Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Các quy định về nhập khẩu của nhật bản và khả năng xuất khẩu của việt nam sang thị trường này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 123 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG





TRẦN THU CÚC




CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHẬP KHẨU CỦA NHẬT BẢN
VÀ KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG NÀY


Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số: 60.31.07





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS Nguyễn Hữu Khải









Hà Nội - 2007


MỤC LỤC

Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ NHẬP KHẨU CỦA NHẬT
BẢN
4
1.1
Tổng quan về thị trường Nhật Bản
4

1.1.1
Điều kiện tự nhiên
4
1.1.2
Tình hình Chính trị - Kinh tế
5
1.1.3
Tình hình Văn hoá - Xã hội
8
1.1.4
Cách ứng xử trong công việc và tập quán kinh doanh
10
1.2
Các quy định chung liên quan đến nhập khẩu hàng hoá.
13
1.2.1
Hệ thống thuế quan
13
1.2.2
Các quy định phi thuế quan
17
1.3
Sự cần thiết nghiên cứu các quy định nhập khẩu của Nhật Bản
32
1.3.1
Nghiên cứu quy định nhập khẩu của Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam
hoàn chỉnh quy chế xuất nhập khẩu, bảo vệ nền sản xuất trong nước

32
1.3.2

Nghiên cứu quy định nhập khẩu của Nhật Bản sẽ giúp tăng kim
ngạch xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

33
1.3.3
Nghiên cứu các quy định nhập khẩu của Nhật Bản sẽ góp phần nâng
cao năng lực quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam


34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC QUY ĐỊNH NHẬP KHẨU
CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ VIỆT NAM

36
2.1
Tổng quan về về tình hình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang Nhật

36
2.1.1
Quy mô
36
2.1.2
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
38
2.1.3
Xuất khẩu sang Nhật theo từng nhóm hàng
41
2.2

Thực trạng quy định nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng hoá



xuất khẩu của Việt Nam
50
2.2.1
Quy định đối với nhóm hàng thuỷ sản
50
2.2.2
Quy định đối với nhóm hàng dệt may
57
2.2.3
Quy định đối với nhóm hàng đồ gỗ (chủ yếu là đồ gỗ nội thất)
61
2.2.4
Quy định đối với nhóm hàng rau quả
63
CHƯƠNG 3: KHẢ NĂNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

70
3.1
Khả năng xuất khẩu của Việt Nam
70
3.1.1
Lợi thế của Việt Nam
70
3.1.2
Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành

71
3.2
Dự báo nhu cầu nhập khẩu của thị trường Nhật Bản
74
3.2.1
Nhu cầu nhập khẩu thủy sản
74
3.2.2
Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may
75
3.2.3
Nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ nội thất
76
3.2.4
Nhu cầu nhập khẩu rau quả
77
3.3
Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuât khẩu của Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản

78
3.3.1
Quan điểm và định hướng xuất khẩu sang Nhật giai đoạn 2006-2010
78

3.3.1.1.Quan điểm
78

3.3.1.2. Định hướng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
78

3.3.2
Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật
80

3.3.2.1. Các giải pháp của Chính phủ
80

3.3.2.2. Các giải pháp của ngành hàng
83

3.3.2.3. Các giải pháp của Hiệp hội
88

3.3.2.4. Các giải pháp của doanh nghiệp
93
KẾT LUẬN
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ASEAN
Association of Southeast Asia
Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CIF
Cost, Insurance and Freight
Giá hàng, bảo hiểm và cước chuyên
chở
FOB
Free on board
Giao lên tàu
GATT
General Agreement on Tariff and
International Trade
Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại
GDP
Gross Domestic Producst
Tổng sản phẩm trong nước
GSP
Generalized System of
Preferences
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
JAS
Japan Agricultural Standards
Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản
JETRO
Japan External Trade Organization
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật
Bản
JIS
Japan Industrial Standards
Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản

KNNK

Kim ngạch nhập khẩu
KNXK

Kim ngạch xuất khẩu
LDC
Least Developed Countries
Các nước chậm phát triển
METI
Ministry of Economy, Trade and
Industry
Bộ Kinh tế Thương mại và Công
nghiệp Nhật Bản
MFN
Most Favored Nations
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc
VASEP
Vietnam Association of Seafood
Exporters and Producers
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới



DANH MỤC BẢNG BIỂU




Trang
Bảng 1.1
Hạn ngạch thuế quan đối với da và các mặt hàng da
cho năm tài chính 2007 (từ 1/4/2007 đến 31/3/2008)
19
Bảng 1.2
Các dấu chứng nhận chất lượng khác được sử dụng phổ biến ở
Nhật
23



Bảng 2.1
Thương mại song phương Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn
1996 - 2000
36
Bảng 2.2
Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nhật Bản
giai đoạn 2000-2006
38
Bảng 2.3
Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2006
40
Bảng 2.4
Các mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật
Bản giai đoạn 2000-2005
42
Bảng 2.5

Xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật giai đoạn 2001-2006
43
Bảng 2.6
Tỷ trọng xuất khẩu 5 nhóm hàng chính trong xuất khẩu
hàng dệt kim của Việt Nam sang Nhật giai đoạn 2004-2006
44
Bảng 2.7
Tỷ trọng xuất khẩu 5 nhóm hàng chính trong xuất khẩu
hàng dệt thoi của Việt Nam sang Nhật giai đoạn 2004-2006
45
Bảng 2.8
Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Nhật Bản giai
đoạn 2004-2006
46
Bảng 2.9
Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ mã HS 9403 của Việt Nam sang
Nhật Bản
47
Bảng 2.10
Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Nhật giai
đoạn 2002-2006
48
Bảng 2.11
Tỷ trọng xuất khẩu 4 nhóm hàng chính trong xuất khẩu
rau của Việt Nam sang Nhật giai đoạn 2004-2006
49
Bảng 2.12
Tỷ trọng xuất khẩu 5 nhóm hàng chính trong xuất khẩu quả
50



của Việt Nam sang Nhật giai đoạn 2004-2006
Bảng 2.13
Tỷ trọng xuất khẩu quả trong xuất khẩu rau quả của Việt
Nam sang Nhật Bản
50
Bảng 2.14
Quy định của Nhật đối với các nhóm hàng thủy sản
52
Bảng 2.15
Phân loại sản phẩm dệt may nước ngoài nhập khẩu vào Nhật
57
Bảng 2.16
Thuế suất đối với 5 nhóm hàng dệt kim của Việt Nam
có kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lớn
58
Bảng 2.17
Thuế suất đối với 5 nhóm hàng dệt thoi của Việt Nam có kim
ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lớn
58
Bảng 2.18
Quy định về hàm lượng chất độc hại trong sản phẩm quần áo
dành cho em bé và trẻ em có xuất xứ từ Việt Nam
59
Bảng 2.19
Thuế suất đối với một số mặt hàng đồ gỗ nội thất
chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản
61
Bảng 2.20
Thuế suất đối với 4 nhóm hàng rau của Việt Nam

có kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lớn
64
Bảng 2.21
Thuế suất đối với 5 nhóm hàng quả của Việt Nam
có kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lớn
64



Bảng 3.1
Nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản giai đoạn 1995-2004
75
Bảng 3.2
Nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản giai đoạn 2002-2006
76
Bảng 3.3
Nhập khẩu đồ gỗ nội thất (mã HS 9403) của Nhật Bản giai
đoạn 2003-2006
76
Bảng 3.4
Nhập khẩu rau quả của Nhật giai đoạn 2002-2006
77




DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ





Trang
Hình 1.1
Nhãn thịt lợn hun khói
26
Hình 2.1
Sơ đồ khái quát quá trình kiểm dịch thực vật
66
Hình 2.2
Quy trình các thủ tục theo Quy định vệ sinh thực phẩm
68



1
LỜI MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nhật Bản là một trong các nền kinh tế lớn ở khu vực Châu Á -Thái Bình
Dương. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là một trong các thị trường xuất nhập
khẩu trọng điểm của Việt Nam. Năm 2006 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam và Nhật Bản đạt 9,9 tỷ USD. Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của hàng hoá Việt
Nam vào thị trường Nhật Bản nhìn chung vẫn còn yếu. Nguyên nhân chủ quan là
sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp Việt Nam
chưa cao. Về khách quan, Nhật Bản là thị trường có quy định nhập khẩu khắt khe,
đòi hỏi chất lượng hàng hoá cao, nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là đòi hỏi cao về
vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch nông sản, trong khi các mặt hàng mà Việt
Nam có thế mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản lại thuộc nhóm này. Vì vậy,
để có thể tăng cường xuất khẩu vào thị trường này, việc tìm hiểu các quy định về
nhập khẩu của Nhật Bản là việc làm hết sức cần thiết, cần được tiếp tục nghiên cứu.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Các quy định về nhập khẩu của
Nhật Bản và khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mối quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản
vào Việt Nam và viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ Nhật dành cho Việt
Nam đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu các quy định
nhập khẩu của thị trường Nhật Bản không nhiều. Trong đó có một quyển sách do
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) ấn hành là “Quy định nhập
khẩu hàng tiêu dùng vào Nhật” phát hành năm 2004, đề cập đến những quy định về
nhập khẩu của Nhật Bản với các nhóm hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, cuốn sách này
không tham khảo được với nhóm hàng nông sản và thủy sản Việt Nam - vốn là
những ngành mà Việt Nam lợi thế về điều kiện tự nhiên. Ngoài ra còn có cuốn sách


2
“Chính sách ngoại thương Nhật Bản thời kỳ tăng trưởng cao và toàn cầu hóa kinh
tế” của GS. TS. Bùi Xuân Lưu, giới thiệu về các tổng quát về hệ thống thuế quan và
các quy định phi quan thuế của thị trường Nhật Bản, nhưng cuốn sách này không đề
cập đến các quy định cụ thể cho từng nhóm ngành. Bên cạnh đó còn có một số bài
báo trên các báo và tạp chí của Việt Nam như “Thời báo kinh tế Việt Nam”,
“Thương mại”, “Đầu tư”, “Nghiên cứu kinh tế” cũng viết về thị trường Nhật Bản,
nhưng chỉ đề cập sơ qua đến quy định nhập khẩu cho các nhóm ngành, và ít thông
tin mang tính hệ thống. Ngoài ra, các sách và bài báo nêu trên chưa đưa ra các giải
pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm tìm hiểu và phân tích chính sách nhập khẩu của Nhật Bản nhằm
giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiểu rõ hơn về thị trường này và
khả năng xuất khẩu của Việt Nam, trên cơ sở đó đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của

Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nói trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu các quy định nhập khẩu của Nhật Bản và khả năng xuất khẩu
của Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng về xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, và thực trạng
về các quy định nhập khẩu của Nhật Bản đối với các mặt hàng của Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
vào thị trường Nhật Bản.
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu: Các quy định nhập khẩu của Nhật Bản.
Phạm vi nghiên cứu: Do giới hạn về thời gian và tài liệu nghiên cứu, đề tài
chỉ nghiên cứu tập trung vào những quy định về nhập khẩu đối với các nhóm hàng
có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, cụ
thể là nhóm hàng thuỷ sản, dệt may, đồ gỗ nội thất và nghiên cứu thêm một ngành


3
hàng có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Nhật là rau quả, và chỉ cập nhật các
dữ liệu khẩu từ năm 1995 trở lại đây.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được những mục đích và những nhiệm vụ nghiên cứu và trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: tổng hợp, phân tích, và một số phương pháp phụ trợ như là
phương pháp chuyên gia, thống kê toán học
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của luận
văn bao gồm:
Chương 1- Một số quy định về nhập khẩu của Nhật Bản.
Chương 2- Thực trạng về quy định nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng hoá

Việt Nam.
Chương 3- Khả năng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản.


4
Chƣơng 1
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ NHẬP KHẨU CỦA NHẬT BẢN

1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG NHẬT BẢN
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Nhật Bản là quốc đảo được hợp thành bởi trên 3900 hòn đảo nằm ở Tây Bắc
lòng chảo Thái Bình Dương, ở ngoài khơi Đông Á, gần với Nga, Trung Quốc và
Hàn Quốc. Đa số các đảo của Nhật đều rất nhỏ, trong đó có 4 hòn đảo chiếm tới
98% diện tích đất nước là Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku, trong đó đảo
Honshu chiếm 60% tổng diện tích. Diện tích đất liền của toàn bộ nước Nhật Bản
vào khoảng 378.000 km
2
, chiếm chưa đầy 0,3% tổng diện tích đất toàn thế giới.
Khí hậu: Các đảo Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu ôn hoà, nhưng khác nhau
giữa các miền, chủ yếu do các dòng khí lưu lục địa thổi từ phía tây bắc chi phối khí
hậu mùa đông và các dòng khí lưu đại dương thổi từ phía đông nam chi phối các
tháng mùa hè. Ở hầu hết các miền của Nhật Bản đều có 4 mùa rõ rệt. Mùa hè ấm và
ẩm, bắt đầu khoảng giữa tháng 7. Mùa xuân và mùa thu là những mùa tốt nhất trong
năm, khí hậu êm dịu và rực rỡ ánh mặt trời trên khắp đất nước.
Địa hình: Địa hình phức tạp của Nhật Bản khác hẳn với khí hậu tương đối
ôn hoà của nó. Các đảo Nhật Bản là một phần của dãy núi chạy dài từ Đông Nam
Á tới tận Alaska. Điều này tạo cho nước Nhật có một bờ biển dài, nhiều đá với
nhiều hải cảng nhỏ. Nó cũng tạo ra rất nhiều vùng núi có nhiều thung lũng, các con
sông chảy xiết, các hồ nước trong. Núi chiếm khoảng 71% tổng diện tích đất Nhật

Bản. Các dãy núi chạy dài chính giữa đất nước, chia Nhật Bản thành hai phía, một
phía ven Thái Bình Dương, và phía kia ven biển Nhật Bản. Nhật Bản cũng nằm
trong vành đai núi lửa của Châu Á, do vậy Nhật Bản thỉnh thoảng phải chịu ảnh
hưởng do núi lửa phun trào và ảnh hưởng của những trận động đất. Tuy nhiên,
những ngọn núi lửa mang lại cho Nhật Bản những suối nước nóng, tạo thành
những điểm nghỉ dưỡng tuyệt vời.


5
Đồng bằng và sông ngòi: Nhật Bản có nhiều sông, bắt nguồn từ dãy núi ở
chính giữa, và đổ ra biển. Do núi trải dài ra tận đường bờ biển nên sông ở Nhật
Bản thường ngắn và dòng chảy nhanh. Lưu lượng nước thay đổi theo mùa. Nhật
Bản có ba đồng bằng lớn là đồng bằng Kanto (13.000km
2
), đồng bằng Ishiga và
Nobi. Trong đó Kanto là đồng bằng rộng nhất và quan trọng nhất về mặt kinh tế.
Kanto chứa tới một phần tư dân số Nhật Bản và có hai thành phố lớn là Tokyo và
Yokohama.
Tài nguyên thiên nhiên: Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, do
vậy phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu từ nước ngoài. Về năng
lượng, Nhật Bản có cả than, dầu, khí đốt nhưng trữ lượng đều quá ít so với quy mô
của nền kinh tế. Tỷ trọng than nhập khẩu đã tăng từ 25,3% năm 1965 lên 97,2%
năm 1998. Nhật Bản hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nhập khẩu dầu mỏ từ
nước ngoài (trên 99%), chủ yếu nhập từ các nước Trung Đông (năm 1998 là
85,3%). Về khoáng sản, Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên khoáng sản, đặc biệt
là các loại quặng kim loại, quặng sắt và nhôm phải nhập khẩu 100% từ nước ngoài.
1.1.2. Tình hình Chính trị - Kinh tế
1.1.2.1. Chính trị
Theo hiến pháp năm 1947, Nhật Bản là nước theo thể chế quân chủ lập hiến,
trong đó Nhà Vua là biểu tượng của đất nước và sự thống nhất của dân tộc, là

nguyên thủ tượng trưng về mặt đối ngoại. Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam
quyền phân lập. Cơ quan lập pháp gồm 2 viện là Thượng viện với 242 ghế, được
bầu 6 năm một lần và Hạ viện với 480 ghế, được bầu 4 năm một lần. Cơ quan hành
pháp là Nội các và Tư pháp là Toà án. Ba cơ quan quyền lực này độc lập kiểm soát
và hỗ trợ nhau. Người đứng đầu Chính phủ Nhật Bản hiện nay là thủ tướng Shinzo
Abe (được bầu từ ngày 26/9/2006 với 339 ghế ở Hạ viện và 136 ghế ở Thượng
viện). Nội các do thủ tướng chỉ định.
Năm đảng phái chính trị lớn ở Nhật hiện nay là: Đảng Tự do Dân chủ (LDP -
hiện đang chiếm 111 ghế ở Thượng viện và 305 ghế ở Hạ viện), Đảng Dân chủ


6
(DJP - hiện đang chiếm 82 ghế ở Thượng viện và 113 ghế ở Hạ viện), Đảng Komei
(hiện đang chiếm 24 ghế ở Thượng viện và 31 ghế ở Hạ viện), Đảng Cộng sản
(JCP- chiếm 9 ghế ở Thượng viện và 9 ghế ở Hạ viện) và Đảng SDP (đang chiếm
6 ghế ở Thượng viện và 7 ghế ở Hạ viện) [1], [19].
1.1.2.2. Kinh tế
Nhật Bản là nước hết sức nghèo về tài nguyên trong khi dân số quá đông,
phần lớn tài nguyên thiên nhiên phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong
chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp và với ý chí vươn lên của người
dân, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ
(1955-1973). Từ năm 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại song Nhật Bản
tiếp tục là nước có tiềm năng lớn thứ hai trên thế giới về kinh tế, khoa học kỹ thuật,
tài chính, chỉ xếp sau Mỹ. Một đặc tính cơ bản của nền kinh tế Nhật là các nhà sản
xuất, người cung cấp và người phân phối đã kết hợp chặt chẽ với nhau trong một
thể thống nhất được gọi là Keireitsu. Một đặc trưng khác là chế độ thuê mướn lao
động suốt đời, làm cho người lao động trung thành gắn bó với công ty, cũng như
duy trì ổn định lực lượng lao động của công ty. Tuy nhiên, hai đặc trưng này đang
dần dần được thay đổi. Dưới đây là một số số liệu về nền kinh tế Nhật Bản.
Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, cụ thể là 4,6% ( tháng 10/2004), 4,2% năm 2005

và năm 2006 là 4,1%.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2003 là 5.566 tỷ yên (khoảng 4.300 tỷ
USD, đứng thứ hai thế giới sau Mỹ là 8.000 tỷ USD). Năm 2005 GDP của Nhậ
Bản là 4.799 tỷ USD, năm 2006 là 4.911 tỷ USD.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP năm 2001: -0,9%; 2002: 0,6%; 2003: 2,7%; năm 2004:
1,4%; năm 2005: 2,5% và năm 2006: 2,8%.
Tổng số nợ trong dân của chính phủ Nhật chiếm 140% (khoảng 6.500 tỷ USD)
cao nhất trên thế giới.
Tổng số nợ khó đòi 375 tỷ USD (tính đến tháng 7/2003), cơ bản đã được giải
quyết vào đầu năm 2006.


7
Dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 4/2006: 860 tỷ USD (đứng thứ 2 trên thế giới
sau Trung Quốc).
Xuất khẩu năm 2005 đạt 598,2 tỷ USD, năm 2006 đạt 590,3 tỷ USD. Mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu là phương tiện vận chuyển và linh kiện, bán thành phẩm,
máy móc điện tử, các loại hoá chất. Đối tác xuất khẩu chủ yếu là Mỹ: 22,9%;
Trung Quốc: 13,4%; Hàn Quốc: 13,4%; Đài Loan: 7,3% và Hồng Kông: 6,1%.
Nhập khẩu năm 2005 đạt 518,6 tỷ USD, năm 2006 đạt 524,1 tỷ USD. Mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu là: máy móc và linh kiện, nhiên liệu, lương thực thực phẩm,
hoá chất, sản phẩm dệt và nguyên liệu thô. Đối tác nhập khẩu chủ yếu là Trung
Quốc: 21%; Mỹ: 12,7%; Ả rập Xê út: 5,5%; Các tiểu vương quốc Ả rập: 4,9%;
Australia: 4,7% và Hàn Quốc: 4,7%.
Tỷ trọng các ngành kinh tế chính
Nông nghiệp
2,1%

Giao thông vận tải
6,3%

Công nghiệp
26,8%

Lưu thông
12,5%
Xây dựng
10,3%

Các ngành khác
37,9%
Sau thời kỳ kinh tế “bong bóng” 1986-1990, từ năm 1991 kinh tế Nhật Bản
phát triển ì ạch. Trong những năm 1992-1995 tốc độ tăng trưởng hàng năm chỉ đạt
1,4%, năm 1996 là 3,2% [1], [19].
Đặc biệt từ 1997 và nhất là từ đầu năm 1998 kinh tế Nhật bị lâm vào suy
thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau khủng hoảng dầu lửa năm 1974 đến nay với
những biểu hiện khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ, đồng Yên, chứng khoán
giảm giá mạnh, nợ khó đòi tăng cao, sản xuất trì trệ và tỷ lệ thất nghiệp hoàn toàn
đạt mức kỷ lục trong 45 năm (5,5% vào tháng 12/2002). Năm 1997, GDP thực chất
đạt -0,7%; năm 1998 là -1,8%. Cuộc suy thoái kinh tế lần này của Nhật chủ yếu
mang tính chất cơ cấu liên quan đến mô hình phát triển của Nhật đang bị thách
thức bởi một môi trường đã thay đổi. Vấn đề phục hồi kinh tế thông qua đẩy mạnh
cải cách cơ cấu kinh tế, tài chính, ngân hàng đang là một vấn đề cấp bách đặt ra
trước mắt đối với chính phủ Nhật Bản.


8
Nhật Bản đang xúc tiến chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ
cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ
cấu chính phủ…Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1/2001. Dù
diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không

thể đảo ngược ở Nhật Bản, và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh
tế Nhật đã phục hồi và tăng trưởng từ năm 2002. Năm 2006 tỷ lệ tăng trưởng GDP
của Nhật đạt 2,8%.
1.1.3. Tình hình Văn hoá - Xã hội
1.1.3.1. Dân số
Tính đến tháng 1/2006, dân số Nhật Bản là 127,74 triệu người, chủ yếu là
người Nhật Bản (chiếm trên 99% dân số). Nhật Bản là nước có tốc độ tăng dân số
thấp, đạt 0,02% năm 2006, và có cơ cấu dân số già. Năm 2006, tỷ lệ trẻ em dưới
14 tuổi chiếm 14,2% dân số, số người trong độ tuổi lao động (từ 15-64 tuổi) chiếm
65,7%, và người già từ 65 tuổi trở lên chiếm 20% dân số. Dự đoán đến năm 2015,
tỷ lệ người già từ 65 tuổi trở lên chiếm trên 25% dân số. Nhật Bản là nước có tuổi
thọ bình quân cao nhất thế giới, năm 1998 tuổi thọ bình quân của nam giới là 77,2
tuổi và nữ giới là 84 tuổi, đến năm 2006 con số này là 77,96 và 84,7 tuổi [19].
1.1.3.2. Đời sống gia đình
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn người Nhật sống trong những đại
gia đình gồm ba hoặc bốn thế hệ. Các quan hệ gia đình bị chế độ thứ bậc cứng
nhắc chi phối, và cha mẹ có quyền rất lớn. Tuy vậy, quá trình dân chủ hoá sau
chiến tranh đã làm thay đổi mọi khía cạnh của đời sống gia đình Nhật Bản. Đặc
biệt quan trọng là việc sửa đổi Luật Dân sự vào năm 1947, cho phép phụ nữ được
hưởng quyền hợp pháp bình đẳng với nam giới trong mọi mặt của cuộc sống, nhờ
đó đã loại bỏ được tính chất gia trưởng cũ của gia đình. Một trong những thay đổi
rõ nhất là ngày càng có nhiều người sống trong các gia đình hạt nhân chỉ gồm cha
mẹ và con cái. Xu hướng này càng mạnh lên bởi sự đô thị hoá và những phát triển
về kỹ thuật. Các gia đình mở rộng chiếm 44% tổng số các gia đình vào năm 1955,


9
nhưng đến năm 1991 giảm xuống chỉ còn 13,7%, trong khi đó các gia đình hạt
nhân đã lên tới 59,6% tổng số các gia đình vào năm 1991.
Một thay đổi quan trọng khác trong cuộc sống gia đình là việc giảm mạnh số

con sinh ra. Năm 1930, một phụ nữ Nhật trung bình sinh 4,7 con, nhưng con số
này đã giảm còn 3,6 vào năm 1950 và đến năm 2006 chỉ còn 1,4.
Lối sống của người Nhật đã thay đổi đáng kể do việc sử dụng rộng rãi các đồ
dùng gia đình hiện đại, việc mở rộng các ngành công nghiệp thực phẩm ăn liền và
đông lạnh, và sự sẵn có các loại quần áo may sẵn và các hàng thiết yếu hàng ngày
khác. Những điều tiện lợi này đã tạo cho các gia đình có nhiều thời gian dùng vào
việc giải trí, nâng cao trình độ giáo dục và hưởng thụ văn hoá.
1.1.3.3. Giáo dục
Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên, chỉ trừ một thứ, đó là con người. Hệ
thống giáo dục được xem như chìa khoá làm cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn
định về mặt chính trị. Việc đầu tư cho giáo dục có ý nghĩa lớn đối với đất nước.
Nhà nước đã nỗ lực để tạo lập ra một hệ thống giáo dục có thể đào tạo lực lượng
lao động có hiệu quả cao, đưa đất nước tiến tới hiện đại hoá. Ở cấp độ cá nhân,
người lao động Nhật Bản ngày nay được đánh giá chủ yếu dựa vào học vấn chứ
không phải địa vị gia đình, địa vị xã hội hay thu nhập.
Hệ thống giáo dục được phân thành 5 giai đoạn: Vườn trẻ (từ 1 đến 3 năm),
tiểu học (6 năm), trung học bậc thấp (3 năm), trung học bậc cao (3 năm) và đại học
(thông thường là 4 năm). Ngoài ra còn có các trường cao đẳng với các khoá học 2
hoặc 3 năm. Nhiều trường đại học còn mở các khoá nâng cao sau đại học.
Giáo dục phổ cập miễn phí cho tất cả trẻ em từ 6 đến 15 tuổi. Tuy vậy, tuyệt
đại đa số học sinh học hết các trường trung học bậc thấp đều tiếp tục học lên, và
trong thực tế các trường trung học bậc cao hiện đã trở thành bộ phận cơ bản trong
hệ thống giáo dục trẻ em.
Trình độ học vấn là một nhân tố quan trọng trong chế độ thuê người làm việc
suốt đời của Nhật Bản. Để có được một việc làm trong công ty hàng đầu cần phải
tốt nghiệp một trường đại học hàng đầu, và để đạt được điều đó thì lại phải tốt


10
nghiệp các trường trung học bậc cao và bậc thấp hàng đầu. Do sự cạnh tranh quyết

liệt trong các kỳ thi vào trường, nên ngày càng có nhiều sinh viên theo học các
trường “luyện thi” tư nhân. Những trường này được lập ra để dạy thêm và nâng
cao giúp các học sinh thi vào được các trường mà họ chọn, hiện có ở tất cả các cấp
học từ nhà trẻ cho đến các kỳ thi vào trường đại học.
1.1.3.4. Y tế và phúc lợi
Năm 1961 một hệ thống bảo hiểm xã hội công cộng toàn diện, kết hợp cả tiền
trợ cấp hưu trí lẫn bảo hiểm trên phạm vi cả nước đã được thiết lập ở Nhật Bản. Hệ
thống này đã mở rộng đáng kể vào năm 1970 do việc tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng, tạo ra những nhu cầu mới về bảo hiểm xã hội trong nhân dân. Hệ thống bảo
hiểm xã hội hiện nay của Nhật Bản bao gồm 5 bộ phận: tương trợ công cộng, dịch
vụ phúc lợi, bảo hiểm xã hội (chăm sóc sức khoẻ, hưu trí, trợ cấp con cái, bảo hiểm
thất nghiệp và bảo hiểm tai nạn lao động), y tế công cộng, trợ cấp và giúp đỡ của
nhà nước cho các nạn nhân chiến tranh. Mỗi bộ phận này lại gồm nhiều loại khác
nhau. Ví dụ chăm sóc sức khoẻ gồm có bảo hiểm sức khoẻ toàn quốc, bảo hiểm
sức khoẻ của nhân viên, bảo hiểm thuỷ thủ, các hội tương trợ của các nhân viên
chính phủ toàn quốc và địa phương, và bảo hiểm người già, trong đó chi phí bảo
hiểm được phân chia theo các loại bảo hiểm khác nhau. Trợ cấp hưu trí gồm có chế
độ hưu trí toàn quốc, trợ cấp hưu trí của nhân viên, bảo hiểm cho thuỷ thủ, và các
hội tương trợ của các nhân viên chính phủ và nhân viên thuộc các tổ chức nông,
lâm, ngư nghiệp.
1.1.4. Cách ứng xử trong công việc và tập quán kinh doanh
Cứ vào tháng tư hàng năm, các công ty lại tiếp nhận nhiều nhân viên mới, sau
đó tiến hành đào tạo để trở thành nhân viên thực sự của công ty. Hầu hết nhân viên
mới là sinh viên vừa tốt nghiệp vào tháng 3 năm đó nên chưa hề có kinh nghiệm.
Chính vì vậy việc đào tạo nhân viên được tiến hành một cách triệt để, kèm theo
nhiều quy định chặt chẽ, nhất là ở những công ty lớn có truyền thống lâu đời.
Trong nền kinh tế thị trường các công ty hoạt động với mục đích sinh lợi và
thông qua lợi nhuận thu được đó cống hiến cho toàn xã hội. Để duy trì mặt thống



11
nhất của tổ chức, có ý thức vì mục đích chung và tiến hành hiệu quả các hoạt động
kinh doanh, các công ty dù lớn hay nhỏ cũng ban hành rất nhiều quy định cụ thể từ
cách quyết định vấn đề, phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, cách thực thi cho đến đạo
đức của một nhân viên, giờ làm việc, trang phục, cách ứng xử giao tiếp với
khách…
Trong ngành sản xuất, vì phương pháp quản lý chất lượng là yếu tố quyết
định uy tín đối với khách hàng nên nó được quy định đến từng chi tiết về tiêu
chuẩn. Đương nhiên theo thời gian và sự thay đổi trong môi trường kinh doanh cần
có sự điều chỉnh cho phù hợp, nhưng phương pháp kinh doanh và sản xuất luôn là
vốn kinh nghiệm và trí tuệ quý báu được đúc kết qua quá trình lịch sử của công ty.
Trong thời gian thực tập ở bộ phận chuyên trách, nhân viên mới vào được giáo
dục ý tưởng và phương châm của công ty, đồng thời được chỉ bảo về những quy
định đối với một nhân viên. Sau thời kỳ sinh viên tự do, đây là giai đoạn giúp nhân
viên mời làm quen và có nhận thức mới như một thành viên của tổ chức theo chiều
dọc trong công ty [10].
1.1.4.1. Cách ứng xử qua điện thoại
Các công ty Nhật Bản có quan điểm cho rằng các ứng xử qua điện thoại
của nhân viên là một tiêu chuẩn để người ngoài đánh giá công ty, điều này
thậm chí còn ảnh hưởng đến cả sự thành bại trong công việc. Vì vậy, nhân
viên luôn được hướng dẫn phải có ý thức rằng mình là bộ mặt của công ty
khi gọi và nhận điện thoại.
Khi có điện thoại gọi tới, nhân viên phải cầm máy ngay trong vòng một hoặc
hai tiếng chuông và xưng tên công ty, không được để khách chờ. Khi gọi điện
thoại phải cố gắng nói ngắn gọn nội dung công việc để không làm mất thời gian
người mình đối thoại khi họ đang bận. Việc ghi trước những điểm cần nói là cách
sử dụng hiệu quả điện thoại ở nơi làm việc. Ngày nay, thư điện tử qua mạng máy
tính dần dần phổ cập làm cho công việc không bị gián đoạn bởi những tiếng
chuông điện thoại và có thể nhận thông tin tuỳ theo thời gian phù hợp với mình.
1.1.4.2. Giữ đúng hẹn



12
Nhân viên công ty luôn được yêu cầu phải giữ đúng hẹn, tuyệt dối không để
khách chờ. Việc đến trước giờ hẹn ít nhất 5 phút được coi là ý thức cơ bản đối với
người đã đi làm. Hẹn qua điện thoại trước khi đến thăm một công ty được coi là
phép lịch sự. Nếu vì lý do gì đó không thể đến đúng giờ hẹn thì phải gọi điện thoại
trước.
Tất nhiên, việc đến công ty đúng giờ là một nguyên tắc. Các nhân viên sợ bị
coi là người không nghiêm túc về thời gian nên nhiều khi thậm chí phải chạy cho
kịp giờ làm việc.
Giao hàng cho khách theo đúng thời gian quy định cũng là một nguyên tắc bất di
bất dịch. Công ty nào không kịp giao hàng đúng ngày quy định thì sẽ gây trở ngại cho
khách hàng, đánh mất sự tín nhiệm và khó nhận được các đơn hàng tiếp theo. Vì vậy,
các công ty Nhật phải tìm cách khắc phục tất cả mọi khó khăn để giữ đúng hẹn.
1.1.4.3. Coi trọng hình thức
Sự coi trọng hình thức được xem là một đặc điểm thể hiện văn hoá Nhật Bản.
Chú ý đến hình thức bên ngoài là phép lịch sự thể hiện việc giữ gìn phẩm chất con
người và đương nhiên được coi trọng trong môi trường kinh doanh. Trang phục
khác nhau tuỳ theo từng ngành và từng loại công việc, những người làm công việc
giao dịch phải đặc biệt lưu ý đến vấn đề này khi làm ăn với người Nhật. Việc gây
ấn tượng gọn gàng và cảm giác sạch sẽ bằng trang phục phù hợp với hoàn cảnh
công việc được cho là có ảnh hưởng quan trọng đến uy tín của cá nhân và sau đó là
uy tín của công ty. Trong giáo dục và đào tạo nhân viên, không ít công ty của Nhật,
ngay cả công ty không thuộc ngành dịch vụ còn hướng dẫn chi tiết từ trang phục
đến cả cách để đầu tóc, móng tay.
Một đặc điểm của xã hội Nhật Bản là việc sử dụng phổ biến comple và cà vạt.
Ngay cả đến những người lao động không làm việc trong văn phòng hay kinh doanh
cũng mặc comple, thắt cà vạt đi làm. Sau khi đến chỗ làm, họ thay trang phục, mặc quần
áo lao động và khi công việc kết thúc, họ lại mặc comple trở về nhà.

Cách làm của người Nhật là "xuất phát từ hình thức", có nghĩa là bắt đầu từ
việc hoàn thiện hình thức, sau đó tiếp tục cụ thể hoá nội dung. Người Nhật "cất"


13
công việc trong ngăn kéo cho đến khi đạt được hình thức ở mức mong muốn mới
tiến hành. Sự coi trọng hình thức không chỉ được thể hiện qua cách ăn mặc mà còn
qua nhiều yếu tố khác như tài liệu giấy tờ, văn thư, sổ kế toán cũng như cách đón
tiếp khách hàng của công ty [10].
1.1.4.4. Con dấu và danh thiếp
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật tiên tiến, rất nhiều phương tiện phục vụ
cho kinh doanh như điện thoại di động, máy tính xách tay, máy fax, scan…cũng
dần dần phổ cập, song vẫn có những thứ luôn giữ vị trí quan trọng. Đó là danh
thiếp và con dấu.
Người nước ngoài thường cho rằng con dấu dễ bị làm giả hơn chữ ký bằng
tay và hoài nghi không biết có cách nào để phân biệt thật giả, nhưng Nhật Bản quy
định đóng dấu trên các văn bản chính thức chứ không dùng chữ ký.
Con dấu của cá nhân có hai loại: con dấu chính thức được đăng ký ở cơ quan
hành chính, có hiệu lực pháp lý, dùng trong các trường hợp quan trọng như hợp
đồng và con dấu thông thường đơn giản hơn, mang tính thường dụng. Trong cuộc
sống hàng ngày, con dấu thường được sử dụng khi nhận hàng gửi nhanh, hàng gửi
đảm bảo qua bưu điện hoặc được dùng trong các văn bản lưu hành nội bộ.
Không ít doanh nhân nước ngoài nêu tầm quan trọng của danh thiếp trong xã
hội Nhật Bản. Khi chào hỏi làm quen lần đầu tiên bao giờ người Nhật cũng trao
đổi danh thiếp, từ đó bắt đầu quan hệ. Người Nhật nhìn danh thiếp, nhận biết tên
công ty và chức vụ của người đối thoại để qua đó thể hiện thái độ và sử dụng kính
ngữ phù hợp với địa vị của người đó.
1.1.4.5. Thoả thuận kinh doanh
Việc trao đổi kinh doanh không nhất thiết phải tiến hành ở văn phòng. Phần
nhiều thoả thuận diễn ra tại văn phòng, song có không ít những cuộc thoả thuận

được tiến hành dưới hình thức những bữa ăn tối. Có khi người Nhật vừa chúc
rượu vừa bàn bạc chuyện kinh doanh đến tận những chi tiết cụ thể, bữa ăn tối
cũng còn là dịp để trao đổi thông tin. Những dịp như thế này kéo dài từ chiều đến
tối, ranh giới không rõ ràng là trong hay ngoài giờ làm việc, vậy mà không mấy


14
người Nhật thắc mắc về điều này. Tập quán này đã làm cho các quán ăn của Nhật
phát triển mạnh.
Chi phí cho những cuộc tiếp đãi như vậy được coi là chi phí cần thiết, ghi
trong mục “chi phí giao tiếp” hay “chi phí tiếp đãi”. Chi phí này cũng được Sở
thuế chấp nhận không đánh thuế trong giới hạn một khoản nhất định, điều đó cho
thấy tập quán này được xã hội Nhật Bản thừa nhận.
Ngoài ra, vào hai dịp hè và đông trong năm, người Nhật có tập quán bày tỏ
lòng biết ơn của mình về sự giúp đỡ thường ngày dưới hình thức như “quà tặng
giữa năm” (Chugen) và “quà tặng cuối năm” (Seibo). Việc tặng quà này không chỉ
giữa các cá nhân mà cả giữa các công ty với nhau và chi phí này cũng nằm trong
chi phí kinh doanh [10].
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
1.2.1. Hệ thống thuế quan
1.2.1.1. Thuế quan Nhật Bản
Năm 1955, Nhật Bản là thành viên của Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT). Năm 1970, việc kiểm soát thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng đã
được Nhật Bản xoá bỏ. Năm 1980, ngoài các sản phẩm nông nghiệp và một số sản
phẩm công nghệ cao, hầu hết các rào cản thuế quan đã được Nhật Bản gỡ bỏ. Nhật
Bản sử dụng hệ thống phân loại HS.
Các mức thuế nhập khẩu mà Nhật Bản đang áp dụng
(a). Mức thuế ƣu đãi theo các Hiệp định tự do thƣơng mại song phƣơng
được ký kết giữa Nhật Bản và Singapore (có hiệu lực ngày 30/11/2002); giữa Nhật
Bản và Mexico (có hiệu lực ngày 1/4/2005); giữa Nhật Bản và Malaysia (có hiệu

lực ngày 13/7/2006). Mức thuế này được áp dụng cho các hàng hóa trong danh
mục đối tượng của Hiệp định. Các mặt hàng khác sẽ áp dụng mức thuế (d).
(b). Mức thuế ƣu đãi dành cho các nƣớc chậm phát triển (LDC): Những
mặt hàng nằm trong danh mục ưu đãi thuế quan chung dành cho các nước đang
phát triển, và các mặt hàng nằm trong danh mục ưu đãi thuế dành cho các nước
chậm phát triển được miễn thuế. Những mặt hàng nằm ngoài hai danh mục này sẽ
áp dụng mức thuế (d)


15
(c). Mức thuế ƣu đãi chung: dành cho các nước đang phát triển. Áp dụng với
những mặt hàng nằm trong danh mục ưu đãi thuế quan chung dành cho các nước đang
phát triển. Những mặt hàng nằm ngoài danh mục này sẽ áp dụng mức thuế (d)
(d). Mức thuế dành cho các nƣớc thành viên của WTO, mức thuế dành
cho các nƣớc đƣợc hƣởng ƣu đãi thuế tối huệ quốc theo hiệp định giữa chính
phủ Nhật Bản và chính phủ nước đó. Đây là mức thuế được xác định trên cam kết
WTO và các hiệp định quốc tế khác.
Đối với với các mặt hàng đồng thời nằm trong danh mục thuế theo hiệp định
và thuế tạm thời thì áp dụng mức thuế thấp hơn giữa hai mức thuế này.
Đối với mặt hàng nằm trong danh mục thuế theo hiệp định nhưng không nằm
trong danh mục thuế tạm thời thì áp dụng mức thuế thấp hơn giữa mức thuế theo
hiệp định và mức thuế chung.
Đối với mặt hàng nằm ngoài danh mục thuế theo hiệp định thì áp dụng mức
(e) hoặc (f).
(e). Mức thuế tạm thời: được quy định theo Luật thuế tạm thời. Đây là mức
thuế mang tính tạm thời được áp dụng thay cho mức thuế cơ bản trong một thời
gian nhất định trong trường hợp khó áp dụng mức thuế cơ bản. Nếu mức thuế tạm
thời thấp hơn tất cả các mức thuế còn lại thì áp dụng mức thuế tạm thời.
(f). Mức thuế cơ bản: là mức thuế cơ bản căn cứ theo Luật thuế quan Nhật
Bản, được áp dụng trong một thời gian dài (nhưng không áp dụng với các nước

thành viên của WTO). Trong trường hợp mức thuế tạm thời nhỏ hơn mức thuế
chung thì áp dụng mức thuế tạm thời.
Ngoài thuế nhập khẩu, hàng nhập khẩu phải đóng 5% thuế tiêu thụ thông
thường, được áp dụng đối với tất cả mặt hàng bán tại Nhật Bản. Loại thuế này phải
được thanh toán ngay khi khai báo hải quan hàng nhập khẩu. Thuế tiêu thụ được
tính trên trị giá CIF của hàng nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Bao bì được
miễn thuế nếu chúng chứa một lượng hàng ít hơn 10.000 yên.
1.2.1.2. Chế độ thuế quan đặc biệt


16
Ngoài các loại thuế và mức thuế suất trên đây, Nhật Bản còn ban hành ba
loại thuế đặc biệt. Đó là:
Thuế khẩn cấp: là loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu để bảo vệ kịp thời ngành
sản xuất trong nước trong trường hợp có sự tăng nhanh nhập khẩu do giá hàng
hóa nước ngoài quá rẻ.
Thuế đối kháng: là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu để đối lại các
nhà sản xuất và xuất khẩu nước ngoài được hưởng trợ cấp của chính phủ. Các
loại thuế đối kháng chỉ có thể được sử dụng với một số điều kiện hạn chế và
khi có thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước.
Thuế chống phá giá: là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu, khi một
công ty nước ngoài bị coi là bán hàng hóa của mình tại Nhật ở mức giá thấp
hơn giá thành hay thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó tại nước xuất
khẩu.
Nhìn chung, Nhật Bản đã có đạo luật rõ ràng về việc áp dụng quy chế thuế
quan đặc biệt để bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất nội địa mỗi khi có thiệt hại
thật sự do việc bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu của nước ngoài [12]
1.2.1.3. Hệ thống ưu đãi thuế quan
Hệ thống ưu đãi phổ cập là kết quả của cuộc đàm phán liên chính phủ được
tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc

(UNCTAD). Mục đích của hệ thống này là tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy
công nghiệp hóa và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ở các nước đang phát triển bằng
việc giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu ở các nước này.
Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) của Nhật Bản có hiệu lực từ ngày 1/8/1971,
dựa trên Hiệp ước của UNCTAD năm 1970. Thuế GSP thường thấp hơn thuế ưu
đãi tối huệ quốc (MFN) từ 10 đến 100%. Hiện nay Nhật Bản giành chế độ GSP
cho 142 nước và 15 vùng lãnh thổ, trong đó có 50 nước được hưởng ưu đãi thuế
dành cho các nước chậm phát triển (tham khảo phụ lục 1). Việt Nam cũng nằm
trong danh sách các nước và vùng lãnh thổ được hưởng chế độ GSP.


17
Theo chế độ GSP, với các mặt hàng nông sản và hải sản (từ chương 1 đến 24
trong hệ thống HS), Nhật Bản dành ưu đãi cho 339 mặt hàng với thuế suất thấp
hơn thuế suất WTO từ 10% đến 100% và không giới hạn hạn ngạch. Tuy nhiên,
nếu việc công nhận quy chế ưu đãi cho một sản phẩm gây ảnh hưởng xấu tới
ngành sản xuất trong nước thì một quy định ngoại lệ sẽ được đưa ra để tạm hoãn
quy chế ưu đãi cho sản phẩm này.
Hầu hết sản phẩm công nghiệp (chương 25 đến 97 trong hệ thống HS) được
hưởng ưu đãi không chịu thuế nhập khẩu trừ 118 mặt hàng không được hưởng ưu
đãi gồm: muối, dầu thô, gelatin, đồ da, lông cừu, dê, thỏ và các sản phẩm từ lông,
gỗ dán, kén tằm, lụa thô, sợi lụa, vải lụa, sợi bông và sản phẩm dệt, giày và các bộ
phận của giày…và 78 hạng mục (1.264 mặt hàng) nhạy cảm với mức thuế suất
20%, 40%, 60% hoặc 80% so với thuế suất MFN, có hạn ngạch trần được tính cho
mỗi năm tài chính.
Để hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia được hưởng GSP, chúng phải được
công nhận là có xuất xứ tại nước đó theo tiêu chuẩn xuất xứ của chế độ GSP Nhật
Bản và được vận chuyển đến Nhật Bản theo tiêu chuẩn về vận tải.
Tiêu chuẩn về vận tải (vận chuyển thẳng) là để đảm bảo hàng hóa được giữ
nguyên tính chất và không bị thay đổi hay chế biến trong quá trình vận chuyển từ

nước được hưởng GSP tới Nhật. Tuy nhiên, đối với hàng hóa được vận chuyển qua
lãnh thổ nước khác thì được hưởng ưu đãi nếu chỉ là chuyển tàu hay lưu kho tạm
thời do yêu cầu vận tải tại khu vực ngoại quan dưới sự giám sát của hải quan.
Tiêu chuẩn về xuất xứ: hàng hóa phải có xuất xứ toàn bộ tại quốc gia được
hưởng. Nghĩa là hàng hóa đó có nguồn gốc toàn bộ tại nước được hưởng hoặc có
thành phần nguyên liệu nhập khẩu nhưng đã qua quá trình gia công tái chế cần
thiết (sản phẩm cuối cùng nằm trong hạng mục khác với những hạng mục của
nguyên vật liệu nhập khẩu trong biểu thuế quan chung và tỷ trọng tối đa nguyên
vật liệu nhập khẩu là 40%-50% giá FOB).
Ngoài ra còn hai quy tắc khác là quy tắc cộng gộp và quy tắc bảo trợ: Quy
tắc cộng gộp cho phép rằng hàng hóa có xuất xứ từ bất kỳ một nước nào trong một


18
khối nước cũng được coi là xuất xứ từ nước khác trong khu vực khi khu vực đó có
thỏa ước với Nhật Bản. Hàng hóa Việt Nam có nguyên liệu thô nhập khẩu từ các
nước ASEAN khác sẽ được coi là có xuất xứ Việt Nam. Quy tắc bảo trợ áp dụng
cho những nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật vào nước được hưởng và dùng để sản
xuất hàng hóa xuất khẩu sang Nhật.
1.2.2 Các quy định phi thuế quan
1.2.2.1. Các quy định hạn chế số lượng
a. Quy định của Nhật Bản về các mặt hàng không được phép nhập khẩu
Theo quy định trong mục 1 khoản 8 điều 69 của Luật Thuế quan Nhật Bản,
các mặt hàng gây hại đến an ninh quốc phòng Nhật Bản, các mặt hàng làm ảnh
hưởng đến thuần phong mỹ tục, các mặt hàng vi phạm bản quyền sẽ không được
phép nhập khẩu vào Nhật Bản. Cụ thể là các loại hàng sau không được phép nhập
khẩu vào Nhật Bản.
Thuốc phiện và những chất gây nghiện khác, những thiết bị để sản xuất thuốc
phiện, chất kích thích và chất kích thích thần kinh ( trừ những loại được chỉ
định của Bộ Y tế Lao động và Phúc lợi).

Vũ khí, đạn dược và những phụ tùng vũ khí
Các chất gây nổ, thuốc súng.
Các hoạt chất dùng để sản xuất vũ khí hóa học.
Các vi trùng, mầm bệnh, chất dùng để sản xuất vũ khí sinh học.
Tiền xu, tiền giấy, chứng khoán, thẻ tín dụng giả, làm thay đổi hoặc bắt
chước.
Sách, tranh,tác phẩm điêu khắc hoặc bất kỳ mặt hàng khác có hại đến an ninh
công cộng và giá trị đạo đức.
Sách, tranh ảnh khiêu dâm trẻ em.
Những mặt hàng vi phạm quyền về sáng chế, thiết kế, kiểu mẫu sử dụng, tên
thương mại, quyền tác giả [24].
b. Quy định của Nhật Bản về hạn ngạch số lượng

×