BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
MAI NGỌC KHA
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG
XU THẾ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỔC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
MAI NGỌC KHA
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG
XU THẾ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỔC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế quốc tế
Mã số: 60.31.07
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Việt Hoa
Hà Nội - 2008
MỤC LỤC
Mục lục
Danh mục các ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Mở đầu……………………………………………………………………………….
Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và các trung gian
tài chính trên thị trường chứng khoán……………………………………………
1.1. Các vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán……………………………….
1.1.1.
Khái quát về sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
1.1.2.
Khái niệm thị trường chứng khoán……………………………………
1.1.3.
Phân loại thị trường chứng khoán…………………………………….
1.1.3.1. Phân loại theo hàng hóa
1.1.3.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
1.1.4.
Vai trò của thị trường chứng khoán…………………………………
1.1.5.
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán………………………
1.1.5.1. Chính phủ
1.1.5.2. Các doanh nghiệp
1.1.5.3. Các nhà đầu tư cá thể
1.1.5.4. Các trung gian tài chính
1.2. Các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán……….
1.2.1.
Khái niệm trung gian tài chính ……………………………………….
1.2.2.
Phân loại trung gian tài chính…………………………………………
1.2.2.1. Các tổ chức nhận tiền gửi
1.2.2.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
1.2.2.3. Các trung gian đầu tư
1.2.3.
Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán
1.2.3.1. Hoạt động phát hành chứng khoán
1.2.3.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán
1.2.3.3. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.2.3.4. Môi giới chứng khoán
1.2.3.5. Tư vấn đầu tư chứng khoán
1.2.3.6. Quản lý danh mục đầu tư
1.2.3.7. Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
1.2.3.8. Thanh toán và lưu ký chứng khoán
1.2.3.9. Các hoạt động khác
Chương 2. Thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán Việt Nam …………………………………………………………
2.1. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam………………
2.2. Các trung gian tài chính Việt Nam…………………………………………
2.2.1.
Sơ lược về hệ thống tài chính Việt Nam……………………………
2.2.2.
Các ngân hàng thương mại……………………………………………
2.2.3.
Các tổ chức bảo hiểm…………………………………………………
2.2.4.
Các công ty chứng khoán……………………………………………
2.2.5.
Các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư…………………………
2.2.6.
Các công ty tài chính………………………………………………….
2.2.7.
Các công ty cho thuê tài chính………………………………………
2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt
Nam……………………………………………………………………………….
2.3.1.
Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các trung gian tài
chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam…………………………
2.3.1.1. Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi luật các tổ chức tín
dụng
2.3.1.2. Luật Doanh nghiệp
2.3.1.3. Luật kinh doanh bảo hiểm
2.3.1.4. Luật chứng khoán
2.3.2.
Hoạt động phát hành chứng khoán……………………………………
2.3.3.
Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán…………………
2.3.3.1. Hoạt động bảo lãnh, phát hành trái phiếu chính phủ
2.3.3.2. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp
2.3.3.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành cổ phiếu
2.3.4.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán………………………………….
2.3.5.
Hoạt động tư vấn niêm yết, đầu tư chứng khoán……………………
2.3.6.
Các hoạt động khác…………………………………………………
2.4. Đánh giá kết quả hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán Việt Nam………………………………………………………….
2.4.1.
Kết quả hoạt động…………………………………………………….
2.4.2.
Hạn chế và nguyên nhân………………………………………………
Chương 3. Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Trung gian tài chính trên
thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính
quốc tế……………………………………………………………………………
3.1. Xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế………………………………
3.1.1.
Các cam kết trong lĩnh vực tài chính và lộ trình hội nhập…………
3.1.2.
Cơ hội và thách thức với thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu
thế hội nhập tài chính quốc tế…………………………………………
3.1.2.1. Cơ hội
3.1.2.2. Thách thức
3.2. Mục tiêu phát triển thị trường tài chính, chứng khoán Việt Nam đến năm
2010 và định hướng 2020………………………………………………………
3.3. Hoạt động của các trung gian tài chính - nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam………………………………
3.4. Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế……
3.4.1.
Các giải pháp vĩ mô…………………………………………………
3.4.1.1. Các giải pháp tạo đà cho sự phát triển kinh tế……………….
3.4.1.2. Giải pháp hoàn thiện chức năng và tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan quản lý Nhà nước…………………………………
3.4.1.3. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán…………….
3.4.2.
Các giải pháp vi mô…………………………………………………
3.4.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính của các Trung gian tài chính
3.4.2.2. Phát triển các nghiệp vụ mới trên thị trường chứng khoán ….
3.4.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động của các
Trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán…………………….
3.4.2.4. Đa dạng hóa các tổ chức tài chính nhằm tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh trên thị trường tài chính quốc gia…………………….
3.4.2.5. Hình thành và phát triển các công ty đầu tư chứng khoán…
Kết luận…………………………………………………………………………….
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Ký hiệu
Tiếng Việt
CBTT
Công bố thông tin
CK
Chứng khoán
CPH
Cổ phần hóa
CTCK
Công ty chứng khoán
CTCP
Công ty cổ phần
CTCTTC
Công ty cho thuê tài chính
CTTC
Công ty tài chính
DATC
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng Doanh nghiệp
DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
IPO
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
KBNN
Kho bạc Nhà nước
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NSNN
Ngân sách Nhà nước
SCIC
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
SGDCK
Sở giao dịch chứng khoán
TCPH
Tổ chức phát hành
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTLKCK
Trung tâm lưu ký chứng khoán
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
WTO
Tổ chức thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Nội dung
Trang
Bảng 2.1
Quy mô niêm yết tại SGDCK Tp.HCM
Bảng 2.2
Quy mô niêm yết tại TTGDCK Hà Nội
Bảng 2.3
Một vài chỉ tiêu của SGDCK Tp.HCM qua các năm
Bảng 2.4
Một vài chỉ tiêu của TTGDCK Hà Nội qua các năm
Bảng 2.5
Doanh thu ngành bảo hiểm qua các năm
Bảng 2.6
Số lượng các Công ty chứng khoán qua các năm
Bảng 2.7
Một số cuộc đấu giá và IPO lớn của các Trung gian tài
chính năm 2007
Bảng 2.8
Giá trị giao dịch chứng khoán qua các năm
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ, biểu đồ
Nội dung
Trang
Sơ đồ 1.1
Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
Biểu đồ 2.1
Tỷ trọng Tín dụng Ngân hàng so với GDP
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung khi chúng
ta đã chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vào cuối
năm 2006. Hội nhập kinh tế quốc tế trong đó hội nhập thị trường tài chính - một cấu
thành quan trọng của nền kinh tế đang đứng trước rất nhiều những cơ hội và thách
thức trong bối cảnh mới.
Thị trường chứng khoán, bộ phận quan trọng của thị trường tài chính trong
thời gian qua đã có được những bước phát triển nhất định. Lý thuyết và thực tiễn
cho thấy thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng huy động nguồn vốn trung và
dài hạn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn
đầu tư trong và ngoài nước được thu hút vào nền kinh tế là rất lớn. Huy động và sử
dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thị
trường chứng khoán và của cả hệ thống tài chính quốc gia.
Các trung gian tài chính là những chủ thể quan trọng bậc nhất trên thị trường
tài chính, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là tất
yếu và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển của thị trường. Phát triển hoạt
động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là hướng đi chiến
lược trong sự phát triển lâu dài của các trung gian tài chính trong xu thế hội nhập.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn bảy năm,
đã gặt hái được những thành tựu bước đầu tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều
bất cập. Thực tế cho thấy trong những năm qua, hoạt động của các trung gian tài
chính trên thị trường chứng khoán đã thúc đẩy sự phát triển bứt phá của thị trường,
góp phần huy động một nguồn vốn khổng lồ cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự
tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán cũng còn nhiều
hạn chế, chưa phát huy được hết vai trò quan trọng của mình trong xu thế hội nhập
2
tài chính quốc tế. Vì vậy phân tích hoạt động của các trung gian tài chính trên thị
trường chứng khoán và đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hoạt động của các trung
gian tài chính góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là vô
cùng cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng như thị
trường chứng khoán đã thu hút được nhiều đề tài nghiên cứu về chứng khoán và
trung gian tài chính. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập, hoạt động của các trung gian
tài chính trên thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phát triển đòi hỏi sự
nghiên cứu sâu rộng về các hoạt động này. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: “Hoạt
động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong
xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế”.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đề
xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian trên thị trường chứng
khoán nhằm phù hợp với xu thế hội nhập tài chính quốc tế - xu thế tất yếu của quá
trình hội nhập kinh tế thế giới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về thị trường chứng khoán,
hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các trung gian tài chính trên thị
trường chứng khoán đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế về tài chính hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian tài chính
trên thị trường chứng khoán trong xu thế hội nhập.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các trung gian tài
chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hình thành tháng 07/2000 đến
nay.
3
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với việc sử dụng các phương pháp cụ
thể như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích (phân tích định tính và phân
tích thống kê). Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để làm sáng tỏ
hơn các kết luận rút ra trong từng hoàn cảnh cụ thể.
7. Kết cấu luận văn
Tên Luận văn: “Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế.”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và các trung
gian tài chính trên thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian tài chính Việt
Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
4
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC
TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Các vấn đề cơ bản về thị trƣờng chứng khoán
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của
nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua
diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trường
tài chính, thị trường chứng khoán, được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra
các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ
chuyển đổi và các công cụ phái sinh) giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua
bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai,
xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15, tại
những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập
tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc
đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối
thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với
việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh
thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị
trường”.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại
thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba
túi da và chữ Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường, là thị
trường hàng hoá, thị trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán. Còn chữ Bourse
biểu tượng cho sở giao dịch. Vì thế sở giao dịch sau này còn gọi là Bourse.
Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ và được dời tới
thành phố cảng Antwepen, từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Một thị
trường như vậy cũng được thành lập ở London (Vương quốc Anh) vào thế kỷ 18
và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, Ý cũng được thành lập. Sau một
5
thời gian hoạt động đã cho thấy, thị trường không có khả năng đáp ứng được yêu
cầu của ba loại giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra
thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị
trường hối đoái. Thị trường chính thức trở thành thị trường chứng khoán. Như
vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị
trường hối đoái.
1.1.2. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi các
loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ hay bút toán ghi sổ,
nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát
hành. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo
tính chất sở hữu của chúng.
Với chứng khoán nợ, chẳng hạn như trái phiếu, chủ sở hữu có quyền được
nhận lãi định kỳ và nhận toàn bộ giá trị cam kết, sau một thời hạn nhất định, từ giá
trị tài sản của tổ chức phát hành.
Khác với chứng khoán nợ, cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối
với một phần tài sản khi công ty được bán đi, kèm theo với một phần lợi nhuận do
tài sản đó làm ra. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý công ty thông
qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua trước đối với cổ
phiếu phát hành mới.
Với các đặc tính đó, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính mà giá
trị của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ sở hữu đối
với tổ chức phát hành.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ
cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại thị trường
chứng khoán tập trung - Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường giao dịch
phi tập trung – thị trường giao dịch qua quầy (Over - the Counter Market), ở thị
trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các
quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như
6
vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu
sang tư bản kinh doanh.
Điều này xuất phát từ chức năng cơ bản của thị trường tài chính là dẫn vốn
từ những người có vốn sang những người cần vốn. Các thành viên quan trọng của
hệ thống tài chính bao gồm Chính phủ, các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, các tổ
chức và cá nhân nước ngoài. Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ :
Gián tiếp
Những người có vốn
Vốn
Các trung
Vốn
Những người cần vốn
(Người tiết kiệm)
gian tài chính
(Người đầu tư)
- Các hộ gia đình
- Các tổ chức kinh tế
- Chính phủ
- Nước ngoài
Vốn
- Các tổ chức kinh tế
- Chính phủ
- Các hộ gia đình
- Nước ngoài
Vốn
Các thị trường
tài chính
Vốn
Trực tiếp
Sơ đồ 1.1.Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
Sơ đồ trên cho thấy, sự chuyển dịch vốn trong hệ thống tài chính được thực
hiện thông qua hai con đường, trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể
huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ.
Các chứng khoán này được mua bán rộng rãi trên thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp.
Cách thức thứ hai là dẫn vốn gián tiếp, thông qua các trung gian tài chính.
Các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, các tổ chức bảo hiểm và
các trung gian tài chính khác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tích tụ, tập
trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, đồng thời, các tổ chức này cũng có vai
trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính như các dịch vụ đại lý,
bảo lãnh, thanh toán.
7
1.1.3. Phân loại thị trƣờng chứng khoán
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta có thể phân loại thị trường chứng
khoán theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét
ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức
của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Các phân tích sau đây
sẽ thể hiện từng cách thức phân loại đó.
1.1.3.1. Phân loại theo hàng hoá
Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân
thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị
trường các công cụ dẫn suất.
Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là thị trường mà hàng hoá được mua
bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát
hành các công cụ này là, nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn
trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả
hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành
phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong
hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài
hạn.
Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu (Stock Markets) là nơi giao
dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ
đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của
mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của
công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ
phiếu không có thời hạn xác định.
Thị trường các công cụ dẫn suất (Derivative Markets) là nơi các chứng
khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng kỳ
hạn (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị trường này ngày càng
trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ
phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư.
8
1.1.3.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát
hành các chứng khoán. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát
hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát
hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài
trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy
động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường
giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục
đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Quan hệ giữa thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ sau:
Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã
phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro
cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn,
thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát
hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo
điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản
lý doanh nghiệp.
Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá
các công ty. Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh
mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án
đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên
thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình, vốn sẽ được chuyển tới
những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế
xã hội.
9
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trƣờng
Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách. Cách thứ nhất
là tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange), tại đây, người mua và người
bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến
hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở
giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các
chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng
khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao
dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung - thị trường
giao dịch qua quầy (Over - the - Counter Market) là thị trường của các nhà buôn,
những người tạo lập thị trường (Market Makers). Các nhà buôn có một danh mục
chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà
đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có
địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra qua điện thoại hay mạng máy tính.
Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều so với thị
trường Sở giao dịch.
1.1.4. Vai trò của thị trƣờng chứng khoán
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh
khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có
của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm
soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến
khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị trường
chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây
chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một
quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế.
Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công
bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra
10
công chúng, giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập
trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường sự giám sát của xã hội đối với
quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và
dân chủ.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở
hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường
kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều
kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin
hoàn hảo tạo khả năng giám sát cao của thị trường chứng khoán đã làm giảm tác
động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của
chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa thị
trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều
này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ
nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và
mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các
nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho
việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu
kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi
trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế
hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng
khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
1.1.5. Các chủ thể tham gia thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia
của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể tham gia với mục đích
huy động vốn, đầu tư vốn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, hay quản lý Nhà nước.
1.1.5.1. Chính phủ
11
Chính phủ tham gia vào thị trường chứng khoán với hai tư cách:
Thứ nhất, Chính phủ với tư cách là người tổ chức và quản lý thị trường mà
đại diện ở đây là Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước, các bộ chủ quản. Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và quản lý thị trường chứng
khoán, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
Thứ hai, Chính phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh
doanh chứng khoán. Để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng, Chính phủ
có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu
Kho bạc là những loại hàng hoá quan trọng của thị trường chứng khoán. Ngân
hàng Nhà nước có thể tham gia thị trường khi sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để
thực thi chính sách tiền tệ. Chính phủ cũng có thể tham gia thị trường cổ phiếu khi
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoặc muốn tham gia quản lý, nắm quyền
kiểm soát các doanh nghiệp.
1.1.5.2. Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng trên thị trường chứng khoán. Các
doanh nghiệp cung cấp các loại hàng hoá chính cho thị trường chứng khoán.
Pháp luật từng nước quy định cụ thể loại hình doanh nghiệp nào được phép
phát hành chứng khoán. Về cơ bản, các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu để thu hút vốn trên thị trường. Công ty có thể tự mình phát hành
chứng khoán hoặc phát hành thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành.
Đẩy mạnh hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp sẽ đa
dạng hoá các công cụ đầu tư, đồng thời tạo điều kiện phát triển các dịch vụ cho
các trung gian tài chính như nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ ngân
hàng tín thác, nghiệp vụ tư vấn phát hành.
1.1.5.3. Các nhà đầu tƣ cá thể
Các nhà đầu tư cá thể là các cá nhân và các hộ gia đình. Họ mua bán chứng
khoán nhằm mục đích kiếm lời và qua đó, một lượng tiết kiệm khổng lồ được huy
động cho phát triển kinh tế. Các nhà đầu tư có thể tham gia một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Hoạt
12
động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá thể tạo ra tính sôi động của
thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung gian tài chính phát triển các dịch
vụ hỗ trợ thị trường.
1.1.5.4. Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của thị trường chứng
khoán, với tư cách là nhà phát hành chứng khoán, nhà kinh doanh chứng khoán và
là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường qua các nghiệp vụ đại lý, bảo
lãnh phát hành, tư vấn và môi giới đầu tư, cho vay chứng khoán và cho vay để
mua chứng khoán, thanh toán và quản lý chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư
và quản lý quỹ đầu tư. Sự tham gia của các trung gian tài chính thực sự thúc đẩy
phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
1.2. Các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán
1.2.1. Khái niệm trung gian tài chính
Chức năng cơ bản của thị trường tài chính là chuyển tiền từ những người
tiết kiệm tới những nhà đầu tư. Việc chuyển tiền trong hệ thống tài chính được
thực hiện thông qua hai con đường, trực tiếp và gián tiếp. Phần lớn lượng vốn
trong nền kinh tế được chuyển bằng con đường gián tiếp, thông qua các trung gian
tài chính.
Trung gian tài chính (Financial Intermediaries) là tổ chức tài chính, một
loại hình doanh nghiệp mà tài sản chính của nó là các tài sản tài chính. Điều này
khác với các doanh nghiệp thông thường với các tài sản chính là các tài sản thực
như nhà cửa, trang thiết bị, nguyên vật liệu [23].
Các tổ chức tài chính cho các khách hàng vay hoặc mua các chứng khoán
trên thị trường đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng, từ việc cung cấp
các phương tiện thanh toán, bảo quản tài sản, tư vấn, môi giới đến các dịch vụ bảo
hiểm v.v cho các nhà đầu tư. Trung gian tài chính nắm giữ các giấy nhận nợ
được phát hành bởi những người đi vay (Chứng khoán sơ cấp) và đồng thời bán
các giấy nhận nợ của chính nó (Chứng khoán thứ cấp) cho những người tiết kiệm.
13
Nói một cách khác, trung gian tài chính là cầu nối giữa những người cần
vốn và những người có vốn. Các tổ chức này tích tụ, tập trung vốn từ những người
có vốn và phân phối tới những người cần vốn.
Có nhiều hình thức trung gian:
Trung gian về quy mô diễn ra khi các tổ chức tài chính chấp nhận những
khoản tiết kiệm nhỏ từ phía các cá nhân và tổ chức, trên cơ sở đó, tích tụ, tập trung
thành những lượng vốn lớn để cho vay các tổ chức kinh tế và Chính phủ.
Trung gian về rủi ro phá sản là việc các tổ chức tài chính sẵn sàng cho các
tổ chức và cá nhân vay với mức mạo hiểm cao hơn trong khi cung cấp các công cụ
ít rủi ro hơn cho các nhà đầu tư.
Trung gian về thời hạn thanh toán được thực hiện khi các trung gian tài
chính cung cấp những công cụ có tính thanh khoản cao cho những người tiết kiệm
và sẵn sàng chấp nhận các công cụ có tính lỏng thấp từ phía các nhà đầu tư. Bằng
cách này, trung gian tài chính đã chuyển được thời hạn của vốn từ ngắn hạn sang
trung hạn và dài hạn.
Các trung gian tài chính có thể đảm nhiệm trung gian về thông tin, bằng
cách thu thập và xử lý thông tin thay cho những người tiết kiệm. Trên cơ sở
chuyên môn hoá và tiết kiệm nhờ quy mô, các trung gian tài chính có thể làm
giảm chi phí thông tin một cách đáng kể. Thực hiện nguyên tắc sàng lọc và giám
sát, các trung gian tài chính đã thay mặt những người tiết kiệm để giám sát những
người đi vay. Dịch vụ tư vấn và các thông tin gián tiếp do các trung gian cung cấp
(chẳng hạn ngân hàng bảo lãnh hay mở rộng cho vay với một doanh nghiệp nào
đó), có thể làm tăng hiệu quả cho quyết định của những người đầu tư.
Các trung gian tài chính cũng chia sẻ rủi ro và tận dụng lợi thế về quy mô
trong việc đa dạng hoá đầu tư của mình làm tăng tính an toàn cho những người tiết
kiệm. Hoạt động trung gian của các tổ chức tài chính có thể làm giảm rủi ro, làm
giảm chi phí và tăng hiệu quả trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn cho
nền kinh tế. Để nghiên cứu cụ thể hơn các trung gian tài chính, cần phân loại trung
gian tài chính.
1.2.2. Phân loại trung gian tài chính
14
Có nhiều cách phân loại trung gian tài chính. Theo Frederic S.
Mishkin[23], các trung gian tài chính có thể được phân thành ba nhóm chính:
Nhóm các tổ chức nhận tiền gửi, nhóm các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và
nhóm những trung gian đầu tư. Phân tích dưới đây đề cập tới các trung gian tài
chính theo cách thức phân loại đó.
1.2.2.1. Các tổ chức nhận tiền gửi
Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội
tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng.
Các trung gian tài chính này nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức để cho vay.
Do bộ phận tiền gửi thường chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn nên để đảm bảo
khả năng thanh toán, các tổ chức này thường đầu tư vào các tài sản có tính thanh
khoản cao như Tín phiếu, Trái phiếu Chính phủ.
Với chức năng tạo tiền, hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi có tác
động lớn tới lượng tiền cung ứng. Đây là loại hình trung gian tài chính có vai trò
quan trọng trong thị trường tài chính, song với lý do để đảm bảo an toàn cho thị
trường, các tổ chức này cũng được sự quan tâm quản lý chặt chẽ của các cơ quan
quản lý Nhà nước.
1.2.2.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là các trung gian tài chính mà nhiệm
vụ chủ yếu và thường xuyên là thu nhận vốn một cách định kỳ trên cơ sở hợp
đồng bảo hiểm nhằm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm dựa trên
quy luật số lớn. Các tổ chức này có thể lượng hoá được các khoản chi trả cho việc
hạn chế, phòng ngừa, khắc phục những tổn thất do các rủi ro gây ra, và do đó, có
thể xác định lượng tiền đầu tư và các tài sản kém lỏng hơn trên thị trường chứng
khoán như Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu. Các tổ
chức này bao gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm cháy và
tai nạn, các quỹ trợ cấp tư nhân, các quỹ hưu trí.
15
1.2.2.3. Các trung gian đầu tƣ
Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, các quỹ, các công ty
chứng khoán. Các công ty tài chính nhận vốn bằng cách bán các cổ phiếu và trái
phiếu. Các tổ chức này có thể cho vay tiêu dùng thông qua cho vay mua trả góp
các tài sản như nhà cửa, ô tô, xe máy. Các công ty tài chính thành viên của tập
đoàn, ngoài việc cho vay hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, còn tham gia huy động và điều
hoà vốn giữa các đơn vị thành viên.
Các quỹ đầu tư huy động vốn bằng cách bán các chứng chỉ quỹ đầu tư sau
đó đầu tư vào các danh mục chứng khoán có mức độ rủi ro phù hợp. Việc này tạo
cơ sở cho việc đa dạng hoá đầu tư, tăng tính chuyên nghiệp và giảm chi phí đầu
tư.
Các công ty chứng khoán cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ tài
chính, bao gồm cả dịch vụ môi giới, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ
ngân hàng đầu tư (bao gồm cả việc bảo lãnh phát hành các chứng khoán thuộc khu
vực công và khu vực tư nhân, trợ giúp trong lĩnh vực hợp nhất và sáp nhập các
công ty), thực hiện giao dịch mua bán (với tư cách là đối tác trong giao dịch) các
cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ của thị trường tiền tệ.
Các hoạt động này đem lại một phần thu nhập quan trọng cho các công ty
chứng khoán dưới dạng phí và chênh lệch giá chứng khoán. Bên cạnh đó, các
công ty này còn hoạt động với tư cách là trung gian tài chính khi thực hiện các
hoạt động vay và cho vay với mục đích tăng thu nhập.
Việc phân loại các loại hình trung gian tài chính trên đây chỉ có ý nghĩa
tương đối. Bởi lẽ, các trung gian tài chính đã và đang phát triển theo xu hướng đa
năng, cung cấp đa dạng các sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu
của khách hàng. Sự phát triển đa dạng của các trung gian tài chính tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, song hoạt động của các trung gian tài chính cũng
cần được quản lý chặt chẽ để tăng tính hiệu quả.
1.2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán
16
Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp, ở đó có sự tham gia của
rất nhiều đối tượng khác nhau, với các mục đích khác nhau. Hoạt động của các
trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán được chia thành hai nhóm.
Thứ nhất, các trung gian tài chính phát hành các chứng khoán nhằm huy
động vốn cho chính họ và thực hiện mua bán chứng khoán với tư cách là nhà đầu
tư chứng khoán.
Thứ hai, trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thị trường qua các
nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh chứng khoán, tư vấn, môi giới, quản lý danh mục đầu tư
và quản lý quỹ đầu tư, thanh toán và lưu ký chứng khoán, cho vay.
Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là khác
nhau, phụ thuộc vào quy định của luật pháp từng nước. Trên thế giới tồn tại ba mô
hình cơ bản:
Thứ nhất, mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này,
không có bất kỳ sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Các ngân hàng đa năng được phép cung cấp đầy đủ các dịch
vụ: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Mô hình này được áp dụng tại các nước
thuộc Bắc Âu như Hà Lan, Thuỵ Sỹ và Áo.
Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần cho phép các trung gian tài chính tận
dụng triệt để các lợi thế về nhân lực, vật lực để cung cấp các dịch vụ tổng hợp cho
khách hàng. Việc đa dạng hoá các dịch vụ tài chính cũng cho phép các trung gian
tài chính đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, san sẻ rủi ro giữa các lĩnh vực đầu tư,
tăng khả năng chống đỡ của các trung gian tài chính trước các biến động kinh tế.
Tuy vậy, hoạt động ngân hàng đa năng gây khó khăn cho công tác quản lý thị
trường và ảnh hưởng tới việc kiểm soát khả năng thanh toán của hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, mô hình ngân hàng đa năng một phần. Trong mô hình này, các
ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập các công ty con, có tư
cách pháp nhân độc lập, do vậy loại bỏ được nhược điểm của mô hình đa năng
toàn phần, tạo ra sự độc lập tương đối giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Mô hình đa năng một phần được áp dụng tại Vương
17
quốc Anh, Canada và Úc. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là tạo ra sự
trùng chéo về tổ chức, làm giảm hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính.
Thứ ba, mô hình chuyên doanh. Mô hình này thể hiện sự phân biệt có tính
pháp lý giữa hai ngành ngân hàng và chứng khoán. Hoạt động kinh doanh chứng
khoán do các công ty chứng khoán thực hiện và các ngân hàng thương mại không
được phép kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng tại Mỹ, Nhật Bản.
Tuy nhiên, mô hình chuyên doanh tỏ ra không còn phù hợp trước xu thế
phát triển các tổ chức tài chính theo hướng đa năng. Hiện nay, các nước áp dụng
mô hình chuyên doanh cũng đang chuyển sang áp dụng mô hình đa năng một phần
bằng cách nới lỏng các điều kiện để cho phép các ngân hàng tham gia thị trường
chứng khoán.
Các phân tích trên cho thấy, mỗi mô hình đều có những ưu nhược điểm
riêng và không có mô hình nào là tối ưu đối với một quốc gia. Việc lựa chọn mô
hình hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán phụ thuộc
vào quan điểm của các nhà quản lý thị trường, vào sự phát triển của các trung gian
tài chính và phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán. Cho dù theo
mô hình nào, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán
bao gồm các hoạt động sau:
1.2.3.1. Hoạt động phát hành chứng khoán
Trung gian tài chính trước hết là một doanh nghiệp và thị trường chứng
khoán được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đối với loại hình doanh nghiệp
đặc biệt này. Luật pháp từng nước có quy định khác nhau, song về cơ bản, các
trung gian tài chính có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư để
huy động vốn trên thị trường.
Việc phát hành chứng khoán của các trung gian tài chính chịu sự điều tiết
của nhiều luật khác nhau như Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân
hàng và Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm…
Các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty bảo hiểm, các công ty tài
chính, công ty chứng khoán thường phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ