Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Một số rào cản về pháp luật của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.11 KB, 36 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường Mỹ với dung lượng nhập khẩu khổng lồ nhiều chủng loại hàng
hóa là một thị trường mà bất kỳ một nước xuất khẩu nào cũng muốn hướng
tới. Thị trường Mỹ đã và đang là thị trường chủ yếu và mục tiêu của nhiều
nước.
Kể từ khi Mỹ tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam từ năm 1995
cho đến nay, quan hệ Việt – Mỹ đã có những bước tiến vượt bậc. Trong hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam, Mỹ đang ngày càng trở thành đối tác chiến
lược quan trọng. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ không ngừng tăng trong
lên trong những năm qua. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký
kết đã nâng quan hệ thương mại giữa hai nước lên một tầm cao mới, mở ra cơ
hội mới cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy vậy trên thực tế, tốc độ phát
triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chưa tương xứng với những
tiềm năng và lợi thế cho thấy vẫn còn rất nhiều rào cản, hạn chế mà phía Việt
Nam chưa thể khắc phục. Thêm vào đó qua nhiều vụ tranh chấp lớn xảy ra
trong thời gian gần đây như vụ catfish, cà phê Trung Nguyên…chúng ta đã có
thể nhận diện được những rào cản chủ yếu. Vấn đề đặt ra cho phía Việt Nam
là làm sao khắc phục vượt qua những rào cản ấy để xuất khẩu vào thị trường
Mỹ một cách hiệu quả nhất.
Trong số các rào cản đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
thì rào cản về luật pháp là phức tạp nhất và có tác động rất lớn đến hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam. Những rào cản này hiện nay không chỉ tồn tại trên lý
thuyết mà đang ngày càng hiện rõ, phát tác trong thực tế, cản trở trực tiếp việc
thâm nhập thị trường Mỹ của doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam. Thực
trạng này đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng
nhận thức rõ những rào cản đó, để từ đó có những giải pháp đối phó phù hợp.
Đây cũng chính là lý do khiến em chọn đề tài: “ Một số rào cản về pháp luật
của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này” làm
đề tài cho đề án môn học của mình.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong điều kiện giới hạn về thời gian cũng như nhận thức, bài nghiên cứu
của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận ý kiến
đóng góp, đánh giá của thầy để bản đề án của em được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ một số rào cản về pháp luật của Mỹ đã
gây khó khăn như thế nào cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường này
• Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích một số rào cản về pháp luật đối với hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Các rào cản về pháp luật đối với hoạt động xuất khẩu
• Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống pháp luật về thương mại của Mỹ và hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam
4. Kết cấu của đề tài
Đề án em thực hiện ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục phụ bao gồm 3
chương với nội dung cụ thể như sau:
• Chương 1: Một số rào cản về pháp luật của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường này.
• Chương 2: Phân tích một số rào cản về pháp luật của Mỹ đối với hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.
• Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp vượt qua rào cản về luật pháp để
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: MỘT SỐ RÀO CẢN VỀ PHÁP LUẬT CỦA MỸ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG
NÀY

1. Tìm hiểu về thị trường Mỹ và tầm quan trọng của thị trường Mỹ đối với
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
1.1. Tổng quan về thị trường Mỹ
1.1.1. Đặc trưng của thị trường Mỹ
Một điều dễ dàng nhận thấy là thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm
năng mà bất cứ một nước xuất khẩu nào cũng muốn hướng đến. Với quy mô
dân số vào khoảng 280 triệu người và thu nhập bình quân đầu người ước tính
hiện nay vào khoảng 32.000 USD, với một nhu cầu nguyên nhiên liệu khổng
lồ cho việc phát triển nền công nghiệp trong nước, thị trường Mỹ được xem là
thị trường có sức tiên thụ lớn nhất trong các nước phát triển. Hàng năm kim
ngạch nhập khẩu của Mỹ là vào khoảng 900 tỷ đôla (số liệu năm 2000).
Thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng rất đa dạng và không quá khó
tính như thị trường Tây Âu và Nhật Bản. Hàng nhập khẩu vào Mỹ đa dạng về
chủng loại do nhu cầu tiêu dùng khác nhau của các nhóm người, các chủng
tộc và do cơ cấu đa dạng, nhiều ngành nghề của nền kinh tế Mỹ. Mỹ nhập
khẩu đủ loại hàng từ hàng nông sản cho đến các sản phẩm tinh vi hiện đại, từ
nguyên nhiên liệu cho đến thành phẩm. Hàng nhập khẩu vào Mỹ cũng rất linh
hoạt về chất lượng vì dân Mỹ có mức thu nhập rất khác nhau. Chính nhờ vậy
mà hàng nhập khẩu có thể dễ dàng tiếp cận thị trường Mỹ để phục vụ cho các
phân đoạn thị trường khác nhau.
1.1.2. Tìm hiểu về luật pháp nước Mỹ
Đặc điểm nổi bật của hệ thống luật pháp Mỹ là tính đa dạng và phức tạp.
Luật pháp Mỹ bao gồm hệ thống luật pháp liên bang và luật pháp tiểu bang.
Bản thân luật liên bang của Mỹ đã bao gồm rất nhiều quy định khác nhau,
mỗi bang của Mỹ lại có hệ thống quy chế luật riêng và tự tập hợp các quyết
định đã công bố của họ. Luật pháp các tiểu bang quy định về từng trường hợp
cụ thể không giống nhau, điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nhân
nước ngoài khi làm ăn trực tiếp với đối tác Mỹ .
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nói đến luật pháp Mỹ, không thể không nói đến tính phổ thông, yếu tố tình
huống trong luật pháp. Luật pháp Mỹ là tiêu biểu cho một trong các hệ thống
luật chính trên Thế giới là hệ thống Common Law- Luật bất thành văn.
Theo đó việc giải quyết đối với từng trường hợp cụ thể phụ thuộc rất nhiều
vào các quyết định của toà án trong việc giải thích những quy chế luật pháp
của Mỹ. Đây là một trong các yếu tố khiến cho hệ thống luật pháp Mỹ vô
cùng phức tạp, khó hiểu và khiến cho vai trò của các luật sư trở nên thiết yếu
trong các cuộc giao dịch giữa đối tác là người nước ngoài và doanh nhân Mỹ.
Khi làm ăn với đối tác Mỹ, các nhà kinh doanh nước ngoài cần nắm những
luật sau:
- Luật Công ty của các tiểu bang
- Luật Thuế (Tax Law)
- Luật Chống độc quyền (Anti- Trust Laws)
- Luật Bảo đảm năm 1933 và Luật Bảo đảm của các tiểu bang.
- Luật Quy định về Lao động và hưu trí (Labour and Pension Law)
- Luật Môi trường (Environmental Law)
- Quy định về Đầu tư nước ngoài (Regulation of Foreign Investment)
Và một số đạo luật quan trọng :
+ Luật Clayton của Liên bang (The Federal Clayton Act)
+ Luật Sherman (Sherman Act)
+ Luật Chống độc quyền Hart Scott- Rodino năm 1976 (the Scott- Rodino
Anti- Trust Improvement Act of 1976).
• Luật được sử dụng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu :
- Luật Thương mại năm 1974
- Luật Thuế suất năm 1930
- Luật về Thương mại và Thuế suất 1984
- Luật tổng hợp về Thương mại và Cạnh tranh năm 1988
- Luật Quản lý Xuất khẩu năm 1979,...
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Có thể thấy chỉ riêng hệ thống văn bản luật của Mỹ rất phức tạp cũng đủ
gây nhiều khó khăn cho doanh nhân nước ngoài. Thêm vào đó, luật Mỹ chủ
yếu lại là án lệ (case law) mà thực tế các án lệ ở các nơi lại rất khác nhau và
vô cùng phong phú nên việc nắm bắt được hết các án lệ là một điều không
tưởng. Vì thế, khi muốn kinh doanh trên đất Mỹ, nhất thiết thương nhân nước
ngoài cần phải có sự tư vấn, hỗ trợ của các luật sư.
1.2. Vai trò của Mỹ đối với nền kinh tế thế giới và hoạt động kinh tế đối
ngoại của Việt Nam.
1.2.1. Đối với nền kinh tế thế giới
Trật tự thế giới hiện nay là trật tự nhất siêu đa cực trong đó Mỹ là siêu
cường duy nhất. Mỹ luôn giữ vị trí bá chủ trên thế giới về kinh tế cũng như
chính trị quân sự. Nền kinh tế khổng lồ và hết sức năng động của Mỹ tạo cho
Mỹ một vị thế hàng đầu vững chắc và một tiếng nói có trọng lượng trong mọi
mối quan hệ quốc tế. Cụ thể là: nền kinh tế Mỹ hiện nay chiếm khoảng 1/3
GDP toàn cầu và khoảng ½ mức tăng trưởng nhập khẩu của cả thế giới. Mỹ
đồng thời là nước có giá trị FDI ra nước ngoài nhất nhì thế giới. Đồng USD –
đồng tiền của Mỹ luôn là đồng tiền mạnh nhất thống trị các quan hệ giao dịch
thương mại, đầu tư và các quan hệ kinh tế khác trên thế giới. Nền công nghệ
Mỹ là một nền công nghệ hiện đại luôn ở vị trí dẫn đầu và đồng thời Mỹ cũng
là nước chuyển giao công nghệ nhiều nhất trên thế giới.
Một vài nét đó cũng đủ cho thấy sức mạnh kinh tế Mỹ và tiềm năng to lớn
của nó. Hơn nữa vai trò chi phối của nền kinh tế Mỹ đối với thế giới, đặc biệt
là đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có được không chỉ nhờ quy
mô khổng lồ của nó mà quan trọng hơn là nhờ vào quan hệ mật thiết của nền
kinh tế Mỹ đối với nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong lịch sử Mỹ đã dựa
vào thế mạnh tuyệt đôi của mình để thành lập hoặc tham gia thành lập một số
tổ chức kinh tế và chính trị mà trong đó Mỹ giữ vai trò khống chế, chẳng hạn
như: Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO, Qũy tiền tệ thế giới IMF,
Ngân hàng thế giới WB.
Vì thế, bất kỳ động thái nào của nước Mỹ cũng có ảnh hưởng nhất định đến

cục diện toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung, từ đó ít nhiều cũng có tác
động đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. Điều này có thể thấy rõ qua một số
cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và đặc biệt là vụ khủng bố xảy ra vào
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
11/9/2001 ở Mỹ đã khiến nền kinh tế thế giới biến động mạnh trong một thời
gian dài.
1.2.2. Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam
Nhân dịp kỷ niệm 15 năm quan hệ Việt – Mỹ , Bộ trưởng Bộ Công
Thương Vũ Huy Hoàng đã nêu những đánh giá của mình về mối quan hệ kinh
tế thương mại giữa Việt Nam và Mỹ trong thời gian qua.
Theo ông, với việc Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn cho Việt Nam vào cuối năm 2006, quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai
nước đã được bình thường hóa hoàn toàn. Trong những năm qua, quan hệ này
đã phát triển rất tốt đẹp. Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam.
Năm 2009, mặc dù, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ giảm mạnh do tác động của
khủng hoảng tài chính, song xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vẫn ước đạt
khoảng 12,5 tỷ USD, tương đương với khoảng 21% tổng kim ngạch xuất khẩu
của ta. Hiện nay, Mỹ là một trong những nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
Nhiều tập đoàn, công ty lớn của Mỹ như Intel, IBM, Citi Group, Coca
Cola, Pepsi Cola, Chevron, AES... đã hiện diện tại Việt Nam. Tuy nhiên, xuất
khẩu của ta sang Mỹ vẫn còn gặp nhiều khó khăn do chưa được hưởng ưu đãi
thuế quan phổ cập chung dành cho các nước đang và kém phát triển (GSP)
cũng như một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta đang phải chịu thuế
chống bán phá giá của Mỹ như cá tra, cá basa và tôm…Túi PE đựng hàng của
ta cũng đang bị Mỹ điều tra bán phá giá.
Khi đánh giá về vị thế của thị trường Mỹ trong chiến lược phát triển kinh tế
thương mại của Việt Nam trong thời kỳ tới ông cho rằng: Mỹ chắc chắn vẫn
là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế-

thương mại của Việt Nam. Đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu rất lớn và
đa dạng, nhất là đối với những mặt hàng mà ta đang và có tiềm năng xuất
khẩu lớn như dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủy sản, điện tử, điện và gia công cơ
khí.
Mỹ được đánh giá là một trong những đối tác đầu tư có tiềm năng lớn nhất
mà ta cần phải thu hút. Các doanh nghiệp Mỹ rất mạnh về vốn và công nghệ,
đặc biệt là các công nghệ nguồn và cao. Những lĩnh vực mà các doanh nghiệp
Mỹ có lợi thế cạnh tranh đầu tư ở Việt Nam gồm các dịch vụ tài chính, ngân
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng, bảo hiểm, công nghệ cao, hóa dược, năng lượng, cơ khí chế tạo và cơ sở
hạ tầng.
2. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ
2.1. Tình hình chung.
Theo số liệu mới công bố của Bộ Thương mại Mỹ cho biết trong bốn tháng
đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ đạt hơn năm
tỷ USD, tăng hơn 17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đạt 4,1 tỷ USD, tăng hơn 13%;
và nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD, tăng 33,4%. Việt Nam
đứng thứ 27 trong các nước xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ.
Trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt
kim ngạch 1,7 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2009, chiếm hơn 6%
thị phần nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Mức tăng trưởng này nằm trong
bối cảnh chung là sức mua hàng dệt may của thị trường Mỹ đã được cải thiện,
tăng hơn 6% so với cùng kỳ năm 2009.
Đứng thứ hai về giá trị xuất khẩu vào Mỹ trong 4 tháng đầu năm là nhóm
đồ gỗ và nội thất với kim ngạch đạt 522 triệu USD, tăng hơn 25% so với cùng
kỳ năm ngoái; trong đó, đồ gỗ nội thất đạt 509,8 triệu USD, tăng 25,3%; và
các sản phẩm đồ gỗ khác đạt khoảng 12 triệu USD, tăng gần 32%. Việt Nam
vẫn giữ vị trí thứ tư trong các nước xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Mỹ.

Tiếp theo là xuất khẩu giày dép đạt giá trị 468,8 triệu USD, tăng 1,9% so
với cùng kỳ năm 2009, thấp hơn mức tăng trưởng nhập khẩu giày dép nói
chung của Mỹ (3,8%), song vẫn ở vị trí thứ hai trong số các nước xuất khẩu
giày dép vào Mỹ, sau Trung Quốc.
Cũng giống như đối với mặt hàng dệt may, Indonesia và Mexico là hai đối
thủ cạnh tranh đáng lưu ý với các mức tăng trưởng tương ứng là 34,9% và
28,3%.
Trong 4 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu hàng nông sản đạt 224 triệu USD,
tăng hơn 15%, đứng thứ tư về giá trị trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
của Việt Nam sang Mỹ.Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản đạt 190,5
triệu USD, tăng trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Việt Nam tiếp tục đứng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vị trí thứ sáu trong số 10 nước xuất khẩu thủy sản chủ yếu sang Mỹ. Trong số
nhóm qhàng này, cá tra và basa tăng cao trong tháng 4, đạt 3.342 tấn với kim
ngạch đạt hơn 44 triệu USD (tăng 18,7%).
Nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ trong 4 tháng đầu năm đạt hơn 1 tỷ USD,
tăng 33% so với cùng kỳ năm 2009 do tăng nhập khẩu một số mặt hàng chủ
yếu. Nhập khẩu phế liệu từ ngành công nghiệp thực phẩm và thức ăn gia súc
đạt giá trị 169 triệu USD; thịt và nội tạng làm thực phẩm 116,8 triệu USD; lò
phản ứng và máy móc thiết bị cơ khí 112 triệu USD; phương tiện giao thông
74 triệu USD; bông vải sợi 57 triệu USD; và đồ gỗ 55 triệu USD.
Thương vụ Việt Nam tại Mỹ ước tính tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ năm 2010 tăng ở mức khoảng 15% so với năm 2009, ước đạt
hơn 14 tỷ USD.
2.2. Nhận xét.
Những thành tựu đạt được trong quan hệ Thương mại Việt – Mỹ đặc biệt là
việc ký kết và thực thi Hiệp định thương mại song phương đã thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ vượt bậc. Tuy nhiên trên
thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị

trường Mỹ tăng với tốc độ khá nhanh song về số tuyệt đối lại không lớn. Nếu
so với dung lượng nhập khẩu vô cùng lớn và những thuận lợi tiềm năng trong
quan hệ thương mại giữa hai nước thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn
chỉ là các con số hết sức khiêm tốn. Các mặt hàng xuất khẩu tuy nhiều nhưng
khối lượng và kim ngạch quá nhỏ.
Nguyên nhân đầu tiên của thực trạng này là do cơ cấu xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là hàng nông sản thực phẩm, hàng
thô, sơ chế nên giá trị không cao. Thứ hai, hàng Việt Nam trong một thời gian
dài chỉ được xuất sang Mỹ qua trung gian nên doanh thu bị chia sẻ. Gần đây
các nhà xuất khẩu mới chú ý đến hình thức xuất khẩu trực tiếp nhưng còn rất
nhiều bỡ ngỡ khi tự mình tiếp cận thị trường này. Thêm vào đó những rào cản
vào thị trường Mỹ rất đa dạng và phức tạp trong khi phía Việt Nam chưa có
sự quan tâm thích đáng cũng như chưa có biện pháp đối phó hợp lý cũng là
nguyên nhân khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam phát triển chưa
được như mong đợi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Nhận diện một số rào cản về luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Luật sư James Lockett thuộc Công ty Baker & McKenzie (Hà Nội), cho
biết dự báo của WTO trong thời gian tới do khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra
nhiều vụ kiện chống bán phá giá. Nhiều quốc gia sẽ áp dụng nhiều rào chắn
kỹ thuật nhằm bảo hộ cho hàng hóa sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp
xuất khẩu sẽ ngày càng khó khăn hơn bởi các nguy cơ này.
3.1. Chống bán phá giá - nguy cơ cao
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết tính từ vụ
kiện chống bán phá giá đầu tiên năm 1994 (gạo, Colombia), cho đến ngày
15/6/2009, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đã là đối tượng bị kiện của 39 vụ
kiện phòng vệ thương mại. Riêng trong quý I năm nay đã có 4 vụ kiện (giày -
Braxin, giày và đế giày cao su - Canada, túi nhựa PE - Hoa Kỳ, đĩa ghi DVD -

Ấn Độ).
Ngân hàng Thế giới công bố, từ Hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng
11/2008 cho đến nay, các nước thuộc G20 đã áp dụng 47 biện pháp hạn chế
thương mại. Nhiều biện pháp thắt chặt an toàn thực phẩm nhập khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ đã được triển khai, trong đó có nhiều quy định mới liên quan
đến các mặt hàng nông sản, hải sản, đồ gỗ xuất khẩu vào thị trường này.
Tháng 12/2009, một luật mới của Hoa Kỳ sẽ được ban hành và thực thi,
luật mới buộc các lô hàng cá da trơn nhập khẩu sẽ phải chịu sự kiểm tra bởi
Ban Thanh tra và An toàn thực phẩm (FSIS). Theo tổ chức này, các quy định
kiểm tra sẽ định nghĩa cá da trơn và phạm vi bao trùm của các quy định sẽ
được áp dụng với cơ sở chế biến cá da trơn trong đó sẽ tính đến các điều kiện
nuôi và vận chuyển cá đến cơ sở chế biến.
Ngoài ra, đối với các sản phẩm đồ gỗ, đạo luật Lacey sửa đổi đang yêu cầu
các nhà nhập khẩu phải khai báo chi tiết đối với từng loại hàng thực vật về tên
khoa học (giống và loài), giá trị nhập khẩu, khối lượng thực vật, tên của các
quốc gia mà thực vật được thu hoạch theo lộ trình từ cuối năm 2008 cho đến
tháng 4/2010. Với đạo luật này trong thời gian sắp tới các nhà nhập khẩu có
thể yêu cầu các nhà xuất khẩu có hệ thống kiểm tra chi tiết, tìm lại xuất xứ thu
hoạch để thực hiện một cách chính xác việc khai báo và chịu trách nhiệm về
những thông tin đã cung cấp về sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu các mặt hàng nằm trong phạm vi điều chỉnh của đạo luật này cần lập hồ
sơ thu thập thông tin xuất xứ về sản phẩm.
Hàng may mặc và giày dép dành cho trẻ em cũng có những quy định mới,
về lượng chì trong sản phẩm và trong sơn bề ngoài của sản phẩm hiện nay là
600ppm, nhưng bắt đầu từ ngày 14/9/2009 lượng chì trong sơn bề ngoài của
sản phẩm chỉ còn 90 ppm và lượng chì trong sản phẩm chỉ còn 300 ppm. Về
nhãn mác, yêu cầu phải bao gồm tên của nhà sản xuất, thời gian, địa điểm sản
xuất và các thông tin về sản phẩm...

Theo tiến sỹ Nguyễn Thị Thu Trang, Thư ký Hội đồng tư vấn các biện
pháp phòng vệ thương mại quốc tế - TRC: Trong nhiều năm chúng ta chỉ bị
kiện chống bán phá giá và biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, với vụ kiện chống trợ
cấp mà Hoa Kỳ tiến hành đối với túi nhựa Việt Nam đầu năm nay, chúng ta
đã bắt đầu phải đối mặt với công cụ cuối cùng của nhóm các biện pháp phòng
vệ thương mại, hết sức nguy hiểm trong trường hợp cụ thể của Việt Nam khi
nhiều nước chưa công nhận nước ta có nền kinh tế thị trường.
3.2. Gia tăng các rào cản về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá
Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng trong khó khăn, các nền kinh tế đều
đang có xu hướng tăng cường các rào cản thương mại. Nhật Bản vừa siết chặt
hơn các điều kiện về tiêu chuẩn, kỹ thuật với sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu;
Hoa Kỳ và Pháp ra quy định cao hơn giảm tỷ lệ hàm lượng chì, keo trong gỗ
nhập khẩu của Việt Nam xuống rất thấp; Hoa Kỳ thông qua dự luật PBNS yêu
cầu giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc... Hoa Kỳ
cũng mới thực hiện Luật Điều chỉnh bổ sung các mặt hàng xuất khẩu vào Hoa
Kỳ.
Những mặt hàng mà cơ quan an toàn vệ sinh thực phẩm của Hoa Kỳ đặc
biệt lưu ý là: Sách vở, dụng cụ học tập, sản phẩm dùng để vệ sinh răng miệng
và đồ gỗ. Có những quy định rất nhỏ như nếu lớp sơn trên dây kéo quần dành
cho trẻ em có hàm lượng chì thì sản phẩm đó sẽ vĩnh viễn bị cấm nhập vào
Hoa Kỳ. Ngành xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Hoa Kỳ cũng sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng bởi Đạo luật Nông nghiệp 2008 - bắt đầu có hiệu lực từ
năm 2009.
Thương vụ Việt Nam tại Canada cũng khuyến cáo các DN xuất khẩu sang
thị trường này cần lưu ý tuân thủ những qui định Luật về Dán nhãn và quảng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cáo hàng dệt may và Luật Thuế hải quan. Ngoài ra, chất liệu sợi dùng trong
quần áo trẻ em cần tuân thủ quy định về độ cháy. Thương vụ Việt Nam tại
Canada cũng cho biết, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thường giao dịch dựa

trên cơ sở mẫu hàng, do vậy các mẫu hàng cần phải tuân thủ đúng quy định và
tiêu chuẩn của Canada về an toàn, độ bền, trọng lượng, chất liệu, chất lượng.
Điều đáng báo động là sau gần 3 năm gia nhập WTO, các DN Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế khi đối mặt với nguy cơ chống bán phá giá cũng như
lúng túng, bị động với các rào cản về tiêu chuẩn hàng hoá (do không hiểu biết
pháp luật quốc tế). VCCI khuyến cáo DN cần sớm trang bị kiến thức cơ bản
về kiện chống bán phá giá, thường xuyên nắm bắt thông tin về khả năng bị
kiện chống bán phá giá tại thị trường liên quan, từng bước chuẩn hoá hệ thống
sổ sách kế toán, lưu giữ tất cả các dữ liệu có thể làm bằng chứng chứng minh
không bán phá giá. Quan trọng hơn, các DN phải lưu ý đến các giải pháp thị
trường nhằm tránh từ xa nguy cơ bị kiện. Chuyển dần từ cạnh tranh bằng giá
sang cạnh tranh bằng chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường...
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH MỘT SỐ RÀO CẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG MỸ
1. Một số vụ tranh chấp lớn phát sinh trong thời gian gần đây
Trước đây, khi quan hệ thương mại Việt- Mỹ chưa phát triển thì chính giới
cũng như giới doanh nhân của hai nước chưa thực sự phải để tâm chú ý đến
một số vụ tranh chấp lẻ tẻ trong hoạt động xuất khẩu vốn đã quá nhỏ bé của
Việt Nam sang thị trường Mỹ. Tuy vậy khi quan hệ thương mại hai nước
bước sang trang mới, khi hai nước ngày càng trở thành bạn hàng quan trọng
của nhau, đặc biệt là trong bối cảnh Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ vừa
được ký kết thì những vụ tranh chấp gần đây đã khiến hai bên phải có cái nhìn
thực tế hơn và thận trọng hơn. Qua những vụ tranh chấp này, những rào cản
trong thương mại lần đầu tiên đã hiện lên rõ nét, nhờ đó những nhà xuất khẩu
Việt Nam có thể nhận thức một cách cụ thể hơn về các rào cản cũng như rút
ra thêm được một số bài học kinh nghiệm khi thâm nhập thị trường Mỹ, đó là
các hàng rào tiêu chuẩn, hàng rào quy định hạn chế nhập khẩu của Mỹ, rào

cản liên quan đến vấn đề bảo hộ thương hiệu tại Mỹ… những vấn đề mà
dường như còn quá mới lạ và phức tạp đối với các nhà nhập khẩu Việt Nam
1.1. Cuộc chiến Catfish
Diễn biến:
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá Basa, cá tra (là hai loại cá da trơn sang Mỹ)
từ năm 1977 và dần dần thâm nhập, tạo được chỗ đứng trên thị trường nhờ
phẩm chất tốt, giá rẻ hơn cá da trơn nội địa của Mỹ. Trong hai năm 1999-
2000, khối lượng hai loại cá này nhập khẩu vào Mỹ tăng khá nhanh (chiếm từ
2%- 3% tổng sản lượng cá da trơn tiêu thụ trên thị trường này) làm cho các
nhà nuôi cá da trơn (mà chủ yếu là cá nheo) Mỹ lo ngại. Hiệp hội các chủ trại
cá nheo Mỹ CFA bắt đầu chiến dịch tấn công các sản phẩm cá da trơn Việt
Nam. Ngay từ cuối năm 2000, thông qua báo chí, Mỹ bắt đầu cố tình đưa
những thông tin sai lệch để bôi xấu hình ảnh cá tra và cá Basa của Việt Nam.
Ba luận điểm chính mà CFA đưa ra để chống nhập khẩu cá tra và cá Basa
Việt Nam gồm:
Một là, họ cho rằng cá da trơn Việt Nam đã nhập khẩu ồ ạt vào Mỹ làm cho
giá cá Mỹ cũng rớt theo (khoảng 10% trong năm 2001).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hai là, họ nói cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô nhiễm, thậm
chí trên những dòng sông còn dư lượng chất điôxin mà Mỹ rải xuống Việt
Nam trong thời kỳ chiến tranh, do vậy không bảo đảm chất lượng và an toàn
thực phẩm cho người tiêu dùng.
Ba là, sản phẩm cá da trơn Việt Nam do cũng được gọi là Catfish nên đã
tạo ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng Mỹ và vô hình chung đã ăn theo uy
tín của cá nheo Mỹ.
Với những lập luận này, đầu tháng 2/2002, phía Mỹ bắt đầu một chiến dịch
quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện Cá nheo Mỹ (TICI)
phát động và được CFA tài trợ để chống lại việc nhập khẩu cá tra và cá Basa
của Việt Nam. Dưới áp lực của CFA, ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ thông qua

dự luật H.R 2964, chỉ cho phép sử dụng tên cá “Catsfish” cho riêng các loài
thuộc họ Ictaluriade, thực chất là cho riêng cá nheo Mỹ (Ictalurus Punctatus).
Tiếp đó, ngày 25/10/2001, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu thông qua 35 Điều
luật bổ sung cho Dự luật số H.R 2330 về phân bổ ngân sách nông nghiệp năm
tài chính 2002, trong đó có Điều luật số SA 2000, quy định Cục Quản lý Thực
phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) không được sử dụng ngân sách được cấp
để làm thủ tục cho phép nhập khẩu các loài cá da trơn mang tên “Catfish” trừ
khi chúng thuộc họ Ictaluriade. Tiếp đó, Tổng thống Mỹ đã ký Dự luật Ngân
sách chi tiêu Nông nghiệp, trong đó có gắn điều khoản bổ sung SA 2000, cản
trở việc xuất khẩu cá da trơn của các nước, trong đó có Việt Nam vào Mỹ.
Phân tích
Như vậy, trong cuộc chiến mà Mỹ châm ngòi này có sự hiện diện của các
rào cản sau đây:
Thứ nhất ,với việc viện dẫn việc nhập khẩu quá nhiều cá da trơn Việt Nam
vào Mỹ gây sụt giá cá trong nước, Mỹ muốn vận dụng điều luật 201- 204 (về
điều chỉnh hàng nhập khẩu áp dụng trong trường hợp một sản phẩm được
nhập vào Mỹ với số lượng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây
thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp trong nước). Tuy vậy, lập
luận này là không thể chấp nhận được về mặt khoa học và thực tiễn do: Cá da
trơn Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ không nhiều, chỉ chiếm không đầy 2% sản
lượng cá nheo tiêu thụ tại Mỹ, do vậy không thể là nguyên nhân làm giảm giá
cá nheo Mỹ. Mặt khác, theo bản báo cáo “Tình hình nuôi thuỷ sản” ngày
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10/10/2001 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ và
những kết luận của công trình nghiên cứu “Xu hướng hiện tại trên thị trường
cá nheo Mỹ” do công ty Consulting Trends International của Mỹ công bố
ngày 26/10/2001, dựa trên việc phân tích các tài liệu chính thức của Chính
phủ Mỹ thì: nguyên nhân chủ yếu gây nên việc giảm giá cá nheo Mỹ là do các
chủ trại nuôi cá này đã tăng đầu tư quá mức cho các ao nuôi, khiến sản lượng

cá thương phẩm tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2000. Riêng năm 2000 các
trại nuôi cá Catfish ở miền Nam nước Mỹ đã có tới hơn 44.000 ha mặt nước
ao hồ sản xuất ra 270.000 tấn cá, chiếm 70% tổng sản lượng Catfish của Mỹ.
Cung vượt cầu khiến giá cả giảm là điều tất yếu. Bên cạnh đó, mặt hàng cá
nheo phải cạnh tranh với sản phẩm gia cầm đang giảm giá trên thị trường Mỹ.
Điều này cùng với tình trạng khó khăn chung do suy giảm kinh tế và sức mua
cũng như sự thiếu sót trong hệ thống phân phối cá Catfish đã tác động trực
tiếp lên giá cá nheo.
Thứ hai, với việc viện dẫn lý do an toàn vệ sinh thực phẩm, Mỹ muốn áp
dụng các hạn chế về tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm. Tuy vậy lập luận này bị
bác bỏ vì những lý do sau: Sự thật là cá da trơn Việt Nam có chất lượng cao,
thơn ngon, cơ thịt mềm mại, được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế
giới và được người tiêu dùng khắp nơi đều ưa chuộng. Đồng thời, chất lượng
sản phẩm và chất lượng nước để nuôi cá hoàn toàn đáp ứng các nhu cầu về an
toàn vệ sinh và sức khoẻ của người tiêu dùng Mỹ. Từ năm 1998, chương trình
kiểm soát dư lượng thuỷ sản nuôi đã được thực hiện trên các vùng nuôi tập
trung của Việt Nam, kết quả giám sát thường xuyên được gửi đến Cục Quản
lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và chương trình này đã được
chính FDA công nhận. Sau khi các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ làm
rùm beng về chất lượng cá Catfish Việt Nam, vào tháng 11/2000, một đoàn
20 thành viên gồm các giáo sư của trường đại học Aubum, một số công ty
nuôi và chế biến cá nheo Mỹ do Chủ tịch Hiệp hội nuôi cá nheo của Bang
Alabama dẫn đầu đã sang Việt Nam tìm hiểu tình hình nuôi và chế biến cá tra
và cá Basa tại các bè cá, ao nuôi và các nhà máy chế biến tại An Giang và
Cần Thơ. Đoàn đã đánh giá tốt về công nghệ nuôi, chế biến, điều kiện đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của cá da trơn Việt Nam.
Thứ ba, với việc buộc tội Việt Nam đã sử dụng tên cá Catfish trên nhãn
hiệu hàng hoá để tạo sự nhầm lẫn đối với người tiêu dùng Mỹ, Mỹ muốn lưu
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×