Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đổi mới và phát triển HTX NN ở huyện Gia lâm theo luật HTX năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.58 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bước vào cơ chế thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhất là sau
khi gia nhập WTO, hộ nông dân Việt Nam phải đối đầu với nhiều đối thủ sản xuất
kinh doanh mạnh. Đó là các hàng hoá nông sản nhập khẩu và cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu của nông dân các nước phát triển hơn, có tổ chức rất tốt về quy mô,
về trình độ hợp tác. Trong khi 50% giá trị sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dành
cho xuất khẩu thì tình trạng đơn thương độc mã hiện nay không cho phép các hộ tiểu
nông cạnh tranh nổi trong sản xuất, thương thuyết nổi trong mua bán, tranh thủ được
về chính sách. Phải nói rằng, hơn lúc nào hết, người nông dân cần có tổ chức thực sự
của mình, được tổ chức tốt từ trên xuống dưới do họ bầu ra và thực sự quản lý, giúp
cho họ vốn, tiêu thụ sản phẩm và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,… Đó chính là các HTX
NN.
Đảng và nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đối với khu vực kinh tế tập thể
và HTX, thể hiện rõ trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X và Nghị quyết số 13
Hội nghị Ban chấp hhành trung ương 5 khóa IX. Đã tạo dựng khung pháp lý và
những nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển của HTX trong điều kiện mới, Nhà nước
đã ban hành Luật HTX năm 1996, và bổ sung sửa đổi vào năm 2003. Chính phủ đã
ban hành các nghị định hướng dẫn Luật; các Bộ ngành có liên quan đã ban hành các
thông tư cụ thể hóa những quy định của các nghị định.
Sau năm 5 thực hiện Luật HTX, kinh tế HTX trên địa bàn huyện Gia lâm vẫn
giữ được vai trò là chỗ dựa kinh tế hộ phát triển, góp phần ổn định chính trị ở địa
phương. Tuy nhiên hoạt động của HTX, nhất là các HTX DVNN trên địa bàn đã bộc
lộ không ít những khó khăn, tồn tại, việc thực hiện Luật HTX sửa đổi, Luật kế toán
thống kê còn hạn chế, hoạt động kinh doanh dịch vụ còn nhiều khó khăn, hiệu quả
kinh tế thấp.
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX và
Đề án 17/ĐA-TU của Thành uỷ Hà Nội về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể”; Kế hoạch số 33/KH-UB ngày 01/6/2005 của UBND Thành
1
phố Hà Nội về “Phát triển khu vực kinh tế tập thể của Thành phố Hà Nội 5 năm


2006-2010”, để các HTX dịch vụ làm tốt vai trò chỗ dựa cho kinh tế hộ phát triển
việc xây dựng Đề án “Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ trong
giai đoạn 2006-2010” nhằm: đánh giá thực trạng hoạt động của các HTX DVNN trên
địa bàn huyện Gia Lâm hiện tại qua đó thấy được những thuận lợi, những khó khăn
vướng mắc của các HTX; đề xuất các giải pháp khắc phục để tiếp tục đổi mới và phát
triển HTX NN.
Dựa vào thực tiễn của quá trình thực tập và khả năng hiểu biết về HTX. Trong
thời gian thực tập, nghiên cứu tại huyện Gia lâm và Sở Nông nghiệp & PTNT Hà nội,
em đã chọn chuyên đề:
“Đổi mới và phát triển HTX NN ở huyện Gia lâm theo luật HTX năm 2003”
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm, vai trò của HTX .
Đánh giá thực trạng đổi mới và phát triển ở các HTX NN huyện Gia Lâm.
Trên cơ sở đánh giá, phân tích rõ hiện trạng đổi mới và phát triển của các HTX hiện
tại để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX
huyện Gia Lâm nói riêng và của các HTX trên toàn quốc nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề cơ bản về tiếp tục đổi mới và phát triển HTX
NN theo Luật HTX năm 2003.
Phạm vi nghiên cứu:
-Về không gian: trên địa bàn huyện Gia lâm.
-Về thời gian: Giai đoạn 1996-2007
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung như:
- Phương pháp duy vật biện chứng,
- Phương pháp phân tích tổng hợp: số liệu sau khi được thu thập sẽ sử dụng các phép
toán thống kê: số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân để so sánh và rút ra kết luận
2
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: phỏng vấn trực tiếp 5 chủ nhiệm của 5 HTX:
HTX DVNN Dương Quang, HTX DVNN Đông Dư, HTX DVNN Kiêu kỵ, HTX

DVNN Dương Xá, HTX KDTH Cổ Bi.
- Phương pháp duy vật lịch sử tổng hợp; một số phương pháp đặc thù như điều tra xã
hội học.
5. Kết cấu chuyên đề
* Phần mở đầu
* Phần nội dung: chuyên đề gồm có 4 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về HTX NN
Chương 2: Đổi mới và phát triển HTX NN theo Luật HTX năm 2003 ở huyện Gia
lâm
Chương 3: Định hướng và các giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển
HTX NN trong thời gian tới
* Phần kết luận và kiến nghị
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HTX NN
I. Tổng quan về HTX NN
1. Khái niệm HTX NN
Mặc dù đã được hình thành lâu đời, nhưng khái niệm về HTX đến nay vẫn đang
còn tiếp tục được nghiên cứu.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “HTX là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết lại trên
cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào
HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng
sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong
tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”.
Liên minh HTX quốc tế (ICA) đưa ra định nghĩa về HTX như sau: “HTX là một
hiệp hội tự chủ của các cá nhân tự nguyện tập hợp lại nhằm thỏa mãn những nhu cầu
và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua doanh nghiệp đồng sở
hữu và quản lý dân chủ”.
Điều 1 trong Luật HTX năm 2003 ghi: “HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra

theo quy định của Pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các loại hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Khái niệm HTX NN:
Nếu phân loại HTX theo ngành kinh tế, ta có các HTX Nông nghiệp, HTX
Công nghiệp, HTX Thương mại, HTX Tín dụng (Quỹ tín dụng)…. Trong phạm vi đề
tài, chúng ta chỉ nghiên cứu về HTX NN.
HTX NN là những HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng do đặc điểm
nông nghiệp thường gắn liền với nông thôn. Vì vậy những hoạt động của HTX NN
không chỉ gói gọn trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn mở rộng sang các lĩnh vực
khác để phục vụ nhu cầu dân cư trên địa bàn. Đối tượng phục vụ của những hoạt
4
động này cũng chính là xã viên HTX, dân cư trong khu vực. Từ những vấn đề đã
trình bày ở trên, có thể định nghĩa HTX NN như sau:
HTX NN là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của Luật HTX để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn.
2. Những đặc điểm cơ bản của HTX kiểu mới ở Việt Nam
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về cơ chế tổ
chức, phương thức hoạt động v.v…của các mô hình HTX ở các nước trên thế giới,
song từ các khái niệm trên đây có thể rút ra những đặc trưng sau đây của HTX NN:
Một là, HTX kiểu mới là tổ chức kinh tế tự chủ của những người lao động có
nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời
sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. HTX có tư cách pháp nhân,
có tổ chức chặt chẽ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của

mình và được đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
Hai là, cơ sở thành lập của các HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các
thành viên và quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc
mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều. Khi
gia nhập HTX, mỗi xã viên bắt buộc phải góp vốn theo quy định của Điều lệ, vốn
góp có thể nhiều hơn mức tối thiểu, nhưng không được vượt quá 30% tổng số vốn
Điều lệ của HTX.
Cùng với vốn góp của xã viên, vốn hoạt động của HTX còn bao gồm vốn được
tích luỹ trong quá trình hoạt động và các nguồn vốn khác, như giá trị tài sản được
cho, biếu tặng v.v...
5
Phần vốn góp của xã viên thuộc sở hữu của từng thành viên. Các nguồn vốn
khác thuộc sở hữu chung của HTX, quyền sử dụng toàn bộ tài sản thuộc về HTX. Sau
khi làm song nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được phân phối như sau: thanh toán các
khoản bù lỗ; trích lập các quỹ hợp tác xã; chia lãi theo vốn góp và công sức đóng góp
của xã viên có tính đến mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Ba là, mục đích kinh doanh của HTX trước hết là làm dịch vụ cho xã viên, đáp
ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo
nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi
xuất nội bộ thấp hơn giá thị trường. Khi thành lập HTX cần phải có điều lệ, phương
án sản xuất - kinh doanh cụ thể có tính khả thi, được đại hội xã viên thông qua và cơ
quan có trách nhiệm phê duyệt.
Bốn là, Khi xây dựng các HTX kiểu mới phải đảm bảo 5 nguyên tắc cơ bản sau:
Tự nguyện gia nhập và ra HTX; Quản lý dân chủ và bình đẳng; Tự chịu trách nhiệm
và cùng có lợi; Chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của
HTX; Hợp tác và phát triển cộng đồng.
Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự
có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những
dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy trong mỗi thôn, mỗi xã
có thể tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã

viên không như nhau, trong đó một số nông hộ, trang trại đồng thời là xã viên của
một số HTX.
Sáu là, nông hộ, trang trại, xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX vừa
là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ
giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ gữa hai
đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của HTX cần phản
ánh được mối quan hệ phức tạp đó. Quan hệ giữa HTX và xã viên được xây dựng
chủ yếu trên cơ sở quan hệ kinh tế. Nó được xác lập từ nhu cầu phát triển sản xuất,
tăng thu nhập của các thành viên HTX. HTX tôn trọng quyền độc lập tự chủ kinh tế
của xã viên. Trong HTX NN, xã viên là hộ, trang trại gia đình, hoặc đại diện hộ, đó là
6
những đơn vị kinh tế tự chủ tham gia vào HTX với trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích
theo Điều lệ quy định. Sự hình thành và phát triển HTX NN không phá vỡ tính độc
lập tự chủ của kinh tế hộ, trang trại gia đình. Nó có tác dụng tạo điều kiện phát triển
tăng thu nhập cho kinh tế của các hộ xã viên. Trên cơ sở đó mà thúc đẩy kinh tế của
các HTX.
Bảy là, từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của HTX là:
HTX là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ, nông trại và các cá nhân mang
tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
3. Phân loại
Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình HTX với
những đặc điểm về nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác dụng, và tên gọi
khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại hình HTX.
Ở nhiều nước, người ta thường phân loại HTX theo mục đích, chức năng hoạt
động, theo đặc điểm về quy mô, tính chất và hình thức pháp lý. Trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn cứ vào: chức năng hoạt động, tính
chất trình độ xã hội hoá, quy mô và đặc điểm hình thành HTX. Theo cách phân loại
đó thì ở nước ta có các loại hình HTX sau:
- HTX DV bao gồm ba loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX DVTH đa chức
năng và HTX DV“đơn mục đích” hay HTX “chuyên ngành”.

+ HTX DV từng khâu còn gọi là HTX dịch vụ chuyên khâu có nội dung hoạt
động tập chung ở từng lĩnh vực trong quá trình sản xuất hoặc từng khâu công việc
trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất. Thí dụ, HTX tín dụng, HTX mua
bán, HTX dịch vụ đầu vào, HTX dịch vụ đầu ra, HTX chuyên dịch vụ về tưới tiêu,
HTX chuyên phòng trừ sâu bệnh v.v...
+ HTX DVTH đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu
dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm (đầu ra), dịch vụ
giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v...Tuỳ thuộc đặc điểm, điều kiện, trình độ
phát triển sản xuất và tập quán ở từng vùng mà nhu cầu của nông hộ đối với từng loại
hình dịch vụ có khác nhau. Thí dụ, ở những vùng đồng bằng trồng lúa nước, HTX có
7
thể thực hiện những khâu dịch vụ sau: xây dựng, điều hành kế hoạch, bố trí cơ cấu
mùa vụ, lịch thời vụ sản xuất, cung ứng vật tư, giống, tưới tiêu theo quy trình kỹ
thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, bảo về các sản phẩm ngoài đồng ruộng để tránh
hao hụt. Với những vùng có mức bình quân ruộng đất và mức độ cơ giới hoá cao,
nông hộ cần thêm khâu dịch vụ làm đất, thu hoạch, sửa chữa cơ khí, vận chuyển sản
phẩm đến nơi tiêu thụ v v...
+ HTX dịch vụ "đơn mục đích" hay HTX "chuyên ngành". HTX loại này được
hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất - kinh doanh một loại
hàng hoá đặc trưng, hoặc cùng làm một nghề giống nhau (HTX trồng rừng, HTX
trồng mía, HTX trồng chè v.v..). HTX thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như
chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu
thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng v.v..
- HTX sản xuất kết hợp dịch vụ
HTX loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết
hợp. Mô hình HTX loại này phù hợp trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng,
nghề đánh cá, nghề làm muối ( trừ ngành trồng trọt và chăn nuôi).
Ở một số nơi, HTX được hình thành trong quá trình chuyển đổi HTX kiểu cũ
theo Luật HTX năm 1996, tuy mang tên HTX NN nhưng về bản chất chúng là HTX
dịch vụ đơn thuần, hoặc HTX dịch vụ kết hợp sản xuất mở mang ngành nghề. Cùng

với kinh tế HTX, kinh tế nông hộ được duy trì với tư cách là những đơn vị thành viên
của HTX .
- HTX sản xuất - kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện
Đặc điểm cơ bản của mô hình HTX loại này là:
+ Cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán,
kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của HTX kiểu mới và tương tự một
"doanh nghiệp" tập thể.
+ Sở hữu tài sản trong HTX gồm hai phần: sở hữu tập thể và sở hữu cổ phần.
Xã viên HTX tham gia lao động trong HTX được hưởng lương theo nguyên tắc phân
phối theo lao động và hưởng lãi cổ phần (ngoài phúc lợi tập thể của HTX).
8
+ HTX hoạt động sản xuất - kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm phát triển
kinh tế HTX và đem lại lợi ích cho xã viên.
+ HTX loại này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, khai
thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thuỷ sản, nghề làm muối, đánh cá.
Ở các địa phương, mô hình HTX kiểu này thường gặp trên địa bàn thị trấn, thị
xã, các vùng ven sông, ven biển, những nơi phù hợp với nghề khai thác tài nguyên và
ở nhiều nơi khác khi có đủ điều kiện cần thiết.
4. Vai trò, tính tất yếu khách quan tồn tại và phát triển của HTX NN
a. Vai trò của việc tồn tại và phát triển của các HTX NN:
Từ mục đích và các nguyên tắc thành lập các HTX và HTXNN, tạo ra những
điều kiện để chúng có vai trò rất to lớn đến sự phát triển của các thành viên và nông
nghiệp nông thôn. Các vai trò của HTXNN nói chung, ở Việt Nam nói riêng được thể
hiện sau:
- Hỗ trợ kinh tế hộ nông dân và các thành viên khác phát triển: Sự xuất hiện,
tồn tại và phát triển của HTX là một tất yếu khách quan. Những hộ nông dân cá thể
không thể không liên kết lại trước những diễn biến phức tạp, bất ngờ của điều kiện tự
nhiên; trước sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực cung ứng vật tư kỹ
thuật và tiêu thụ sản phẩm…. Sự liên kết tự nhiên đó đã gắn bó những người sản xuất
nhỏ trong các tổ chức HTX tùy theo yêu cầu sản xuất của họ.

Tuy nhiên, HTX NN không chỉ hỗ trợ kinh tế hộ nông dân trên cơ sở các tính
chất của nó mà còn là trung gian tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân.
Việc hỗ trợ của nhà nước đối với người nông dân thông qua tổ chức này rất đa dạng,
có thể là các khoản đầu tư hoặc các cơ chế chính sách, định hướng của nhà nước đối
với khu vực này. Về cơ chế, chính sách, định hướng, nhà nước có thể thông qua HTX
để điều tiết giá trên thị trường từ đó hỗ trợ người nông dân…. Về đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn, mỗi nước có những chính sách khác nhau và phương thức khác
nhau đa dạng và phong phú. ở nhiều nước HTX NN luôn là một tổ chức thích hợp để
thực hiện các hoạt động này. Nhà nước có thể đầu tư các hệ thống cơ sở hạ tầng và
cơ sở vật chất kỹ thuật khác phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn
9
như hệ thống điện, hệ thống kênh mương… và giao cho HTX NN khai thác, sử dụng
để phát triển kinh tế cũng như phục vụ dân sinh trên địa bàn.
- Phát triển kinh tế của HTX NN, góp phần vào việc phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn nước ta: Phát triển kinh tế là mục tiêu mà mọi tổ chức kinh tế đều
hướng tới. HTX NN cũng là một tổ chức kinh tế nên cũng phải hướng tới mục tiêu
này. Như ta đã biết, mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp luôn là tìm kiếm lợi
nhuận để bù đắp chi phí sản xuất, để tồn tại và phát triển. Nếu không có lợi nhuận,
doanh nghiệp không thể trả công cho người lao động, duy trì việc làm lâu dài của họ,
cũng như không thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ lâu dài cho khách hàng và cộng
đồng.
Việc hoạt động vì mục đích lợi nhuận không hề mâu thuẫn với mục tiêu tương
trợ xã viên của HTX. Bởi vì lợi nhuận ở đây là phương tiện, động cơ để HTX có thể
hỗ trợ, tương trợ cho xã viên của mình một cách lâu dài, toàn diện và tốt hơn.
Như vậy sự phát triển kinh tế HTX là một tất yếu, là một điều kiện để duy trì và
phát triển bản thân các HTX. Mặt khác, là một chủ thể của nền kinh tế, sự phát triển
kinh tế HTX còn góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp và
nông thôn, đặc biệt là nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
b. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành HTX NN:
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, HTX NN kiểu cũ ra đời với

mục tiêu phát triển kinh tế tập thể của chính bản thân mỗi HTX và thay thế căn bản
hoạt động kinh tế của mỗi nông hộ, nhằm nâng cao mức sống vật chất tinh thần của
mỗi xã viên. Tuy nhiên, HTX NN kiểu cũ được hình thành dựa trên cơ sở tập thể hóa
quyền sở hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của các nông hộ và do đó đã xóa
bỏ tư cách chủ thể kinh doanh của mỗi nông hộ, biến người lao động trong nông hộ
trở thành người lao động bộ phận của một đơn vị tổ chức lao động hợp tác duy nhất
là HTX NN: giống như một xí nghiệp công nghiệp, thậm chí còn biến mỗi xã viên
thành người lao động làm thuê cho HTX. Và trong điều kiện kinh tế nước ta cơ bản là
sản xuất nhỏ, đặc biệt là sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
thì đa số các HTX NN kiểu cũ đã không thích ứng được cũng như không thể phát huy
10
hết tiềm năng và hiệu quả kinh tế của mình. Đó là một tất yếu khách quan hợp quy
luật. Ở những nơi sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp chưa sản sinh
ra những con người biết làm ăn trong cơ chế thị trường dẫn đến Đảng, Chính Quyền,
các đoàn thể cấp huyện và xã đã giúp đỡ thành lập các tổ hợp tác đa dạng. Và trong
thời điểm này, mục tiêu của người nông dân là tối đa hóa lợi ích, chứ không phải là
tối đa hóa lợi nhuận nên nhu cầu hợp tác của họ chủ yếu là khâu đầu vào, với quy mô
nhỏ bé. Do đó các hình thức hợp tác. Các tổ hợp tác thường đơn giản, thực hiện từng
dịch vụ riêng lẻ hoặc là một số khâu dịch vụ đầu vào với quy mô nhỏ bé trong khuôn
khổ xóm, ấp, thực hiện dứt điểm từng công việc trong từng thời gian ngắn theo yêu
cầu thời vụ sản xuất, các quan hệ kinh tế, tài chính, tiền tệ phát sinh không liên tục và
ít phát sinh. Vì thế các tổ hợp tác chưa cần tư cách pháp nhân cũng như chưa cần một
đạo luật riêng điều chỉnh chúng. Tuy nhiên khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh
mẽ thì mục tiêu của người dân là tối đa hoá lợi nhuận nên nhu cầu hợp tác của họ ở
đầu ra đã nảy sinh và ngày càng bức xúc, trên quy mô ngày càng lớn như chế biến
nông sản, tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cả trong và ngoài nước. Đồng thời nhu
cầu hợp tác đầu vào cũng tăng theo, nhất là về vốn kinh doanh và vật tư sản xuất. Vì
thế lúc đầu tổ hợp tác còn vương lên thực hiện một số công việc đầu ra cho kinh tế hộ
nhưng khi quy mô chế biến và tiêu thụ sản phẩm, cung ứng tín dụng và vật tư trở nên
quá lớn, các quan hệ kinh tế, tài chính trở nên ngày càng phức tạp, trải qua một không

gian rộng lớn với nhiều loại thị trường khác nhau, thì các tổ hợp tác sẽ không đủ khả
năng đáp ứng được nhu cầu quản lý kinh tế tập thể. Chính vì thế mà HTX NN kiểu
mới có tư cách pháp nhân sẽ được thành lập từ các tổ hợp tác và hoạt động không
phụ thuộc vào ranh giới hành chính – lãnh thổ địa phương và hơn thế nữa HTX NN
kiểu mới còn có thể hoạt động trên quy mô toàn quốc và ra thế giới. Sự ra đời của
HTX NN được thể hiện ở 2 khía cạnh sau:
- HTX NN kiểu mới ra đời không xem mục tiêu lợi nhuận là tối thượng mà HTX
nông nghiệp xem sự phát triển và hiệu quả của kinh tế nông hộ trong cơ chế thị
trường là mục tiêu tối thượng
11
- Tuy đặt mục tiêu cao nhất là chăm lo cho xã viên nhưng không vì thế mà HTX quên
đi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trên cơ sở hoạt động có lời, sau khi đã trừ
đi lợi tức cổ phần cho các xã viên, phần trích quỹ còn lại HTX dùng để tham gia xây
dựng cộng đồng, và tham gia phúc lợi xã hội.
II. Luật HTX và sự đổi mới tư duy về HTX NN ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển của HTXNN ở Việt Nam
Ở Việt Nam, HTX, chủ yếu là HTX NN được bắt đầu xây dựng từ tháng
8/1955, tức sau khi Nghị Quyết TW 8 (khoá II) ra đời, Nghị quyết này chủ trương
xây dựng thí điểm các HTX từ năm 1955 đến nay, phong trào HTX ở Việt Nam có
thể chia ra làm 2 giai đoạn chính:
a. Giai đoạn 1: từ năm 1955 đến năm 1986
- Ở giai đoạn này, nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế tập thể, mà nồng cốt
là HTX, Nghị quyết TW lần thứ 14 (khoá II) tháng 11/1958 Đảng ta xác định: “phong
trào HTX ở nước ta mới xây dựng, vì vậy phải đi từ thấp đến cao”. Quan điểm này
thể hiện rõ trong tư tưởng của Bác Hồ về hợp tác hóa nông nghiệp và được đăng tải ở
nhiều tác phẩm trong Hồ Chí Minh toàn tập.
- Trong 2 thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX, phong trào xây dựng HTX ở Miền Bắc nước
ta trở nên rầm rộ. Tuy chúng đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội miền
Bắc và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng ở Miền Nam. Song, nhìn chung
trong giai đoạn này, phong trào HTX và những hoạt động của nó đã bộc lộ nhiều

khuyết điểm khó có thể khắc phục được.
- Từ sau 1975, đất nước thống nhất, ở miền Nam bắt tay vào xây dựng HTX và cũng
lập lại những bài học khuyết điểm tương tự như việc xây dựng HTX ở miền Bắc vào
những năm 1960.
b. Giai đoạn 2: từ năm 1986 đến nay
- Từ năm 1986 đến nay, các HTX ở nước ta được đổi mới về địa vị pháp lý, chức
năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động theo cơ chế thị trường.
- Cơ sở pháp lý cho sự thay đổi nói trên là sự ra đời của Nghị quyết Đại Hội Đảng
lần Thứ VI năm 1986. Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Phát triển nền kinh
12
tế hàng hoá nhiều thành phần trong các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế HTX, được khẳng định cùng với nền kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của
nền kinh tế, đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải đi đôi với sự phát
triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, HTX là bộ phận nồng cốt
của kinh tế hợp tác”. Từ quan điểm nêu trên có thể rút ra các đặc điểm sau:
· Cần nhận thức rõ kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế tất yếu khách quan trong
quá trình phát triển của đất nước và nhận thức sâu sắc vai trò của kinh tế hợp tác
cũng như việc xác định rõ mục đích xây dựng và phát triển HTX.
· Cần xem nhiệm vụ tổ chức lại sản xuất, xây dựng và giúp đỡ HTX là trách
nhiệm của nhà nước, nhưng chủ yếu là thông qua các đoàn thế quần chúng, đặc biệt
là hội nông dân, trong đó quyết định là hệ thống chính trị cấp huyện, xã.
- Đặc biệt từ khi luật HTX ban hành năm 1996 và có hiệu lực thi hành
01/01/1997, phong trào HTX ở Việt Nam mới thực sự có những thay đổi về chất mà
người ta thường gọi là HTX kiểu mới.
- Nhìn chung, giai đoạn từ năm 1986 đến nay phong trào HTX ở Việt Nam có một số
điểm tiến bộ cần lưu ý là:
· Nhận thức về HTX đúng đắn và đầy đủ.
· HTX được xem là một trong những hình thức của kinh tế hợp tác của kinh tế tập
thể có tính tự chủ cao, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
· HTX được thành lập trên cơ sở tự nguyện, quản lý dân chủ, chú trọng tính hiệu

quả của sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
· Quản lý, điều chỉnh tổ chức hoạt động của HTX bằng công cụ pháp luật.
2. Sự cần thiết phải đổi mới và phát triển HTX NN theo Luật HTX 2003
Luật HTX 2003 là sự kế tiếp của Luật HTX đã được ban hành lần đầu tiên
năm 1996, và nó có hai mục tiêu chính:
- Củng cố, kiện toàn các hợp tác xã vốn được thành lập từ trong thời kì kinh tế
kế hoạch hóa tập trung còn sót lại hiện nay, cụ thể là chuyển đổi các HTX này sang
hình thức “HTX kiểu mới”
13
- Xây dựng một khung thể chế nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế hợp tác đa
dạng đang ngày càng phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là
các tổ chức kinh tế hợp tác do người dân thành lập dưới nhiều hình thức và cấp độ
khác nhau trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội
Các HTX “kiểu cũ” ở đây là những hợp tác xã được thành lập và còn sót lại từ
thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Do đặc điểm hoạt động, những HTX còn lại
chủ yếu là các HTX NN, còn các loại hình hợp tác xã khác (hợp tác xã tín dụng, hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã thương mại, v.v…) hầu hết đều đã tan rã. Kể
từ sau khi kinh tế gia đình chính thức được tái thừa nhận về mặt pháp lý (quan trọng
nhất là với Nghị quyết 10 năm 1988 và sau đó là Luật đất đai 1993, 2003), thì cơ sở
kinh tế-xã hội của các HTX này gần như không còn gì và vai trò của chúng cũng bị
suy giảm về cơ bản. Những hợp tác xã này có hai xu hướng biến đổi:
- Tiếp tục đi vào sa sút và đi đến giải thể;
- Một số khác vì nhiều lý do, cả tích cực (cải tiến tổ chức, quản lý, năng lực
sản xuất kinh doanh, v.v..) lẫn tiêu cực (tồn đọng trong giải quyết nợ vốn, tài sản với
xã viên và nhà nước, v.v..) thì vẫn tiếp tục tồn tại.
Cả về lý luận và thực tiễn, kinh tế hợp tác và HTX là sản phẩm tất yếu của nền
sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị
trường gay gắt buộc những người lao động riêng lẻ, hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ phải liên kết, hợp tác với nhau mới có thể tồn tại và phát triển.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, nông dân ngày càng có

nhu cầu tham gia các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, từ các tổ hợp tác đến
HTX, doanh nghiệp nhỏ... Các HTX từng bước phát huy vai trò không thể thiếu của
mình trong phát triển kinh tế xã hội.
Sau khi Luật HTX năm 1996 được đưa vào thực hiện, nhiều HTX đã thể hiện
được các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và phát triển HTX như: tinh giảm bộ máy
quản lý, phát huy vai trò tự chủ - dân chủ nội bộ, xác định địa vị chính đáng, quyền
và nghĩa vụ của xã viên đã xuất hiện một số mô hình hiệu quả. Công tác quản lý
trong HTX từng bước được củng cố và hoàn thiện, quản lý tài chính đã khắc phục tốt
14
những yếu kém, trì trệ trước đây; phân định rõ chức năng quản lý kinh tế của HTX
với chức năng quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã; phân loại và xác định được
danh mục tài sản dùng chung cho cộng đồng để chuyển cho xã, phường quản lý...
Nội dung hoạt động của HTX được sắp xếp lại theo hướng nâng cao hiệu quả
và mở rộng dịch vụ, xoá bỏ những hoạt động kém hiệu quả, ít tác dụng đối với kinh
tế hộ trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ của kinh tế hộ. Có tới 84,7% trong tổng số
3.245 hộ được phỏng vấn cho rằng HTX hoạt động khá hơn trước khi chuyển đổi, có
73% ý kiến đánh giá chất lượng dịch vụ của HTX tốt hơn và 84,2% cho là giá dịch vụ
bằng và thấp hơn so với tư nhân. Một số HTX khi thành lập có điểm xuất phát thấp từ
độc canh lúa, nay đã trở thành HTX sản xuất - kinh doanh tổng hợp, có vốn, quỹ tập
thể lớn, tổ chức được nhiều ngành nghề mới, còn hình thành các xí nghiệp trực thuộc.
Đây là hướng đi mới, năng động, biết tổ chức các hình thức kinh doanh phù hợp, hiệu
quả, phát huy thế mạnh của sở hữu tập thể. Một số HTX đã tổ chức được các hoạt
động khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đưa giống mới có giá trị kinh tế cao,
có thị trường tiêu thụ vào sản xuất; tổ chức chế biến làm dịch vụ đầu ra, dịch vụ tín
dụng nội bộ… góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất cho
hộ xã viên. Những mặt tích cực như đã nêu là rất quan trọng, nhưng chưa phổ biến.
Quá trình đổi mới và phát triển của HTX còn gặp nhiều khó khăn, còn bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém; tốc độ chuyển đổi chậm, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển
của sức sản xuất. Nhìn tổng thể, hệ thống HTX NN vào thời điểm hiện nay còn nhỏ
bé, chưa đáp ứng kịp sự phát triển kinh tế hàng hoá của kinh tế hộ ở nhiều vùng, chưa

phát huy đầy đủ tính ưu việt của hình thức kinh tế tập thể. Một số HTX chuyển đổi
và thành lập mới còn mang tính hình thức, chưa có sự chuyển biến về nội dung và
hiệu quả hoạt động. Nhiều xã viên không làm đơn vào HTX, không đóng thêm cổ
phần; thậm chí chỉ là sự phân bổ giá trị tài sản của HTX cũ, chưa xây dựng được
phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các quan hệ về quản lý không thay đổi
so với trước. Công nợ trong HTX, nhất là HTX chuyển đổi chưa được xử lý, làm cản
trở sự phát triển HTX. Do đó cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển HTX NN nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian tới.
15
3. Nội dung cơ bản của Luật HTX năm 2003 và một số điểm mới của luật
HTX năm 2003 so với luật HTX năm 1996
3.1. Một số nội dung chính của Luật HTX 2003
Luật HTX năm 2003 bao gồm 10 chương, 52 điều. Đây là những quy định cơ bản
nhất nhằm điều tiết hoạt động của các loại hình HTX trong nền kinh tế thị trường
đồng thời hướng dẫn một số HTX chuyển đổi theo Luật mới.
3.1.1. Định nghĩa HTX:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây
gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia
hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy
và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
3.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX
- Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của
Luật này, tán thành Ðiều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã; xã viên có
quyền ra hợp tác xã theo quy định của Ðiều lệ hợp tác xã;
- Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám

sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương
hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định
trong Ðiều lệ hợp tác xã;
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: hợp tác xã tự chủ và tự chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập.
Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của hợp tác xã,
lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn góp và
16
công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng
dịch vụ của hợp tác xã;
- Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng
tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa
các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
3.1.3. Ðiều lệ hợp tác xã
1. Mỗi hợp tác xã có Ðiều lệ riêng. Ðiều lệ hợp tác xã phải phù hợp với các quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật.
2. Ðiều lệ hợp tác xã có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên hợp tác xã, biểu tượng của hợp tác xã (nếu có);
b) Ðịa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã;
c) Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh;
d) Các quy định về đối tượng, điều kiện, thủ tục gia nhập hợp tác xã và ra hợp tác xã
của xã viên;
đ) Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên;
e) Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc;
g) Vốn điều lệ của hợp tác xã;
h) Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn
góp của xã viên;
i) Thẩm quyền và phương thức huy động vốn;
k) Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng
góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; trích lập, quản lý và

sử dụng các quỹ của hợp tác xã;
l) Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích lũy của
hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể;
m) Cơ cấu tổ chức quản lý hợp tác xã; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm
của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát, Trưởng
Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho hợp tác xã;
n) Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã;
17
o) Thể thức tiến hành Ðại hội và thông qua quyết định của Ðại hội xã viên;
p) Chế độ xử lý vi phạm Ðiều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội
bộ;
q) Thể thức sửa đổi Ðiều lệ hợp tác xã;
r) Các quy định khác do Ðại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với quy định
của pháp luật.
3. Khi sửa đổi Ðiều lệ hợp tác xã, hợp tác xã phải gửi Ðiều lệ sửa đổi có kèm theo
biên bản của Ðại hội xã viên đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho hợp tác xã.
4. Chính phủ ban hành Mẫu hướng dẫn xây dựng Ðiều lệ hợp tác xã nông nghiệp,
quỹ tín dụng nhân dân và hợp tác xã phi nông nghiệp.
3.1.4. Ðiều kiện trở thành xã viên
1. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
có góp vốn, góp sức, tán thành Ðiều lệ hợp tác xã, tự nguyện xin gia nhập hợp tác xã
có thể trở thành xã viên.
Cán bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là xã viên theo quy định của
Ðiều lệ hợp tác xã nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành hợp tác xã.
2. Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Ðiều lệ hợp tác
xã. Khi tham gia hợp tác xã, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại diện có đủ
điều kiện như đối với cá nhân tham gia.
3. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong
trường hợp Ðiều lệ hợp tác xã không cấm.

3.1.5. Nội dung của Ðại hội xã viên
Ðại hội xã viên thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
1. Quy định tiêu chuẩn xã viên khi tham gia hợp tác xã;
2. Báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh trong năm của hợp tác xã, báo cáo hoạt
động của Ban quản trị và của Ban kiểm soát;
3. Báo cáo công khai tài chính, dự kiến phân phối thu nhập và xử lý lỗ, các khoản nợ;
4. Phương hướng, kế hoạch sản xuất, kinh doanh;
18
5. Vốn tối thiểu; tăng, giảm vốn điều lệ; thẩm quyền và phương thức huy động vốn;
6. Xác định giá trị tài sản chung của hợp tác xã theo quy định tại khoản 3 Ðiều 35
Luật này;
7. Phân phối lãi theo vốn góp, công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của các
xã viên; các quỹ của hợp tác xã;
8. Thành lập riêng hay không thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành
hợp tác xã theo quy định tại điểm c khoản 3 Ðiều 11 Luật này;
9. Bầu, bãi miễn Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm
soát;
10. Thông qua việc kết nạp xã viên mới và cho xã viên ra hợp tác xã; quyết định khai
trừ xã viên;
11. Tổ chức lại, giải thể hợp tác xã;
12. Sửa đổi Ðiều lệ, Nội quy hợp tác xã;
13. Mức tiền công, tiền lương và tiền thưởng cho Trưởng Ban quản trị và các thành
viên khác của Ban quản trị, Chủ nhiệm và các Phó chủ nhiệm hợp tác xã, Trưởng
Ban kiểm soát, các thành viên khác của Ban kiểm soát và các chức danh khác của
hợp tác xã;
14. Các đối tượng được hợp tác xã đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo hiểm
xã hội bắt buộc của Nhà nước;
15. Những vấn đề khác do Ban quản trị, Ban kiểm soát hoặc có ít nhất một phần ba
tổng số xã viên đề nghị.
3.1.6. Hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành

1. Ban quản trị có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
a) Bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo đề nghị của Chủ nhiệm hợp
tác xã;
b) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê kế toán trưởng (nếu
hợp tác xã có chức danh này);
c) Quyết định cơ cấu tổ chức các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ của hợp tác xã;
d) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Ðại hội xã viên;
19
đ) Chuẩn bị báo cáo về kế hoạch sản xuất, kinh doanh, huy động vốn và phân phối lãi
của hợp tác xã, báo cáo hoạt động của Ban quản trị trình Ðại hội xã viên;
e) Chuẩn bị chương trình nghị sự của Ðại hội xã viên và triệu tập Ðại hội xã viên;
g) Ðánh giá kết quả sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã; duyệt báo cáo quyết toán tài
chính để trình Ðại hội xã viên;
h) Tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã quy định tại Ðiều 6 và
Ðiều 7 của Luật này;
i) Xét kết nạp xã viên mới và giải quyết việc xã viên ra hợp tác xã (trừ trường hợp
khai trừ xã viên) và báo cáo để Ðại hội xã viên thông qua;
k) Ðại diện chủ sở hữu tài sản của hợp tác xã và doanh nghiệp trực thuộc trong
trường hợp hợp tác xã có doanh nghiệp;
l) Kiểm tra, đánh giá công việc của Chủ nhiệm và các Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo
các quyết định của Ban quản trị;
m) Chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước Ðại hội xã viên và trước pháp
luật;
n) Các quyền và nhiệm vụ khác do Ðiều lệ hợp tác xã quy định.
2. Chủ nhiệm hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
a) Ðại diện hợp tác xã theo pháp luật;
b) Thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh và điều hành các công việc hàng ngày
của hợp tác xã;
c) Tổ chức thực hiện các quyết định của Ban quản trị hợp tác xã;
d) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, phân công các chức danh trong Ban quản trị hợp tác xã,

trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Ðại hội xã viên và Ban quản trị hợp tác xã;
đ) Ký kết các hợp đồng nhân danh hợp tác xã;
e) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Ban quản trị hợp tác xã;
g) Ðề nghị với Ban quản trị về phương án bố trí cơ cấu tổ chức hợp tác xã;
h) Tuyển dụng lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ban quản trị hợp tác
xã;
20
i) Các quyền khác được quy định tại Ðiều lệ hợp tác xã, nghị quyết của Ðại hội xã
viên;
k) Chịu trách nhiệm trước Ðại hội xã viên và Ban quản trị về công việc được giao;
Khi vắng mặt, Chủ nhiệm ủy quyền cho một Phó chủ nhiệm hoặc một thành viên Ban
quản trị điều hành công việc của hợp tác xã.
3.1.7. Hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành
1. Ban quản trị có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
a) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê Chủ nhiệm hợp tác xã
theo nghị quyết của Ðại hội xã viên;
b) Bổ nhiệm, miễn nhiệm các Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo đề nghị của Chủ nhiệm
hợp tác xã.
Ngoài các quyền và nhiệm vụ trên đây, Ban quản trị hợp tác xã còn có các quyền,
nhiệm vụ quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m và n khoản 1 Ðiều 27 của
Luật này.
2. Trưởng Ban quản trị hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
a) Ðại diện hợp tác xã theo pháp luật;
b) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Ban quản trị;
c) Triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Ban quản trị, Ðại hội xã viên;
d) Chịu trách nhiệm trước Ðại hội xã viên và Ban quản trị về công việc được giao;
đ) Ký các quyết định của Ðại hội xã viên và Ban quản trị;
e) Các quyền và nhiệm vụ khác do Ðiều lệ hợp tác xã quy định.
3. Chủ nhiệm hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
a) Thực hiện kế hoạch hoạt động sản xuất, kinh doanh và điều hành các công việc

hàng ngày của hợp tác xã;
b) Tổ chức thực hiện các quyết định của Ban quản trị hợp tác xã;
c) Ký kết các hợp đồng nhân danh hợp tác xã do Ban quản trị hợp tác xã ủy quyền;
d) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Ban quản trị hợp tác xã;
đ) Ðề nghị với Ban quản trị về phương án bố trí cơ cấu tổ chức hợp tác xã;
e) Tuyển dụng lao động theo ủy quyền của Ban quản trị hợp tác xã;
21
g) Các quyền khác được quy định tại Ðiều lệ hợp tác xã, nghị quyết của Ðại hội xã
viên hoặc theo hợp đồng ký kết với Ban quản trị hợp tác xã.
Khi vắng mặt, Chủ nhiệm ủy quyền cho một Phó chủ nhiệm điều hành công việc của
hợp tác xã.
Trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã là xã viên hoặc thành viên Ban quản trị hợp tác xã
thì ngoài việc phải thực hiện đầy đủ các quyền và nhiệm vụ của Chủ nhiệm hợp tác
xã theo quy định của Ðiều này, phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của xã viên
hoặc thành viên Ban quản trị hợp tác xã.
Trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã được thuê thì phải thực hiện đầy đủ các quyền và
nhiệm vụ của Chủ nhiệm hợp tác xã quy định tại Ðiều này và tại hợp đồng thuê Chủ
nhiệm hợp tác xã. Chủ nhiệm hợp tác xã được tham gia các cuộc họp của Ban quản
trị và Ðại hội xã viên nhưng không được quyền biểu quyết và không được hưởng các
quyền khác của xã viên, thành viên Ban quản trị hợp tác xã.
3.1.8. Ban kiểm soát
1. Ban kiểm soát là bộ máy giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của hợp tác xã theo
đúng pháp luật và Ðiều lệ hợp tác xã.
2. Ban kiểm soát do Ðại hội xã viên bầu trực tiếp. Số lượng thành viên Ban kiểm soát
do Ðiều lệ hợp tác xã quy định; hợp tác xã có ít xã viên có thể chỉ bầu một kiểm soát
viên.
3. Tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm soát như tiêu chuẩn thành viên Ban quản trị.
Thành viên Ban kiểm soát không được đồng thời là thành viên Ban quản trị, kế toán
trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em
ruột của họ.

4. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát theo nhiệm kỳ của Ban quản trị.
3.1.9. Vốn góp của xã viên
1. Khi gia nhập hợp tác xã, xã viên phải góp vốn theo quy định tại khoản 2 Ðiều 19
của Luật này.
Xã viên có thể góp vốn một lần ngay từ đầu hoặc nhiều lần; mức, hình thức và thời
hạn góp vốn do Ðiều lệ hợp tác xã quy định.
22
Mức vốn góp tối thiểu được điều chỉnh theo quyết định của Ðại hội xã viên.
2. Xã viên được trả lại vốn góp trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và
đ khoản 1 Ðiều 20 của Luật này.
Việc trả lại vốn góp của xã viên căn cứ vào thực trạng tài chính của hợp tác xã tại
thời điểm trả lại vốn sau khi hợp tác xã đã quyết toán năm và đã giải quyết xong các
quyền lợi, nghĩa vụ về kinh tế của xã viên đối với hợp tác xã. Hình thức, thời hạn trả
lại vốn góp cho xã viên do Ðiều lệ hợp tác xã quy định.
3.1.10. Vốn hoạt động của hợp tác xã
Vốn hoạt động của hợp tác xã được hình thành từ vốn góp của xã viên, vốn tích luỹ
thuộc sở hữu của hợp tác xã và các nguốn vốn hợp pháp khác.
Vốn hoạt động của hợp tác xã được quản lý và sử dụng theo quy định của Luật này,
các quy định khác của pháp luật và Ðiều lệ hợp tác xã.
3.1.11. Quỹ của hợp tác xã
1. Hợp tác xã phải lập quỹ phát triển sản xuất và quỹ dự phòng theo hướng dẫn của
Chính phủ; các quỹ khác do Ðiều lệ hợp tác xã và Ðại hội xã viên quy định phù hợp
với điều kiện cụ thể của từng hợp tác xã. Tỷ lệ cụ thể trích lập các quỹ do Ðại hội xã
viên quyết định.
2. Mục đích, phương thức quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác xã do Ðiều lệ hợp
tác xã quy định.
3.1.12. Tài sản của hợp tác xã
1. Tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã được hình thành từ vốn hoạt động của hợp tác
xã.
2. Việc quản lý, sử dụng tài sản của hợp tác xã được thực hiện theo quy định của

Ðiều lệ hợp tác xã và các quy định của pháp luật có liên quan.
3. Trong hợp tác xã có bộ phận tài sản chung, bao gồm các công trình phục vụ sản
xuất, công trình phúc lợi văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho cộng
đồng dân cư được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của hợp tác xã,
các nguồn vốn do Nhà nước trợ cấp, quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong nước
và ngoài nước.
23
3.1.13. Xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã khi giải thể
1. Khi giải thể, hợp tác xã không chia cho xã viên vốn và tài sản chung do Nhà nước
trợ cấp mà chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý.
Ðối với vốn và tài sản chung của hợp tác xã được hình thành từ các nguồn vốn và
công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài
nước thì do Ðại hội xã viên quyết định.
2. Vốn góp của xã viên bằng giá trị quyền sử dụng đất và đất do Nhà nước giao cho
hợp tác xã sử dụng được xử lý theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Sau khi thanh toán hết các khoản nợ và các chi phí cho việc giải thể hợp tác xã,
việc xử lý tài sản, vốn, quỹ khác còn lại của hợp tác xã được thực hiện theo quy định
tại Ðiều này, các quy định khác của pháp luật có liên quan và Ðiều lệ hợp tác xã.
3.1.14 Phân phối lãi
1. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của hợp tác xã được phân phối như
sau:
a) Trả bù các khoản lỗ của năm trước (nếu có) theo quy định của pháp luật về thuế;
b) Trích lập quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng và các quỹ khác của hợp tác xã;
chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại chia
cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
2. Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh nhu cầu tích luỹ để phát triển
hợp tác xã, Ðại hội xã viên quyết định cụ thể tỷ lệ phân phối lãi hàng năm vào các
khoản mục quy định tại điểm b khoản 1 Ðiều này.
3.1.15. Xử lý các khoản lỗ
Lỗ phát sinh trong năm của hợp tác xã được trừ vào khoản thu từ tiền đền bù, bồi

thường của cá nhân, tổ chức có liên quan; nếu chưa đủ thì bù đắp bằng quỹ dự phòng;
nếu vẫn chưa đủ thì số lỗ còn lại được chuyển sang năm sau theo quy định của pháp
luật về thuế.
3.1.16. Giải thể hợp tác xã
Việc giải thể hợp tác xã được quy định như sau:
1. Giải thể tự nguyện:
24
Trong trường hợp giải thể tự nguyện theo nghị quyết của Ðại hội xã viên, hợp tác xã
phải gửi đơn xin giải thể và nghị quyết của Ðại hội xã viên đến cơ quan đăng ký kinh
doanh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã, đồng thời đăng
báo địa phương nơi hợp tác xã hoạt động trong ba số liên tiếp về việc xin giải thể và
thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn thanh toán nợ và thanh lý các
hợp đồng, cơ quan đăng ký kinh doanh nhận đơn phải ra thông báo chấp thuận hoặc
không chấp thuận việc xin giải thể của hợp tác xã.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo chấp thuận việc xin
giải thể của cơ quan đăng ký kinh doanh, hợp tác xã phải xử lý vốn, tài sản theo quy
định tại Ðiều 36 của Luật này, thanh toán các khoản chi phí cho việc giải thể, trả vốn
góp và giải quyết các quyền lợi cho xã viên theo quy định của Ðiều lệ hợp tác xã;
2. Giải thể bắt buộc:
Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có quyền quyết định
buộc giải thể đối với hợp tác xã khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh mà hợp tác xã không tiến hành hoạt động;
b) Hợp tác xã ngừng hoạt động trong mười hai tháng liền;
c) Trong thời hạn mười tám tháng liền, hợp tác xã không tổ chức được Ðại hội xã
viên thường kỳ mà không có lý do chính đáng;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật;
3. Ủy ban nhân dân ra quyết định giải thể lập Hội đồng giải thể và chỉ định Chủ tịch
Hội đồng để tổ chức việc giải thể hợp tác xã.

Hội đồng giải thể hợp tác xã phải đăng báo địa phương nơi hợp tác xã hoạt động
trong ba số liên tiếp về quyết định giải thể hợp tác xã; thông báo trình tự, thủ tục, thời
hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng, xử lý vốn, tài sản theo quy định tại Ðiều 36
của Luật này, trả vốn góp và giải quyết các quyền lợi khác có liên quan của xã viên
theo quy định của Ðiều lệ hợp tác xã.
25

×