân hàng và tư vấn được cho các khách hàng của mình.
Thứ ba, để các doanh nghiệp hiểu được lợi ích của các công cụ phái sinh và sử dụng rộng rãi các
nghiệp vụ này như một công cụ để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh do biến động của thị trường,
các ngân hàng cần đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu, tư vấn các nghiệp vụ phái sinh cho các doanh nghiệp.
Thứ tư, các ngân hàng phải nhanh chóng đào tạo được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp trong lĩnh
vực này. Chìa khóa của mọi sự thành công là yếu tố con người, các ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân
viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ
tài chính phái sinh. Công tác đào tạo và tái đào tạo phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; cả ở trong
nước và nước ngoài; cả về lý thuyết lẫn thực hành. Có như vậy, mới giúp được đội ngũ nhân viên hiểu và
triển khai được các nghiệp vụ một cách linh hoạt, tránh gây ra rủi ro cho chính các ngân hàng.
Thứ năm, các ngân hàng cần phải tăng cường kiểm soát nội bộ. Các ngân hàng cần đảm bảo an toàn
hoạt động, do đó các ngân hàng cần đánh giá rủi ro cấu trúc, quản lý hệ thống kế toán nhằm đảm bảo các
quyết định được đưa ra trên cơ sở có đầy đủ thông tin về rủi ro.
 Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về giao dịch phái sinh sao cho vừa phù hợp
với thông lệ quốc tế vừa phù hợp với điều kiện phát triển của thị trường Việt Nam. Các ngân hàng thương
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 17

mại có kinh doanh ngoại hối đều nên được thực hiện các nghiệp vụ phái sinh đầy đủ, để có được một thị
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng, nhằm cung cấp các sản phẩm tiện ích nhất cho các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp.
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện chế độ kế toán, quy định cụ thể về các giao dịch phái sinh. Nhà
nước cần có các hướng dẫn cụ thể quy định cách tính toán thu nhập, chi phí, cách tính giá hạch toán, cách
định giá, … phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm giúp các ngân hàng thương mại thực hiện tốt việc theo dõi
quản lý nghiệp vụ phái sinh trong quá trình áp dụng.
Thứ ba, Nhà nước cần phát triển sâu thị trường thị trường tài chính tiền tệ. Nhà nước cần tăng quy mô
của thị trường chứng khoán, khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán huy

động vốn, đồng thời phát hành nhiều loại trái phiếu chính phủ với nhiều kỳ hạn đa dạng. Việc thị trường
tài chính tiền tệ phát triển sẽ tạo điều kiện phát triển những thị trường mới có tổ chức như thị trường giao
dịch tương lai…Từ đó, các ngân hàng có thể phát triển các nghiệp vụ phái sinh, đa dạng hóa sản phẩm,
hoàn thiện hơn những biệp pháp phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro lãi suất nói riêng.
2.4. Thc trng s dng h
Hợp đồng hàng hóa tương lai xuất hiện tại Việt Nam chỉ mới khoảng 10 năm trở lại đây, tập trung
vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cà phê, cao su và gần đây đã phát triển sang các mặt hàng khác
như kim loại màu, ngũ cốc và bông sợi, đều là các mặt hàng phải nhập khẩu là chính, tuy nhiên, số lượng
giao dịch còn khá khiêm tốn. Những doanh nghiệp đang thực hiện giao dịch hợp đồng tương lai tại
Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do tính tự quyết cao.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, việc tiếp cận gặp nhiều khó khăn hơn, xuất phát từ cách nhìn
nhận về hợp đồng hàng hóa tương lai của xã hội nói chung, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và chính
đội ngũ điều hành doanh nghiệp nói riêng, có xu hướng đánh giá giao dịch hàng hóa tương lai một cách
tách biệt với hoạt động kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp. Mọi việc sẽ trở nên rất nặng nề, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp quốc doanh, nếu việc sử dụng các công cụ phái sinh hàng hóa có thể phát sinh
thua lỗ.
Đã có một loạt các sàn giao dịch tương lai dành cho các sản phẩm hàng hóa thông thường đã được
xây dựng. Mặc dù vậy, một điểm chung dễ nhận thấy là hầu như tất cả các sàn giao dịch tương lai này đã
phải đóng cửa một cách nhanh chóng sau một thời gian ngắn vì hiệu quả hoạt động không cao. Có thể kể
đến như:
1) Sàn giao dịch điều của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TpHCM phối hợp với Hiệp hội Điều
Việt Nam (năm 2002)
2) Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ (năm 2002)
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 18

3) Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC, 2008)
4) Sàn giao dịch đường của Công ty cổ phần Giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE,
2010)

5) Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (Vietnam Commodity Exchange - VNX), tiền thân là Sở Giao
dịch hàng hóa Triệu Phong, giao dịch kỳ hạn dành cho ba mặt hàng được Bộ Công Thương cấp phép là
cà phê, cao su và thép (2010)
6) Sàn giao dịch vàng kỳ hạn (còn gọi là giao dịch vàng tài khoản) mở tại các công ty chứng khoán
và các ngân hàng thương mại (giai đoạn trước 31/3/2010)
Có thể nhấn mạnh rằng hầu hết các sàn giao dịch này hoạt động một cách ảm đạm, chưa thu hút được
nhiều đơn vị tham gia (trừ sàn giao dịch vàng kỳ hạn). Trong khi đó, nhiều đơn vị trong nước lại phải đi
tìm kiếm nguồn hàng hoặc bán hàng qua các sàn giao dịch tương lai ở nước ngoài tại Mỹ, Nhật, châu Âu.
Trước nhu cầu này, một số sàn giao dịch kỳ hạn nước ngoài đã tiến hành các hoạt động quảng bá và chào
đón doanh nghiệp Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, bao gồm sự thiếu vắng các đối tượng tham gia, trình
tự, thủ tục không tiện lợi, chi phí cao, chứa đựng nhiều rủi ro, cơ chế quản lý không hiệu quả.
2.4.1. Hc s dng trong h thng ngân hàng.
Điểm qua hoạt động này qua 3 ngân hàng sau:
 
Tại Sacombank, cung cấp những sản phẩm giao dịch chủ yếu:
• Nông sản: ngô, lúa mì, đậu nành, đường, cà phê, ca-cao, cao su, sợi
• Kim loại: đổng, nhôm, chì, kẽm, thép.
• Năng lượng: dầu thô, gas
Ưu điểm của sản phẩm giap sau:
• Tính thanh khoản của thị trường tương đối cao với quỵ mô giao dịch lên đến hàng triệu hợp đổng
được giao dịch trong một ngày đã khiến thị trường giao sau trở nên năng động và giúp khoản chênh lệch
giữa giá mua và bán tương đối gần nhau, chính yếu tố này khiến nhà đầu tư dễ dàng mua bán với mức giá
hợp lý.
• Ký quỹ nhỏ - giao dịch lớn, với khoản ký quỹ ban đầu tương đối nhỏ (khoảng 7% - 10%) so với
giá trị giao dịch, nhà đầu tư có thể giao dịch một hợp đổng với một quỵ mô lớn hơn, từ đó làm gia tăng
khả năng đạt lợi nhuận cao.
• Độ biến động trong ngày tương đối rộng và nhà đầu tư có thể mua và bán cùng một loại hàng hóa
nhiều lần trong phiên giao dịch.
• Bán Khống: Có thể bán trước trong trường hợp khách hàng chưa có hàng thật trong tay, không

Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 19

cần chứng minh sở hữu hàng hóa. Như vậy, lợi nhuận thu được là phần chênh lệch giữa giá bán và giá
mua.
• Giao dịch 2 chiểu: Nhà đầu tư có thể mua và bán cùng một loại hàng hóa nhiều lần trong phiên
giao dịch. Đây thực sự là ưu điểm của giao sau hàng hóa đối với một số kênh đầu tư hiện hữu khác tại
Việt Nam.
• Thời giao dịch tương đối linh hoạt tùy theo từng loại hàng hóa khác nhau
 BIDV
Lợi thế của BIDV
- Là một trong những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp sản phẩm giao dịch hàng hóa phái
sinh trên các sàn giao dịch hàng hóa quốc tế
- Chủng loại hàng hóa giao dịch đa dạng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Quan hệ với các đối tác lớn, có uy tín trên thị trường tài chính quốc tế.
- Thủ tục giao dịch đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện
- Hệ thống giao dịch điện tử tự động, hiện đại
- Mức phí giao dịch cạnh tranh
 Techcombank
Tình hình kinh doanh luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro: giá cả hàng hóa lên xuống thất thường, sản lượng
phụ thuộc vào tình hình thời tiết có thể gây ra các tổn thất không nhỏ cho các doanh nghiệp.
Techcombank là ngân hàng Việt Nam đầu tiên cung cấp dịch vụ Hợp đồng tương lai trên thị trường hàng
hóa với mục đích hỗ trợ khách hàng trong việc quản trị rủi ro, hạn chế tối đa mức thua lỗ có thể có, bào
đảm được lợi nhuận cũng như tiếp cận với các phương thức kinh doanh hiện đại của các thị trường lớn
trên thế giới.
 Đối tượng khách hàng
-Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh chuyên sản xuất, xuất khẩu hàng hóa (hàng nông sản như cà phê,
chè, lương thực và các loại hàng hóa khác)
-Các doanh nghiệp chuyên nhập khẩu các mặt hàng như sắt thép, dầu với thời điểm giao hàng trong

tương lai, và muốn xác định trước mức giá phải trả.
 Lợi ích
- Tính được mức tổn thất tối đa mà khách hàng phải chịu nếu xảy ra.
- Tính được lợi nhuận tối thiểu sẽ đạt được.
- Có cơ hội giao thương với các đối tác lớn trên các thị trường lớn nhất thế giới.
- Có cơ hội sử dụng các dịch vụ thanh toán quốc tế của Techcombank với mức phí ưu đãi.
 Ưu thế của Techcombank
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 20

- Ngân hàng có hệ thống máy tính được nối mạng với các thị trường lớn như: LIFFE, SIMEX,
TOCOM, NYBOT giúp khách hàng theo dõi được diễn biến của giá cả trên thế giới.
- Đội ngũ chuyên viên kinh doanh của ngân hàng được trang bị đầy đủ kỹ năng, hiểu biết cần thiết
để giúp khách hàng thực hiện các lệnh mua,bán nhanh chóng, kịp thời.
2.4.2. Nhng gi ra
- Lựa chọn sự dụng hợp đồng tương lai dựa trên các tiêu chí:
 Đơn giản, dễ áp dụng
 Hàng hóa cơ sở phải có tính thanh khoản
 Hệ thống thông tin kết nối với thị trường hàng hóa cơ sở
 Phù hợp với năng lực quản lý
- Đối với khả năng phát triển thị trường Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán, trước hết có
thể nhận thấy là hiện tại trên thị trường Việt Nam không có nhu cầu cao đối với công cụ này. Vì vậy khi
khi bắt tay vào xây dựng thị trường, cần phải xác định hàng hóa cơ sở là gì. Có hai lựa chọn như sau:
a. Sử dụng các chỉ số thị trường hiện tại làm công cụ cơ sở.
b. Xây dựng các chỉ số/nhóm chỉ số mới hoặc chỉ số theo ngành.
Đối với hoàn cảnh của Việt Nam, lựa chọn phương án b
- Việc mua bán Hợp đồng tương lai chỉ số sẽ giúp các quỹ đầu tư có thể triệt tiêu hoặc giảm thiểu
được thua lỗ đối với các danh mục đầu tư chứng khoán khác nhau với điều kiện các danh mục này phù
hợp hoặc “khớp” với các nhóm chỉ số được sử dụng làm công cụ cơ sở của Hợp đồng tương lai.

Ví dụ, một quỹ đầu tư hiện đang nắm giữ một danh mục đầu tư gồm các cổ phiếu blue-chip trong top
50 về vốn hóa thị trường, và Hợp đồng tương lai được thiết kế dành cho công cụ cơ sở là chỉ số mới được
xây dựng với rổ tính toán là các cổ phiếu top 50 này. Nếu quỹ đầu tư dự đoán rằng lợi nhuận danh mục
sẽ giảm 15% tương đương 30 tỷ đồng do thị trường giảm giá vào cuối năm, quỹ có thể án một số lượng
Hợp đồng tương lai (giả sử nắm giữ cho đến hạn thanh toán) với giá sao cho tổng giá trị Hợp đồng tương
lai bằng tổng giá trị danh mục đầu tư. Vì thế, vào thời điểm cuối năm khi chỉ số giảm xuống 15% (khi đó
giá trị danh mục cũng giảm xuống) thì có thể đem lại lãi ròng cho vị thế bán cũng là 15% (30 tỷ). Nói
cách khác, nếu giá trị danh mục giảm đi bao nhiêu thì lại được bù đắp bấy nhiêu từ việc bán Hợp đồng
tương lai. Qua giao dịch này, quỹ đầu tư đã bù đắp được thua lỗ và vì vậy đã bảo vệ được danh mục trước
rủi ro biến động thị trường.
Từ VD trên ta rút ra thị trường phái sinh chỉ số cần được xây dựng với sự phân biệt và lưu tâm đầy
đủ tới hai loại thành viên tiềm năng có nhu cầu khác nhau là nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên
nghiệp.
2.4.3. Kt lun:
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 21

Thị trường chứng khoán phái sinh nói chung và thị trường Hợp đồng tương lai nói riêng ở Việt Nam
đã và đang trải qua giai đoạn sơ khai hình thành. Sự phát triển này là tất yếu và phù hợp với định hướng
kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy vậy, việc xây dựng thị trường tương lai cần rất nhiều điều kiện cơ bản
có tính nền tảng cho sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, việc triển khai thị trường hợp đồng tương lai
chỉ số chứng khoán trong nước cần phải đáp ứng được những tiêu chí cơ bản nhất trước khi đưa vào áp
dụng
2.5. Thc trng s dng hi
2.5.1. Khái quát v giao di SWAP
- Giao dịch hoán đổi xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐNHNN13 ngày 24/12/1997 và
sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ
là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp
các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.

- Giao dịch hoán đổi chính thức ra đời từ khi Ngân hàng nhà nước ban hành
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN7 ngày10 tháng 01
năm 1998.
- Hầu hết các hợp đồng Swaps được giao dịch trên OTC.
- Các loại hợp đồng swaps thông dụng:
+ Hoán đổi lãi suất (interest rate swaps)
+ Hoán đổi tiền tệ (currency swaps)
+ Hoán đổi tín dụng (credit swaps)
+ Hoán đổi hàng hóa (commodity swaps)
+ Hoán đối chứng khoán vốn (equity swaps)
2.5.2. Hi lãi sut
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ được các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của
các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực
hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số
1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng
danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất
được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa DN vay vốn
tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và
giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của
NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp (DN), tìm
kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 22

hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực
hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán
đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy
định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, NH HSBC đã
cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một

công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15
triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo
đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ
khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ
đưa USD và nhận lại VND từ khách
hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt
được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị
trường nội địa cho việc vay vốn tiền
Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ
một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.Chính
hành động của HSBC, tạo ra nền tảng
phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực
hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng khi
khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái
sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
2.5.3. i tín dng
Các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được
thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn
3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC
chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc
dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín
dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm
hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các
khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia.
Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các
khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là
HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 23


Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái
phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài
hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro
tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các
chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ
này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà
đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường,
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn
góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị
trường quốc tế.
2.5.4. i tin t
Tình hung 1: Công ty Saigonimex vừa thu
ngoại tệ 90.000USD từ một hợp đồng xuất khẩu.
Hiện tại công ty cần VND để chi trả tiền mua
nguyên liệu và lương cho công nhân.Ngoài ra, công
ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có một hợp đồng nhập
khẩu đến hạn thanh toán. Khi ấy công ty cần một
khoản ngoại tệ 80.000USD để thanh toán hợp đồng
nhập khẩu. Để thoả mãn nhu cầu VND ở hiện tại và
USD trong tương lai, ở thời điểm hiện tại
Saigonimex có thể thoả thuận với ngân hàng hai loại giao dịch:
• Bán 90.000USD giao ngay để lấy VND chi tiêu ở thời điểm hiện tại.
• Mua 80.000USD kỳ hạn để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ đến hạn
sau ba tháng nữa.
Tình hung 2: Công ty Cholonimex đang cần ngoại tệ 90.000USD để chi trả cho một hợp đồng nhập
khẩu đến hạn. Ngoài ra, công ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có một hợp đồng xuất khẩu đến hạn thanh toán.
Khi ấy công ty sẽ có một khoản ngoại tệ thu về 80.000USD cần bán để lấy VND. Để thoả mãn nhu cầu
USD ở hiện tại và VND trong tương lai, ở thời điểm hiện tại Cholonimex có thể thoả thuận với ngân hàng
hai loại giao dịch:

• Mua 90.000USD giao ngay để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu đến hạn.Bán 80.000USD kỳ
hạn để có VND chi tiêu sau ba tháng nữa.
Khách hàng có thể thực hiện từng loại giao dịch riêng lẻ nhằm thoả mãn nhu cầu ngoại tệ và VND.
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 24

Tuy nhiên, nếu thực hiện riêng lẻ từng loại giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn thì ngân hàng và
khách hàng phải thỏa thuận đến hai loại hợp đồng, theo đó kháchhàng bán giao ngay và mua kỳ hạn hoặc
mua giao ngay và bán kỳ hạn với cùng một loại ngoại tệ. Giao dịch riêng lẻ này khiến cho khách hàng
phải chịu thiệt hai lần do chênh lệch giữa giá bán và giá mua và những phiến toái trong thoả thuận hợp
đồng giao dịch.
Thay vì thực hiện giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn riêng biệt, ngân hàng kết hợp hai loại giao
dịch này lại trong một hợp đồng, gọi là hợp đồng hoán đổi tiền tệ.
Trong hợp đồng giao dịch hoán đổi, hai bên ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau một số nội
dung chính: Thời hạn giao dịch , Điều kiện thực hiện , Ngày thanh toán , Xác định tỷ giá hoán đổi .
2.5.5. :
Ví dụ: Hợp đồng Swap về chỉ số: Bên A hoán đổi 5.000.000 bảng với lãi suất LIBOR + 3 điểm cơ
bản lấy 5.000.000 bảng (dựa vào chỉ số FTSE đối với giá trị danh nghĩa 5.000.000). Trong trường hợp
này bên A sẽ trả cho bên B mức lãi suất thả nổi LIBOR+ điểm cơ bản trên số tiền danh nghĩa là
5.000.000 và sẽ nhận lại từ bên B bất kỳ sự gia tăng theo tỉ lệ phần trăm của chỉ sổ cổ phiếu FTSE cho giá
trị danh nghĩa là 5.000.000 bảng.
2.5.6. 
Người sử dụng hàng hóa muốn đảm bảo giá ở mức tối đa và đồng ý trả cho tổ chức tài chính một mức
giá cố định. Đổi lại người sử dụng sẽ nhận được những khoản thanh toán dựa trên giá cả thị trường cho
những hàng hoá liên quan. Ngược lại, người sản xuất muốn cố định thu nhập và đồng ý trả giá thị trường
cho tổ chức tài chính, đổi lại cho việc nhận những khoản thanh toán cố định cho hàng hoá
VD: một công ty tiêu thụ 10000 thùng dầu mỗi năm, ký một hợp đồng với nhà cung cấp dầu sẽ trả
mỗi năm là 1 triệu usd kéo dài trong 5 năm để mỗi năm có 10000 thùng dầu. Như vậy, họ đã cố định mức
giá là 100usd/ thùng

2.5.7. m:
 
Qua tình huống minh họa giao dịch hoán đổi, chúng ta thấy rõ được tính chất
kết hợp giữa một hợp đồng giao ngay và một hợp đồng có kỳ hạn ở hai thời điểm khác
nhau của hợp đồng hoán đổi. Nhờ vậy mà đáp ứng được nhu cầu mua và bán lại hoặc bán và mua lại
Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam – Nhóm CDA – K11 HVNH

Page 25

cùng loại ngoại tệ ở hai thời điểm khác nhau của khách hàng.
Trong giao dịch hoán đổi, các bên tham gia bao gồm ngân hàng và khách hàng đều có những lợi ích
nhất định. Với khách hàng lợi ích thể hiện ở chỗ khách hàng thỏa mãn được nhu cầu ngoại tệ hoặc nội tệ
của mình ở thời điểm hiện tại, tức là vào ngày hiệu lực, đồng thời cũng thỏa mãn nhu cầu mua hoặc bán
ngoại tệ vào này đáo hạn. Điều này giống như hợp đồng kỳ hạn, do đó khách hàng có thể phòng ngừa
được rủi ro biến động tỷ giá.
Đối với ngân hàng lợi ích thể hiện ở chỗ một mặt ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng
góp phần nâng cao uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu của mình.Mặt khác, ngân hàng có thể kiếm được
lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và bán ngoại tệ.Chẳng hạn trong hai tình huống minh họa trên đây, vào
ngày hiệu lực ngân hàng có thể kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán ngoại tệ giao ngay là
(15810 – 15805)80.000 = 400.000 đồng. Vào ngày đáo hạn, ngân hàng kiếm được lợi nhuận từ chênh
lệch giá mua và giá bán kỳ hạn là (16047 – 15908)80.000= 1.112.000 đồng. Tổng cộng ngân hàng kiếm
lời được 1.512.000 đồng qua giao dịch hoán đổi giữa ngân hàng và hai khách hàng có nhu cầu giao dịch
ngoại tệ trái chiều nhau.
Như đã trình bày, giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.
Bản thân giao dịch hoán đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao ngay là có thể thỏa mãn
nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp
đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại.
 c :
Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm:
• Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ giá trên thị trường

giao ngay lúc đó như thế nào. Điền này có mặt lợi là bảo hiểm được rủi ro ngoại hối cho khách hàng
nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như tỷ giá biến động trái với dự đoán của khách
hàng.
• Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm đáo hạn, mà không
quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quảng thời gian giữa hai thời điểm đó. Chẳng hạn trong tình
huống của Saigonimex trên đây nếu vào một thời điểm nào đó sau khi thỏa thuận hợp đồng giao dịch,
USD lên giá so với VND, Saigonimex có lợi vì đang có trạng thái dương USD kỳ hạn 3 tháng. Thế nhưng
lúc này Saigonimex vẫn không được hưởng lợi vì hợp đồng chưa đến hạn.Đến khi hợp đồng đến hạn có
thể lợi ích đó không còn vì biết đâu chừng bấy giờ USD lại xuống giá so với VND!
2.5.8. Gii pháp cho giao di ngoi hi
* Hiện đại hóa trang thiết bị và cơ sở vật chất , ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ: Địa
điểm thực hiện các giao dịch kinh doanh ngoại hối cần được bố trí thuận lợi, các bảng yết giá khoa học ,

×