Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Thực trạng việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.95 KB, 34 trang )

Thực trạng việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam:
I. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện
chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó
và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp chúng ta
chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức
cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan
niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn tính đến
khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lượng
tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng
trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ...
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một cách linh
hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng,
đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm...)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực
tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ
động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia.
II.Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong những năm vừa qua:
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND nhìn chung thấp, trừ những
năm 2008 và 2009. Tháng 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND
được chuyển từ cơ chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản; Lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng, giảm phù hợp mục tiêu điều tiết
lượng vốn huy động và cho vay tín dụng hàng năm. Năm 2001, lãi suất từng bước
được điều hành theo hướng tự do hóa và phù hợp với mục tiêu CSTT. Từ năm
2003, việc điều hành CSTT chuyển biến theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần là lãi suất trần; lãi suất chiết khấu được
điều chỉnh là lãi suất sàn của thị trường; lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được
được điều chỉnh linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn với lãi suất chiết


khấu. Từ tháng 1/2005- 8/ 2008, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn
và lãi suất tái chiết khấu nhằm thắt chặt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát
đang có xu hướng gia tăng. Từ ngày 21/10/2008 lãi suất cơ bản của NHNN được
điều chỉnh giảm, lãi suất cho vay tối đa bằng VND của các TCTD đối với khách
hàng (150% lãi suất cơ bản) cũng giảm tương ứng; Trong 6 tháng đầu năm 2008,
lãi suất huy động USD được điều chỉnh tăng với mức lãi suất huy động USD cao
nhất là 7-8%/năm; Lãi suất cho vay USD cũng tăng lên khoảng 2-2,5%/năm so với
đầu năm 2008 (lãi suất cho vay phổ biến khoảng 9-9,5%/năm). Sau đó liên tục
giảm từ 2- 3%/năm.
Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản 8% 1011/QĐ-NHNN ngày 27/4/2010 01/05/2010
Lãi suất tái cấp vốn
8%
2664/QĐ-NHNN ngày
25/11/2009
01/12/2009
Lãi suất chiết khấu
6%/năm
QĐ 2664/QĐ-NHNN ngày
25/11/2009
01/12/2009
Trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, từ cuối năm 2008, và nhất là
những tháng đầu năm 2009, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT, góp phần thực
hiện chính sách kích cầu (nổi bật là hỗ trợ 4% lãi suất cho vay của NHTM) của
chính phủ, để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động ngăn ngừa nguy
Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào
từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi
suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế .Đầu năm
2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra

Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ
lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng
dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà
nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số
346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình
thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng.
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn
và dưới 12
tháng
Từ 12 tháng
trở lên
Không kỳ hạn
và dưới 12
tháng
Từ 12 tháng
trở lên
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính
4% 2% 7% 3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
3% 1% 6% 2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp

tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương
3% 1% 6% 2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự
trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng,
QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách
xã hội
0% 0% 0% 0%
Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau
những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân
hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng
qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất
huy động.
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm
theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày
17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành
lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết
định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất
thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng
phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động
12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.
Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thiị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán
của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân
hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối
với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy
động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm,

kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng
thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của
các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi
của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc
mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách
thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát
tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế
quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài
nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động
đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò
và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kièm chế lạm phát và điều
tiết kinh tế vĩ mô.
Dự trữ bắt buộc được điều chỉnh hàng năm tăng hoặc giảm cả về khối lượng,
diện phải DTBB và lãi suất tiền gửi nhằm khống chế mức vốn khả dụng của các
NHTM. Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB
bằng VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn
10%. Từ năm 2003, các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh
NHNN, đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện mục tiêu tăng cường khả năng
điều tiết tiền tệ của công cụ này. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng
2/2008 NHNN điều chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng
cho cả tiền gửi VND và ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD (trừ NH Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam, và một số TCTD hợp tác và NHTMCP nông
thôn). Đồng thời mở rộng đối với loại tiền gửi kỳ hạn từ 24 tháng trở lên (trước
đây chỉ bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng) nhằm nâng
cao khả năng điều tiết công cụ DTBB. Những tháng cuối năm, để ngăn chặn suy

giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ
11% xuống 6% và tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11% xuống 7%.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng nhẹ, nhưng nhìn chung được giữ tương
đối ổn định trong thời gian dài. Đặc biệt, riêng năm 2006 tỷ giá VND/USD lần đầu
được điều hành thử nghiệm theo cơ chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực
hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu điều hành. Tỷ giá
VND/USD trong năm 2008 được điều hành một cách linh hoạt phù hợp với diễn
biến thị trường, kịp thời bám sát các diễn biến trên thị trường, có chính sách điều
hành tỷ giá thích hợp. Trong năm 2008, NHNN đã 3 lần mở rộng biên độ tỷ giá
giao dịch giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ, đưa biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1%,
±2% và ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Từ ngày 25/12/2008, NHNN
đã thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp
dụng tăng 3% lên mức 16.989 đ/USD.
Nghiệp vụ thị trường mở (khai trương tháng 7/2000), đã góp phần điều
chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường
mở được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ
khắc phục hiện tượng mất cân đối cung cầu ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho
NHNN tăng dự trữ ngoại hối. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực
hiện hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo phương thức đấu thầu khối lượng,
công bố lãi suất. Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới
như cố định phiên mua, thay đổi phương thức đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu
điều hành CSTT và diễn biến vốn bằng VND của các TCTD. Tổng doanh số giao
dịch trên thị trường này tăng nhanh và liên tục qua các năm (năm 2004 đạt 61.936
tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần năm 2003, năm 2005 tăng 65,5% so với năm 2004,
năm 2006 tăng 45% so với năm 2005, năm 2007 tăng 113% so với năm 2006; năm
2008 doanh số giao dịch tăng khoảng 25% so với năm 2007…)
Nhờ những chính sách phù hợp nêu trên, về tổng thể, tình hình thị trường tiền
tệ trong nước được giữ ổn định, không có đột biến lớn (trừ lạm phát cao năm 2007-
2008), mặc dầu lãi suất và tỷ giá có những diễn biến phức tạp; hiện tượng găm và
gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ cao. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng thường ở trong

tình trạng cầu ngoại tệ lớn hơn cung (trừ những tháng đầu năm 2008); Tổng
phương tiện thanh toán và tốc độ trăng trưởng tín dụng hàng năm tăng liên tục với
tốc độ khá cao (so năm trước thì năm 2001 tổng phương tiện thanh toán và tốc độ
trăng trưởng tín dụng tăng 25,53% và 21,44%. Năm 2002, tổng phương tiện thanh
toán tăng 17,7%; tốc độ huy động vốn tăng 19,4%. Năm 2004 tổng phương tiện
thanh toán tăng 30,39%, năm 2006 tăng 33,59% và năm 2007 tăng 46,12%. Năm
2007, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006, cao
hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng 36,53% của năm 2006, mức 32,08% của năm
2005 và mức tăng 41,65% của năm 2004. Năm 2008, dư nợ cho vay của toàn hệ
thống ngân hàng chỉ còn tăng 25,43%, tăng trưởng huy động vốn đạt 22,87%, thấp
hơn nhiều so với mức tăng trưởng 47,64% của năm 2007, trong đó, huy động vốn
bằng VND tăng 21,38%, giảm mạnh so với mức tăng trưởng 53,99% của năm
2007. Huy động bằng ngoại tệ tăng 27,74%, giảm nhẹ so với mức 29,66% của năm
2007. Đặc biệt, tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán năm 2001 là
23,7%, năm 2002 là 22,56%, năm 2003 là 22,03%, năm 2004 là 20,35%, năm
2005 là 19,01%, năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36% và năm 2008 là 14,6%
- Điều này cho thấy cơ cấu tổng phương tiện thanh toán ngày càng được cải thiện
theo hướng giảm dần tỷ lệ tiền mặt trong nền kinh tế…
.
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được
NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12%
từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên
mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp
vốn (LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và
15% áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều
chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với
các NHTM.
Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua

Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra
một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng
từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ
đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức
thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả
năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước
nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng.
LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên
tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ
21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7%
(từ 01/02/09) như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều
chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ
trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007),
riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008.
Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức
tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới
16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng
chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08)
đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu
đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam
(điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì
ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung

ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các
thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại
tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ
dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công
cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong
thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ
bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với
dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động;
(3) Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của
hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát
huy mạnh mẽ.
Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay HTLS của toàn hệ thống ngân hàng đã
đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước là 61.048
tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỷ đồng và với hộ kinh doanh
là 68.605 tỷ đồng.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ
trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản
xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền
cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe
mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên
17.000 tỷ đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”.
Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua
hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng,
giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản
phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ

rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy
thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá”
qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công
bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn
như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng
mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay
bằng VND, …); tạo sức ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng minh
chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ
có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi hỗ trợ trực tiếp cho
doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh nhiều tiêu
cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản, các
NHTM không huy động được và cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu
không tăng được tín dụng cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì.
Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích
tiêu dùng và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ
qua tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn
cho đầu tư và tiêu dùng xã hội
III.Chính sách tiền tệ của NHNN VN trong những năm 2007-2009:
1) Giai đoạn: trong năm2007- đầu 2008:
Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ
tiêu đầy hứa hẹn. Khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư nước
ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). 2007 là năm ảm
đạm trong nề Kinh tế Mĩ khi mà đồng đô la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái
của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế
giới chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam.
Đồng tiền mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất trong năm 2007 và đầu năm 2008.
Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá
để tạo ra điểm cân bằng.Tuy nhiên NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp
lực tăng giá VND:

 NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của
VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh
tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng
xuất khẩu.
 Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để
hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng
tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những
tháng cuối năm.
 Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn
định lãi suất thị trường.
 Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết
khấu trong hạn mức phân bổ.
 Tỉ giá linh hoạt với việc nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% vào đầu năm và
đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
Tuy nhiên, mặt trái của chính sách thị trường mở là Ngân hàng nhà nước đã phải cung ra số
lượng khổng lồ tiền đồng để mua hết số đô la này, Đồng đô la mất giá, đồng nghĩa với việc
tiền Việt lên giá. Người ta lại dồn dập bán đô la để thu tiền Việt. Cung tiền đồng lại phải
tăng thêm để giữ tỉ giá hối đoái (VND/USD) khỏi xuống quá thấp, làm cho lượng cung tiền
của VN từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007 tăng tổng cộng 110%. Đây là mức tăng rất lớn,
là tác nhân quan trọng đối với lạm phát. Con số lạm phát lên đến 12.63% so với chỉ số tăng
GDP là 8.5% - nghĩa là về thực chất chúng ta tăng trưởng âm.
Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Mặc dù
ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5%
và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%, nhưng với biên độ dao động chưa
đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài.
Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế
mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD.
 Kết quả đạt đựoc trong năm 2007:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất
và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế :

+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa
tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và
cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006,
tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối

×