Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Tổng hợp, đánh giá tình hình phát triển ngành cơ khí việt nam giai đoạn 2003 đến 2010, đề xuất các giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí đến năm 2020 theo nội dung quyết định 186 TTg

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 110 trang )


1
BỘ CÔNG THƯƠNG
HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VIỆT NAM









BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHCN
NĂM 2010




Tên đề tài:
“Tổng hợp, đánh giá tình hình phát triển ngành cơ khí
Việt Nam giai đoạn 2003 đến 2010, đề xuất các giải pháp thực
hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí đến năm 2020 theo nội
dung quyết định 186/TTg”.

Mã số: 22410RD




Đơn vị thực hiện


HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VIỆT NAM

Chủ nhiệm đề tài
Ks. Đào Phan Long








8349





Năm 2010

2
BỘ CÔNG THƯƠNG
HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VIỆT NAM









BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHCN
NĂM 2010




Tên đề tài:
“Tổng hợp, đánh giá tình hình phát triển ngành cơ khí
Việt Nam giai đoạn 2003 đến 2010, đề xuất các giải pháp thực
hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí đến năm 2020 theo nội
dung quyết định 186/TTg”.

Mã số: 22410RD



Đơn vị thực hiện:
HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VIỆT NAM
Ban Chủ nhiệm đề tài
Ks. Đào Phan Long Chủ
nhiệm
Phó Chủ tịch - Tổng thư ký VAMI
TS. Đỗ Văn Vũ Ủy viên Tổng giám đốc Viên IMI
TS.Lê Minh Đức Ủy viên TS. Trưởng Ban KHCN, Tập
đoàn VINASHIN
TS. Tạ Ngọc Hải Ủy viên Trưởng ban Cơ khí TKV
KS.Trần Văn Quang Ủy viên Tổng giám đốc Cty CP chế tạo
TB điện
KS.Nguyễn Văn Vũ Ủy viên Phó TGĐ VEAM

KS.Nguyễn Văn Thành Ủy viên Phó Tổng giám
đốc TCT
y
MIE
KS.Đào Xuân Minh Ủy viên T.P Viện nghiên cứu chiến lược -
BCT
KS. Đinh Việt Phương

Ủy viên Phó Tổng Giám đốc TCty
Công nghiệp Ô tô VN
KS. Trịnh Nam Hải Ủy viên Phó Tổng giám đốc TCTy Cơ khí xây
dựng
Nhóm chuyên viên VPHH Ủy viên

3
MỤC LỤC

Đặt vấn đề 5
CHƯƠNG I: Tổng quan về tình hình phát triển Ngành cơ khí Thế giới và Việt Nam 7
1.1- Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo thế giới 7
1.1.1 Công nghệ gia công chế tạo 7
1.1.2- Vật liệu chế tạo 9
1.1.3- Những xu hướng phát triển trong ngành cơ khí chế tạo của thế giới đến năm 203011
1.2- Thực trạng chung về cơ khí chế tạo ở Việt Nam đến 2009 15
1.2.1. Số lượng cơ sở công nghiệp 15
1.2.2. Lực lượng lao động công nghiệp 15
1.2.3. Kết quả hoạt động công nghiệp 15
1.3- Tình trạng thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư chiều sâu của từng
ngành hàng, thiết kế, thiết bị, trình độ công nghệ, đào tạo nhân lực 19


1.4- Tình hình xuất, nhập khẩu công nghệ, thiết bị toàn ngành cơ khí 27
1.4.1.Động thái tăng trưởng giá trị xuất khẩu máy, thiết bị và cơ cấu 27
1.4.2- Động thái tăng trưởng giá trị nhập khẩu máy và thiết bị 28
1.5- Đánh giá chung: mạnh, yếu của Cơ khí Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010 29
CHƯƠNG II: Tổng hợp thực trạng và đánh giá tình hình thực hiện phát triển 08 chuyên ngành
và nhóm sản phẩm cơ khí quan trọng, xác định theo quyết định 186/TTg về định hướng chiến
lược phát triển của các nhóm sản phẩm, các chính sách và giải pháp hỗ trợ ngành cơ khí phát
triển căn cứ theo quy hoạch phát triển của chính phủ. 36

2.1- Thực trạng ngành cơ khí qua xem xét chủ yếu ở 08 nhóm sản phẩm cơ khí trọng điểm
theo QĐ186 36

2.1.1- Chế tạo thiết bị đồng bộ 36
2.1.2/2.1.3- Máy động lực và Cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp
chế biến 37

2.1.4 Máy công cụ và dụng cụ công nghiệp 42
2.1.5- Cơ khí xây dựng 44
2.1.6- Cơ khí đóng tàu thủy 45
2.1.7- Thiết bị kỹ thuật điện 48
2.1.8 Cơ khí lắp ráp ô tô – Cơ khí giao thông vận tải 49
2.2 - Tình hình xây dựng các quy hoạch phân ngành: 51
2.3- Đánh giá các chỉ tiêu đề ra trong quy hoạch và kết quả thực hiện 51
2.3.1- Thiết bị toàn bộ, 52
2.3.2/3 – Máy động lực và Cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp chế
biến 53

2.3.4- Máy công cụ 53
2.3.5- Cơ khí xây dựng 55
2.3.6- Cơ khí đóng tàu thủy 55

2.3.7- Thiết bị kỹ thuật điện – điện tử 57
2.3.8- Cơ khí ô tô – Cơ khí giao thông vận tải 58
2.4- Đánh giá tình hình thực hiện các chính sách và giải pháp hỗ trợ ngành cơ khí phát triển
theo Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg 59

2.4.1- Chính sách tạo vốn: 59
2.4.2- Chính sách thuế: 60
2.4.3- Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển: 60
2.4.4- Chính sách thị trường: 61
2.4.5- Chính sách đào tạo nguồn nhân lực: 61
CHƯƠNG III: Đề xuất các giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí đến năm
2020 theo nội dung quyết định 186/TTg 64

NHẬN THỨC CHUNG 64

4
MỘT SỐ Ý KIẾN TƯ VẤN VÀ KIẾN NGHỊ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHẦN PHỤ LỤC 78



5
PHẦN MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
1. Cơ sở và luận cứ của đề tài
Năm 2010 là năm nước ta có nhiều sự kiện trọng đại và là năm chuẩn bị
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ
thuật, an ninh quốc phòng, y tế, giáo dục… đều có những tổng kết, đánh giá
thành tựu xây dựng, phát triển, ưu, khuyết sau nửa chặng đường 10 năm thự

c
hiện sự nghiệp CNH – HĐH đất nước như mục tiêu của Đảng cộng sản Việt Nam
đã khởi xướng và lãnh đạo. Đối với Ngành Cơ khí Việt Nam - một trong những
lĩnh vực công nghiệp quan trọng trong tiến trình thực hiện CNH – cũng cần được
xem xét và đánh gía thực trạng hiện tại đang như thế nào? và hướng phát triển
trong 10 năm tiếp đến 2020 sẽ cần ph
ải đạt được năng lực, trình độ đến đâu để
tương xứng với vị thế của một nước công nghiệp? Chính vì vậy nên Hiệp hội
Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam với trách nhiệm của mình và thực hiện nhiệm
vụ Bộ Công Thương giao thực hiện đề tài trên
2. Nhiệm vụ được giao
Chúng ta đã chứng kiến sự thă
ng trầm của ngành Cơ khí nước nhà qua
nhiều thời kỳ xây dựng đất nước kể từ 1975 đến 2000. Giờ đây chúng ta có thể
khẳng định: Kể từ ngày lập nước đến nay, chưa khi nào ngành Cơ khí lại được
Đảng và Nhà nước có những quyết định quan trọng khẳng định và thể hiện quyết
tâm xây dựng phát triển công nghiệp cơ khí để thực hiện CNH-HĐH đất nước
th
ắng lợi như những năm vừa qua. Đây là các yếu tố rất quyết định để tạo ra cơ
chế, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp cơ khí Việt Nam trong thời kỳ
xây dựng một nước Việt Nam độc lập đủ khả năng tham gia hội nhập kinh tế, văn
hóa, xã hội với thế giới đầy biến động cuối TK 20 sang TK 21. Trong quyết định
186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ
Tướng Chính phủ đã khẳng định
quan điểm phát triển cơ khí là: “Cơ khí là một trong những ngành công nghiệp
nền tảng, có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, củng cố an ninh
quốc phòng của đất nước.
Tập trung phát triển ngành cơ khí một cách có hiệu quả, bền vững trên
cơ sở phát huy mọi nguồn lực trong nước, kết hợp với nguồn lực bên ngoài.
Khuyến khích các thành phầ

n kinh tế tham gia phát triển ngành cơ khí có tổ
chức, phân công hợp tác hợp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, sắp xếp phát triển
và củng cố doanh nghiệp nhà nước về cơ khí đủ mạnh để giữ vai trò nòng cốt,
là lực lượng chủ lực của ngành.
Tập trung phát triển một số chuyên ngành, sản phẩm cơ khí trọng điểm,
nhằm khai thác, phát huy tốt nhất tiềm năng (tài nguyên, nguồ
n nhân lực) để
đáp ứng yêu cầu cơ bản của công cuộc phát triển đất nước.
Tăng cường năng lực tự nghiên cứu, chế tạo, đồng thời đẩy mạnh việc
tiếp thụ, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến nhằm đạt trình độ trung bình
tiên tiến của châu Á, tạo thêm nhiều sản phẩm cơ khí có khả năng cạnh tranh
cao. Nâng cao khả năng chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng cao n
ăng lực

6
của ngành cơ khí, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp khác của đất
nước.
Phấn đấu đến năm 2010 ngành cơ khí đáp ứng 45 – 50% nhu cầu sản
phẩm cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng”.
Tiếp đó, Bộ Chính trị Trung Ương Đảng lại có kết luận vào ngày 17 tháng
10 năm 2003 tại kết luận 25/KL/TW Bộ Chính trị
đã có ý kiến: “Phải coi cơ khí
là một ngành công nghiệp nền tảng, có vai trò đặc biệt quan trọng phát triển
kinh tế xã hội, đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng,
góp phần nâng cao đời sống nhân dân”. Từ những kết luận và quan điểm chỉ
đạo của Đảng, Nhà nước, Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam thấy cần
nghiêm túc xem xét đánh giá nhữ
ng mặt được và chưa được của ngành cơ khí
trong 10 năm qua để đề xuất các giải pháp nhằm tư vấn giúp Chính phủ hoạch
định các chủ trương, chính sách phát triển ngành cơ khí, góp phần phát triển sản

xuất trong nước, giảm nhập siêu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Xây dựng, gửi, thu thập phiếu khảo sát đến các doanh nghiệp, tổng hợp
tình hình phát triển ngành cơ khí Việt Nam giai đoạn 2003-2009 (đầu tư phát
triển, năng lực công nghệ, thiết bị, đào tạo nhân lực, đánh giá chất lượng sản
phẩm cơ khí và kết quả đạt được so với mục tiêu định hướng), chủ yếu là 08
nhóm sản phẩm cơ khí trọng điểm:
3.2 Khảo sát tại chỗ một số cơ sở điển hình;
3.3 Lập báo cáo tổng hợp;
3.4 Đề xuất các giải pháp thực hiệ
n chiến lược phát triển ngành cơ khí đến
năm 2020 theo nội dung quyết định 186/2002/QĐ-TTg ngày 26 /12/2002 của Thủ
Tướng Chính phủ
3.5 Lấy ý kiến chuyên gia về báo cáo đánh giá và đề xuất giải pháp.
4. Các cơ quan và chuyên gia tham gia nội dung đề tài.
5. Đề tài tập trung đánh gía 08 nhóm sản phẩm cơ khí trọng điểm nêu trong
QĐ 186/Ttg-Cp, đó là:
- Thiết bị toàn bộ,
- Máy động lực,
- Cơ khí phục vụ nông - lâm - ngư nghiệ
p và công nghiệp chế biến,
- Máy công cụ,
- Cơ khí xây dựng,
- Cơ khí đóng tàu thủy
- Thiết bị kỹ thuật điện - điện tử,
- Cơ khí ôtô - cơ khí giao thông vận tải.






7
CHƯƠNG I: Tổng quan về tình hình phát triển Ngành cơ khí Thế
giới và Việt Nam

1.1- Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo thế giới
Trong nền kinh tế của mỗi nước, ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đóng
vai trò quan trọng, góp phần làm thay đổi diện mạo mỗi nước và thế giới, với trên
20 triệu doanh nghiệp đang hoạt động trên các châu lục, chiếm tới 28% số lượng
việc làm và đóng góp 25% giá trị tổng sản phẩm của thế giới. KH&CN (Khoa
học và công nghệ) cơ
khí chế tạo thế giới trong thế kỷ XX đã có những bước phát
triển vượt bậc nhờ ứng dụng các công nghệ hiện đại như: Công nghệ thông tin,
vật liệu mới, tự động hoá Sau đây là tổng hợp một số thành tựu chính của
ngành cơ khí chế tạo thế giới trong thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI và xu hướng phát
triển; Những xu hướng này sẽ trở nên ph
ổ biến trong công nghiệp cơ khí chế tạo
đến năm 2030.
Một số thành tựu của công nghiệp cơ khí toàn cầu:

1.1.1 Công nghệ gia công chế tạo
Sự đổi mới liên tục của CAD/CAM đã giúp cho các nhà chế tạo tiết kiệm
về tài chính, thời gian, nguồn lực, vì CAD và CAM đều là những phương pháp
dựa vào máy tính để mã hoá dữ liệu hình học, nên tạo khả năng cho các quy trình
thiết kế và chế tạo
được tích hợp cao độ. Hệ CAD tất nhiên không hiểu được các
khái niệm của thế giới thực, chẳng hạn như bản chất hay chức năng của đối tượng
được thiết kế. Hệ CAD thi hành chức năng của mình nhờ khả năng mã hoá các
khái niệm hình học. Do vậy, quá trình thiết kế dựa vào CAD liên quan đến việc
chuyển ý tưởng của người thiết kế thành mô hình hình học. Các nhược đi

ểm khác
của CAD đang được khắc phục nhờ R&D trong lĩnh vực hệ chuyên gia. Lĩnh vực
này được hình thành từ các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo (Actifial Intelligence-
AI). Một ví dụ về hệ chuyên gia bao hàm việc kết hợp thông tin về bản chất của
vật liệu, trọng lượng, ứng lực, độ bền, độ dẻo vào phần mềm CAD. Nhờ tích hợp
được các dữ liệu đó và những dữ
liệu khác vào phần mềm nên hệ CAD có thể
biết được những gì mà người kỹ sư biết khi người đó tạo ra một bản vẽ thiết kế.
Sau đó, CAD có thể bắt chước cách nghĩ của người kỹ sư và thực hiện công việc
thiết kế. Do công nghệ CAD/CAM ngày càng hoàn thiện nên đã tạo cơ sở phát
triển các công nghệ gia công như:
Công nghệ tạo nguyên mẫu, đúc và cán nhanh: Ngoài vi
ệc tăng cường các
phương pháp gia công truyền thống, công nghệ tạo nguyên mẫu nhanh đang nổi
lên, đem lại cuộc cách mạng cho những khái niệm đang diễn ra, từ mô hình máy
tính đến chi tiết nguyên mẫu đã hoàn tất. Các thiết bị tạo nguyên mẫu nhanh in
hoặc tạo dựng các chi tiết 3D (3 chiều) trực tiếp từ mô hình lập thể 3D CAD bằng
các vật liệu polyme. Có 2 công nghệ thường dùng là in lito lập thể - SLA (Stereo
Lithography) và kết tủ
a. Công nghệ SLA sử dụng tia laser để kích hoạt quá trình
lưu hoá nhựa epoxy trong các lớp mỏng được xác định chính xác để tạo nên chi
tiết. Công nghệ kết tủa sử dụng các kim phun nhỏ để phủ các lớp mỏng polyme

8
dẻo nóng chảy, tạo nên chi tiết. Nhờ trực tiếp chế tạo ra các chi tiết từ những file
dữ liệu CAD, công nghệ tạo nguyên mẫu nhanh giúp giảm được rất nhiều thời
gian và chi phí liên quan tới việc chế tạo các mô hình nguyên mẫu để hiển thị các
thiết kế và kiểm tra mức độ phù hợp, hình dạng và chức năng.
Công nghệ tạo nguyên mẫu nhanh với chi phí thấp mở đường cho các công
nghệ đ

úc polyme và các kim loại mà nếu kết hợp với các công đoạn gia công
hoàn tất thì sẽ đem lại triển vọng giảm được rất nhiều thời gian và chi phí cho
một số chi tiết máy.
Công nghệ chế tạo điện hoá (Electrochemical Fabrication - EFAB): EFAB
là một công nghệ chế tạo các chi tiết không cần khuôn đúc. Công nghệ này có thể
dùng để chế tạo các chi tiết kim loại vi mô lập thể, có hình dạng phức tạp, mà các
công nghệ khác không thể
thực hiện được, chẳng hạn như công nghệ gia công
bằng tia lửa điện, công nghệ laser, công nghệ chế tạo vi mạch. Quy trình EFAB
tự động chế tạo các chi tiết kim loại bằng cách mạ điện để hình thành nên rất
nhiều lớp độc lập, theo một mẫu xác định, rồi kết hợp các lớp đó với nhau để tạo
ra chi tiết cần thiết. Quy trình này cũng tương t
ự như công nghệ tạo nguyên mẫu
nhanh, chẳng hạn như công nghệ in litô lập thể, dựa trên cơ sở xếp chồng nhiều
lớp đã được lập mẫu từ trước để tạo ra sản phẩm. Quy trình EFAB được thiết kế
để kết hợp những ưu điểm của các công nghệ gia công truyền thống với những ưu
điểm của công nghệ chế
tạo vi mạch bán dẫn. Với các công nghệ gia công chính
xác, chẳng hạn như laser hoặc gia công bằng tia lửa điện, có thể gia công một loạt
các chi tiết một cách nhanh chóng và đạt hiệu quả về chi phí nhờ một máy công
cụ đơn lẻ.
EFAB kết hợp được nhiều ưu điểm của gia công chính xác và công nghệ
chế tạo vi mô, tương tự như máy công cụ CNC, EFAB được thực hiện bằng một
h
ệ thống duy nhất, hoàn toàn tự động, có khả năng chế tạo các chi tiết từ khi bắt
đầu đến khi kết thúc. Bất kỳ một kỹ sư thiết kế nào đã quen với CAD 3D đều có
thể thực hiện quy trình này. EFAB là công nghệ gia công hiệu quả để sản xuất lô
lớn các chi tiết có độ chính xác cao (có thể chế tạo các chi tiết chứa những phần
tử nhỏ hơn 0,001 inch, độ dung sai dưới 0,0001 inch). EFAB k
ết hợp được các

đặc tính về tốc độ cao, dễ sử dụng và linh hoạt của máy công cụ với các đặc tính
về độ chính xác và khả năng mở rộng cấp độ của công nghệ chế tạo vi mạch bán
dẫn.
Công nghệ gia công cắt gọt vi mô tốc độ cao (Micro-Tooling): Có nhiều
lợi ích khi sử dụng gia công tốc độ cao - HSM (High Speed Machining) với các
nguyên công cắt gọt vi mô. Hiện chưa có định nghĩa thố
ng nhất hoặc các tham số
tuyệt đối về HSM nhưng trong thực tế người ta thường gia công với tốc độ trục
chính là 25.000 vòng/phút hoặc cao hơn.
Công nghệ gia công bằng tia lửa điện: Gia công bằng tia lửa điện EMD
(Electrical Discharge Machining) có thể được ứng dụng để cắt các hình dạng
khác nhau, đặc biệt là các vật liệu cứng, chẳng hạn như thép dụng cụ. Quá trình
gia công bằng EMD như sau: Tạo ra mộ
t loạt tia lửa điện có tốc độ cao giữa dụng
cụ (điện cực), phôi và chất lỏng điện phân; Phôi được nhúng chìm trong chất lỏng

9
cách điện, chẳng hạn như dầu và được tiệm cận tới dụng cụ; dụng cụ được nối
với nguồn điện một chiều cao áp (nguồn điện này tạo ra hàng triệu hồ quang nhỏ,
có tác dụng công phá phôi theo từng lượng nhỏ); Các hạt kim loại giải phóng ra,
thường có dạng hình cầu rỗng, được đưa ra khỏi khu vực gia công bằng chất lỏng
cách đi
ện. EDM có thể được ứng dụng để cắt, khoan, tạo khuôn, dập lỗ. Công
nghệ này cũng có thể được dùng để thay thế cho các nguyên công phay, cắt và
khoan bằng cơ khí, cũng như cắt và khoan bằng laser. Tác dụng giảm phế thải
chủ yếu của EDM là không để xảy ra gãy dụng cụ. Nó có vai trò quan trọng trong
những ứng dụng có nhiều nguy cơ gãy dụng cụ.
Gia công bằng tia nước: Công nghệ này được ứng dụ
ng để thay thế các
công nghệ cắt bằng cơ khí thông thường, cũng như thay thế cho công nghệ laser,

plasma và ôxy. Hệ thống tạo tia nước bao gồm một số máy bơm chuyên dụng và
áp suất nước được gia cường lên hơn 3.400 Atm. Tiếp đó nó được nén qua kim
phun bằng kim loại hoặc saphire để tạo ra tia nước có đường kính 2 mm và đạt
tới tốc độ cao hơn nhiều lần so với tốc độ âm thanh. Đối với nhữ
ng vật liệu quá
cứng, có thể bổ sung thêm bột mài để tăng cường tác dụng cắt. Ứng dụng công
nghệ gia công bằng tia nước có thể giảm hoặc loại bỏ những loại phế thải nhất
định, bao gồm chất lỏng gia công, nước thải bị ô nhiễm, tro, xỉ

1.1.2- Vật liệu chế tạo
Trong ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, có 3 nhóm vật liệu có tính truyền
thống,
đó là vật liệu kim loại, vật liệu hữu cơ polyme và vật liệu vô cơ ceramic.
Một loại vật liệu mới khác - vật liệu compozit đang được ưu tiên phát triển.
Compozit chính là sự kết hợp nhân tạo của hai hoặc ba loại vật liệu cơ bản nói
trên.
Vật liệu kim loại, trước hết là thép, vẫn giữ vai trò then chốt trong ngành
công nghiệp chế tạo. Trong những thập kỷ gần
đây công nghệ vật liệu đang đi
vào nghiên cứu và sử dụng các loại thép có chất lượng cao như thép hợp kim thấp
độ bền cao, thép hợp kim hoá vi lượng, thép nitơ, thép kết cấu siêu bền. Bên cạnh
đó, nhôm cũng đóng vai trò không nhỏ trong ngành công nghiệp chế tạo. Hợp
kim nhôm có độ bền cao, chống ăn mòn tốt, đã trở thành loại vật liệu thích hợp
trong ngành công nghiệp chế tạo ô tô, máy bay, tàu thuỷ.
Vật liệ
u polyme, có nhiều ưu điểm như tính dẻo cao, tính ổn định hoá học
cao trong nhiều môi trường cùng với khả năng dễ tạo hình và gia công nếu có,
phạm vi ứng dụng rộng. Tuy nhiên, polyme là vật liệu kết cấu nên có những hạn
chế vì độ bền chưa cao, khả năng chịu nhiệt thấp, tuổi thọ ngắn.
Vật liệu gốm thường, chỉ sử dụng giới hạn trong nhóm v

ật liệu chịu lửa,
vật liệu cắt gọt nhưng hiện người ta đang phát triển vật liệu gốm kết cấu. Các loại
động cơ chế tạo từ gốm kết cấu hệ cacbit đã được nghiên cứu chế thử và mở ra kỷ
nguyên mới cho việc sử dụng động cơ chạy bằng nhiên liệu hydro có hiệu quả
cao, không gây ô nhiễm môi trường. Gốm thu
ỷ tinh cũng là một loại gốm kết cấu
đầy tiềm năng.

10
Vật liệu compozit, về thực chất là một kiểu lai, giữa hai hoặc nhiều loại vật
liệu, sao cho tính chất của chúng bổ sung cho nhau. Đối với compozit kết cấu thì
yêu cầu về độ bền cao, tính dẻo tốt là những yêu cầu hàng đầu. Việc kiểm soát
được quá trình xảy ra khi chế tạo compozit có tầm quan trọng đặc biệt để phát
triển loại vật liệu này.
Vật liệu chế tạo d
ụng cụ cắt gọt

Vật liệu sử dụng phổ biến nhất để chế tạo dụng cụ cắt gọt có thành phần là
carbide phủ (58%), cermet (28%) và carbide cement hoá (14%). Cermet là hạt
gốm được khuếch tán vào nền kim loại. Vật liệu cermet kết hợp được đặc tính
chịu nhiệt độ cao của gốm với độ dai và độ dẻo của carbide. Với xu thế vươn tới
tốc
độ gia công và hoàn tất ngày càng cao, các dụng cụ cắt gọt sử dụng cermet ở
Nhật Bản chiếm 72% tổng số dụng cụ cermet của toàn thế giới. Các dụng cụ
dùng carbide phủ phổ biến nhất có lớp phủ dày 0,5 mm, bao gồm 6-8 micron là
TiCN, 2-3 micron là Al
2
O
3
và 0,5 micron TiN ở lớp ngoài cùng. Lớp phủ kim c-

ương sử dụng kỹ thuật kết tủa hơi hoá học (Chemical Vapor Deposition-CVD)
cũng được áp dụng rất phổ biến ở Nhật Bản. Đầu dụng cụ DC46 phủ kim cương
của Mitsubishi có lớp phủ cement hoá. Vấn đề cần khắc phục đối với dụng cụ
phủ kim cương là độ bám dính của lớp phủ. Các hãng chế tạo đã áp dụ
ng các
phương pháp cải thiện khác nhau, ví dụ, đối với việc gia công hợp kim nhôm có
hàm lượng silic cao (18%), đòi hỏi lớp kim cương dày tới 10 micron, thì vấn đề
độ bám dính là hết sức quan trọng.
Vai trò của khoa học vật liệu cũng không hề thay đổi ở kỷ nguyên thông
tin ngày nay, nếu không chế tạo được vật liệu silic có độ tinh khiết đến
99,99999% thì sẽ không có chip máy tính, điện thoại tế bào hoặc mạng cáp
quang. Những thập k
ỷ vừa qua, ngành hoá vô cơ đã điều chế được vô số kim loại,
hợp kim và gốm, giúp máy bay có thể bay cao hơn và nhanh hơn, giúp ôtô trở
nên nhẹ hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn
Ngày nay, một lần nữa khoa học vật liệu lại đang chuẩn bị biến đổi thế
giới. Không thoả mãn với những nguyên vật liệu khai thác được trong lòng đất,
các nhà nghiên cứu đang lao vào khám phá và tạo ra các cấu trúc hoàn toàn mới.
Họ thực hiện điều đó bằng cách phá vỡ những bức rào ngăn cách giữa hoá hữu cơ
và hoá vô cơ, điều mà chỉ cách đây ít lâu vẫn bị coi là giả khoa học (Pseudo-
Science). Những hợp chất vô-hữu cơ của ngày mai sẽ được điều chế để phục vụ
đúng nhu cầu theo phương pháp từ dưới đi lên, từ nhỏ đến lớn, tức là ghép những
nguyên tử hoặc phân tử với nhau để nhận được những tính chất chính xác theo
đúng nhu cầu sử dụng. Arden Bemen, một kỹ sư ở trường Đại học Durdue gọi
giai đoạn này là buổi bình minh của một kỷ nguyên vật liệu mới, với sự đáp ứng
từng nhu cầu sử dụng cụ thể. Kỷ nguyên này sẽ ra đời những loại vật liệu mới
chư
a có trong thiên nhiên. Đó sẽ là những chất phun phủ có chứa những hạt gốm
vô cùng nhỏ, giúp vật liệu có khả năng chống mài mòn, những dược phẩm và
chất dẻo mới, là những pin sắt - polyme có điện lượng lớn gấp đôi so với những

loại pin chúng ta dùng hiện nay. Có thể, chúng ta sẽ có được những tấm kim loại
- compozit để làm vỏ ôtô có khả năng phục hồi lại hình dáng cũ sau khi bị bi
ến
dạng bởi những cú va đập. Sẽ ra đời những vật liệu compozit nhẹ và dai để tăng

11
công suất của động cơ phản lực. Sẽ xuất hiện những vật liệu thông minh, mô
phỏng các hệ thống sinh học, có khả năng thích ứng với điều kiện môi trường, bù
đắp lượng hao mòn và cảnh báo khi sắp có sự cố. Với kỹ thuật và công nghệ
nano, hầu hết các vật liệu mà ta muốn có đều có thể sản xuất ra được - đây là
nhận định của W. Lance Haworth, chuyên gia đ
iều hành hoạt động nghiên cứu
vật liệu của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ. Hay quan điểm của John Weaver,
Trưởng khoa Vật liệu của Trường Đại học Illinois: “ý tưởng đặt ra ở đây là khai
thác, tìm hiểu những cơ chế phân tử có được nhờ quá trình tiến hoá của tự nhiên
để sản xuất những vật liệu mới. Những vật liệu chúng ta sáng chế và sản xuất ra
đượ
c từ trước tới nay chỉ giống như phần nhìn thấy được, còn phần rất lớn (chưa
nhìn thấy) đang chờ sự phát minh và khám phá, đây chính là lĩnh vực của vật liệu
nano”.
Những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp đã có những công
trình nghiên cứu và đã tạo ra được những vật liệu nano ứng dụng vào trong ngành
cơ khí chế tạo để chế tạo ra các loạ
i rôbôt mini, các dụng cụ y sinh phục vụ công
việc chữa bệnh. Các vật liệu nano khác được sử dụng trong việc chế tạo các loại
máy chính xác, máy siêu chính xác, trong ngành hàng không vũ trụ, trong công
nghiệp quốc phòng, trong công nghệ thăm dò và khai thác tài nguyên biển và đại
dương.

1.1.3- Những xu hướng phát triển trong ngành cơ khí chế tạo của thế giới đến

năm 2030
Những năm đầu của thế kỷ XXI, nhân loại được chứng kiế
n nhiều biến đổi
sâu rộng lớn của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
KH&CN hiện đại, mà đặc trưng là các ngành công nghệ cao như công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới - công nghệ nano, công nghệ
năng lượng mới, công nghệ hàng không và vũ trụ. Các công nghệ này đang tác
động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, kinh t
ế, chính trị quốc tế, làm thay
đổi diện mạo thế giới đương đại. Trong sự phát triển vĩ đại đó, ngành công
nghiệp cơ khí chế tạo đóng vai trò có tính nền tảng và có sự hiện diện hầu như
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế.
Chính vì vậy, xu hướng phát triển KH&CN cơ khí chế tạo vẫn được chú
trọng và chủ
yếu tập trung phát triển một số lĩnh vực sau đây:
Về thiết kế và quy trình gia công chế tạo:
Tiếp tục nghiên cứu và nâng
cấp hệ CAD/CAM, trong đó chú trọng phát triển các loại phần mềm ứng dụng,
phần mềm thông minh tiện lợi trong giao diện người - máy, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao trong thiết kế và gia công chế tạo. Đến năm 2030, sẽ thay đổi một
cách căn bản phương th
ức thiết kế, các nhà thiết kế chủ yếu làm việc bằng máy
tính trực tuyến (On-Line). Thiết kế sản phẩm có sử dụng các vật liệu trí tuệ. Thiết
kế và lập kế hoạch chế tạo số và ảo. Phương thức thiết kế theo kiểu môdun cho
các hệ thống chế tạo liên tục. Tập trung hơn vào tự động hoá các dây chuyền chế
tạo, các quy trình tiên tiến nhất. Phát triể
n công nghệ gia công ở cấp nano (trong
phạm vi 0,1-100 nano) để tạo ra các cấu trúc nano. Chế tạo ở cấp phân tử để tạo

12

dựng các hệ thống từ cấp nguyên tử hoặc phân tử. Tập trung nghiên cứu để tạo ra
các công nghệ sử dụng nhiều tri thức để tiến tới chế tạo ra các loại sản phẩm cơ
khí gọn, nhẹ ít tiêu hao vật liệu, năng lượng và thân thiện với môi trường. Nghiên
cứu phát triển các khái niệm công nghệ gia công mới trên cơ sở hội tụ các công
nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ v
ật liệu mới, công nghệ nano, công
nghệ sinh học. Nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống cảm biến trong công nghệ lắp
ráp các sản phẩm phức tạp. Nghiên cứu phát triển công nghệ tự động mới dựa
vào ứng dụng giao diện người - máy thông minh có nhận thức. Nghiên cứu các
khái niệm rôbôt mới như rôbôt dịch vụ, rôbôt tự thích nghi, rôbôt có nhận thức,
các bầy đoàn rôbôt tự quản.
Về vật liệu chế
tạo
:
Tiếp tục nghiên cứu để tạo ra tri thức mới về vật liệu
chế tạo chất lượng cao, vật liệu thông minh phục vụ các quy trình chế tạo. Nghiên
cứu các vật liệu sử dụng nhiều tri thức với các thuộc tính phù hợp, các vật liệu
gốm mới như gốm áp điện, gốm sinh học, màng gốm và vật liệu thuỷ tinh (gốm
thuỷ tinh, composit g
ốm - thuỷ tinh và thuỷ tinh dẫn điện). Nghiên cứu việc sắp
xếp trật tự trong các khối đồng nhất polyme. Tiếp tục nghiên cứu công nghệ in
litô với các vật liệu mới, tính ổn định của cấu trúc nano 3D. Nghiên cứu sự tích
hợp của các mức độ phân tử nano macro trong công nghệ hoá học và các vật liệu
gia công công nghiệp. Nghiên cứu ứng dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp
chế tạo các vật liệu nano m
ới, vật liệu sinh học và vật liệu ghép.
Khoa học nano và công nghệ nano: Tiếp tục nghiên cứu khả năng chế tạo
các cấu trúc nano phức tạp và siêu hàm lượng cao. Chế tạo các thiết bị nano dưới
20 nm, chế tạo các cấu trúc nano 3D phức hợp và tích hợp đa năng. Phát triển các
mô hình tích hợp hàng loạt công nghệ chế tạo nano mới. Nghiên cứu các thiết bị

cảm biến cấp nano, tổng hợp ố
ng nano đồng nhất, chế tạo dây nano và các bảng
nano, phát triển các cấu trúc nano từ nhiều loại vật liệu. Nghiên cứu chế tạo các
động cơ cỡ nano, máy móc kích cỡ nano.
Về công nghệ chế tạo:
Phát triển các IMS (hệ thống chế tạo thông minh
không giới hạn -Intelligent Manufacturing Systems). Các IS (hệ thống thông
minh -Intelligent System) hứa hẹn rất lớn trong các quy trình chế tạo tự động hoá
công nghiệp và các doanh nghiệp trong tương lai. Các hệ thống này đang thu hút
đượ
c sự quan tâm ngày càng tăng của các ngành công nghiệp và đang được ứng
dụng vào toàn bộ phạm vi của các hoạt động chế tạo để tạo được sức cạnh tranh
toàn cầu. Giá trị và tác động của các công nghệ IS còn to lớn hơn so với các cuộc
cách mạng công nghiệp trước đây, góp phần đưa lại kỷ nguyên mới của các
ngành công nghiệp chế tạo. IS được định nghĩa là các hệ thống, trong đ
ó mô
phỏng và áp dụng tích cực một số khía cạnh của trí tuệ con người nhằm thực thi
nhiệm vụ. Hơn thế nữa, IS còn cố gắng nâng cao năng lực như con người để cảm
thụ, suy luận và ra quyết định hành động. IS tạo khả năng cho các máy móc/thiết
bị dự đoán được các yêu cầu và ứng phó hữu hiệu trong những hoàn cảnh phức
tạp, chưa biế
t trước và chưa thể dự báo trước.
Xu hướng của ngành công nghiệp cơ khí chế tạo (tới năm 2028), một lần
nữa được khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh về tương lai của ngành cơ khí chế
tạo (4/2008) do ASME (Hiệp hội cơ khí chế tạo Mỹ) triệu tập, với trên 120 kỹ sư

13
và các nhà khoa học hàng đầu của 19 quốc gia, đại diện cho khu vực công
thương, hàn lâm và Chính phủ tham gia, để xem xét viễn cảnh của ngành cơ khí
từ nay đến năm 2028. Một trong những kết luận then chốt của Hội nghị nói trên

là: công nghệ nano (CNNN) và công nghệ sinh học (CNSH) sẽ là những phát
triển công nghệ chủ đạo trong 20 năm tới và sẽ được kết hợp vào tất cả các khía
cạnh của công nghệ có ảnh hưởng tớ
i cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
CNNN và CNSH sẽ cung cấp những “chi tiết lắp ráp” để những kỹ sư (cơ khí)
tương lai sử dụng nhằm giải quyết những vấn đề thúc ép trong những lĩnh vực
phức tạp; Chẳng hạn như y tế, năng lượng, quản lý nước, hàng không, nông
nghiệp và môi trường. “Các kỹ sư cơ khí chế tạo 20 năm tới sẽ có nhiệm v
ụ phát
triển những công nghệ để giúp cho môi trường toàn cầu sạch hơn, lành mạnh
hơn, an toàn hơn và bền vững”.
Một khi CNNN và CNSH nằm ở tâm điểm của đổi mới công nghệ, thì cơ hội to
lớn nhất của người kỹ sư cơ khí sẽ nằm ở vùng giao nhau của 2 lĩnh vực công
nghệ này.
Trong số nhiều xu hướng và quan điểm mà Hội nghị trên đưa ra, có 2 kế
t
luận đặc biệt đáng chú ý là: (1) Chương trình đào tạo kỹ sư cơ khí chế tạo cần
phải được cấu trúc lại để bao hàm việc thoả mãn những nhu cầu của những
người nghèo khó; và (2) Vì toàn cầu hoá làm cho Trái đất trở nên “phẳng”, nên
sự hội tụ của những công nghệ sẽ đem lại sự phục hưng cho các doanh nhân kỹ
thuật, thực sự thúc đẩy các hoạt độ
ng địa phương, có tính chất phân tán.
Một trong những thách thức lớn nhất đặt ra cho các kỹ sư cơ khí chế tạo là
phát triển những giải pháp kỹ thuật sản xuất để làm cho thế giới sạch hơn, lành
mạnh hơn, an toàn hơn và bền vững. Xét ở bình diện toàn cầu, có một thị trường
rất lớn để các kỹ sư cơ khí chế tạo tác nghiệp, đó là phục v
ụ cho những người
còn nghèo khó, báo cáo của ASME ước tính rằng hiện có khoảng 4 tỷ người sống
ở mức dưới 2 USD/ngày. Tới năm 2030, Trái đất sẽ có thêm khoảng 2 tỷ người,
trong số đó 95% là ở những nước đang phát triển và kém phát triển. Việc phục

vụ cho lớp người này đòi hỏi phải cấu trúc lại nhiều lĩnh vực mà người kỹ sư chế
tạo được đ
ào tạo cần có cách tiếp cận bằng nghiệp vụ của mình. Hơn nữa, “Thị
trường này không chỉ gồm những người nghèo khó, mà cả những doanh nhân tài
giỏi, nhà sáng chế và những người tiêu dùng tiềm năng”. Hiện tại, phần lớn các
trường kỹ thuật đều không nhằm thỏa mãn những nhu cầu của tầng lớp người
nghèo, cho dù nhiều người trong số này sống ở những nước công nghiệp. Tuy
nhiên, nhu cầu đối với các giải pháp kỹ thuật có khả năng phát triển thích hợp
với điều kiện của từng địa phương, dành cho những tầng lớp dân cư nghèo khó là
một yếu tố then chốt để phát triển bền vững.
Chương trình kỹ sư không biên giới đang thúc đẩy sự phát triển bền vững
và đào tạo các kỹ sư những kỹ năng có giá trị cho t
ương lai. Đó là, tiến hành các
nguyên công chế tạo cơ khí ngay tại cơ sở (tại gia đình). “Tới 2028, những tiến
bộ trong công nghệ chế tạo được máy tính hỗ trợ. Robot học, CNNN và CNSH sẽ
phổ cập hoá công việc thiết kế và chế tạo những cơ cấu mới. Người kỹ sư sẽ có
khả năng thiết kế những giải pháp cho các vấn đề cụ thể tạ
i địa phương. Từng kỹ
sư sẽ có phạm vi rộng lớn hơn để thiết kế và chế tạo những cơ cấu của mình, trên
cơ sở sử dụng những vật liệu và nhân lực nội sinh, tại chỗ. Nhân lực kỹ thuật cơ

14
khí sẽ thay đổi, khi đó số lượng kỹ sư cơ khí làm việc tại gia trở nên đông đảo
hơn với tư cách là những hãng kỹ thuật thầu phụ (phụ trợ) hoặc những cơ sở gia
công độc lập.
Xu hướng chế tạo phân tán hiện đã hình thành trong một số hãng công
nghiệp trên phạm vi toàn cầu, ASME cho rằng các công nghệ đang nổi trong
CAD, vật liệu học, Robottics, CNNN và CNNS sẽ k
ết hợp với nhau làm biến đổi
phương thức làm việc của các kỹ sư. Tốc độ của quá trình chế biến và của mạng

lưới tăng lên sẽ cho phép người kỹ sư trong tương lai thiết kế ra toàn bộ các sản
phẩm với tư cách là một hệ thống, chứ không phải những bộ phận tách rời. Điều
này sẽ tăng cường năng lực củ
a họ và tạo khả năng hoàn thành ở bất kỳ đâu
những thiết kế phức tạp hơn. “Trong vòng 20 năm tới, có nhiều khả năng là
những nhà “chế tạo tại gia” sẽ có sức hấp dẫn về kinh tế và có thể cung cấp sản
phẩm cho bất kỳ ai có nhu cầu ở phạm vi ngoài biên giới quốc gia. Các kỹ sư sẽ
hoạt động như những nhà tác nghiệp
độc lập, tương tác với các đồng nghiệp ở
trên khắp thế giới. Họ có thể hoàn thành các thiết kế tại gia nhờ các hệ thống
CAD tiên tiến hoặc cộng tác với các đồng nghiệp trên toàn cầu ở các thế giới ảo.
Các kỹ sư cơ khí sẽ có khả năng sử dụng công nghệ chế tạo tại gia để thử nghiệm
mô phỏng nhiều thiết kế củ
a họ. Các kỹ sư tương lai sẽ có những công cụ tốt hơn
để tạo dựng sự nghiệp, tăng thu nhập với tư cách là các nhà sáng chế cá nhân,
các doanh nghiệp độc lập, hoặc là những nhân viên trong các doanh nghiệp phân
tán; Những doanh nghiệp này là nơi thu hút tài năng kỹ thuật của khắp thế giới.
Chúng thực sự là những mắt xích trong chuỗi sản xuất cơ khí chế tạo có qui mô
toàn cầu (Theo Nanowerk, 8/2008, Dịch XM).
Các nướ
c phát triển có nền công nghiệp hiện đại như Nhật Bản và Đài
Loan: ngành sản xuất máy công cụ
đã được hình thành vả phát triển đã khá lâu và
các hãng đều đã có tiếng trên thị trường. Các nước này cũng có một thị trường
sản xuất các phụ kiện nên sự phát triển ngày càng vững chắc. Bên cạnh đó, hầu
hết các hãng sản xuất máy công cụ đặc biệt là CNC đều đã có các nhà máy sản
xuất hoặc lắp ráp tại Trung Quốc. Bên cạnh việc chế tạo máy, các ngành công
nghiệp ứng dụng CNC như
chế tạo linh kiện, phụ kiện có độ chính xác cao, loạt
lớn, khuôn mẫu,… cũng rất phát triển. Có thể nhìn thấy Thái Lan là một trong

những nước ứng dụng rất tốt chính sách phát triển do Chính phủ đề ra: Trở thành
nhà cung cấp phụ tùng cho các ngành công nghiệp xe máy và ôtô. Chỉ trong
khoảng 10 năm (1980-1990), Thái Lan đã trở thành nhà cung cấp phụ tùng lớn
nhất thế giới, chất lượng tốt, giá thành thấp.
Dịch vụ kỹ thuật t
ại các nước rất phát triển : Việc đào tạo rất được chú
trọng như ở Singapore. Các hãng đều mở các văn phòng buôn bán và kèm dịch
vụ hỗ trợ kỹ thuật tại đây. Có một giai đoạn, mọi thiết bị công nghệ cao khi nhập
vào Việt Nam đều có các chuyên gia Singapore đến giảng dạy. Malaysia cũng là
một nước lấy dịch vụ làm mũi nhọn. Một công ty bán phần mềm CAD/CAM tại
đây có thể kiếm được khoảng 1,5 triệu USD/năm, rất nhiều công ty lấy việc đào
tạo làm nguồn thu chính.
Xu hướng mới nhất ở châu Âu hiện nay và còn đi xa hơn nữa, đó là các
nhà sản xuất máy công cụ CNC đưa ra thị trường ngày càng nhiều các Trung tâm

15
Tiện-Khoan-Phay hỗn hợp(FMS). Lý do là khoảng 90% các chi tiết tiện đều đòi
hỏi phải được khoan và phay tiếp theo. Các chi tiết phức tạp yêu cầu phải tiện,
khoan các lỗ, phay các rãnh và các bề mặt, phay răng , phay ren nay được gia
công hỗn hợp trên cùng một hay nhiều máy công cụ CNC có tới 5 trục gia công
nội suy. Điều đó tạo nên độ linh hoạt rất cao và sự tập trung nguyên công cao
nhất của thiết bị. Các trung tâm Tiện-Khoan-Phay hiện nay có khả n
ăng gia công
phong phú một cách khó tin nhưng lại là sự thật sinh động. Chúng đảm nhiệm
hàng loạt các công nghệ gia công sau đây được tích hợp trên cùng một máy CNC:
đó là các công nghệ gia công: Tiện, Phay, Khoan, Đo lường tự động, Khoan lỗ
sâu, Phay-Tiện, Phay trục cam, Phay 5 trục, Phay lăn bánh răng, Xọc
răng,v.v Hiện nay, những Trung tâm Tiện-Khoan-Phay cỡ lớn có khả năng gia
công các chi tiết với đường kính trên 1000mm, chiều dài nhiều mét và có khối
lượng đến 10 tấn.

Khủng ho
ảng kinh tế đã tác động mạnh đến qui mô sản xuất của công
nghiệp chế tạo cơ khí nên đầu tư và tiêu dùng giảm rõ rệt, dẫn đến xu thế phân
công lao động mới (chuyển dịch sản xuất và thiết bị, công nghệ) đã lại có tác
động tích cực với một số nước và lĩnh vực sản xuất cơ khí. Với một khoản đầu tư
không lớn có thể mua l
ại được thiết bị hiện đại, tiến tiến để duy trì sản xuất cơ
khí. Hơn nữa chính khủng hoảng có thể giúp các doanh nghiệp cơ khí tìm ra các
khiếm khuyết, buộc phải cơ cấu lại để phát triển hoàn thiện và bền vững hơn.

1.2- Thực trạng chung về cơ khí chế tạo ở Việt Nam đến 2009
1.2.1. Số lượng cơ sở công nghiệp
Theo niên giám thống kê mớ
i nhất, cả nước có 7.803 doanh nghiệp cơ khí;
Tăng trung bình 22,7%/năm trong giai đoạn 2001-2008. Trong đó có 6 DN lớn có
trên 5000 lao động (1 DN đóng tàu và 5 DN sản xuất máy và thiết bị điện); Nếu
tính theo qui mô vốn trên 500 tỷ đồng, có 95 DN.

1.2.2. Lực lượng lao động công nghiệp.
Theo Niên giám Thống kê VN, cả nước có hơn 538.700 lao động thuần cơ
khí; Tăng trưởng 14,38%/năm trong giai đoạn 2001-2008. Trong đó có gần 2 vạn
cán bộ kỹ thuật được
đào tạo chính quy có trình độ khá và tập trung ở hàng chục
doanh nghiệp lớn và 12 viện nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thiết kế về cơ khí.
Đây là nguồn nhân lực hết sức quan trọng để phát triển ngành này
Tuy nhiên trình độ nhân lực trong thiết kế, chế tạo còn chưa đồng đều, khả
năng gia công các chi tiết phức tạp còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do
không được cập nhật kiến thức thườ
ng xuyên và ít được tu nghiệp ở các nước tiên
tiến (xem phụ lục về nhân lực).


1.2.3. Kết quả hoạt động công nghiệp
* Giá trị sản xuất công nghiệp và tăng trưởng giai đoạn 2001 – 2009 và dự
báo 2010.

16
Theo Niên giám thống kê, trong 13 năm qua, giá trị sản xuất ngành cơ khí
đã tăng từ 13.800 tỉ đồng năm 1995 lên 22.225 tỉ đồng năm 2000; Đạt 61.430,7 tỷ
đồng năm 2005 và đạt 143.715 tỷ đồng năm 2009 (theo giá cố định 1994); Dự
báo năm 2010 sẽ đạt 175.185 tỷ đồng VN; Đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hơn
23%/năm trong giai đoạn 2001-2009; Riêng giai đoạn 2006-2009 ước tính tăng
23,67%/năm và dự báo tăng 23,32%/n
ăm trong giai đoạn 2006-2010.
Tuy nhiên, theo đánh giá mấy năm qua, tỷ lệ giá trị sản xuất cơ khí trong
nước trên tổng giá trị toàn ngành cơ khí bị suy giảm mạnh. Nếu như năm 2005 tỷ
lệ này là hơn 37%, thì đến năm 2008 còn 29,8%. Nếu so với mức này của năm
1995 (một năm sa sút của ngành) thì chỉ tiêu này vẫn dậm chân tại chỗ.

Bảng1:
Giá trị sản xuất công nghiệp theo ngành
Đơn vị: tỷ đồng, giá cố định năm 1994
GTSXCN các năm %/năm
T
T
Chỉ tiêu
2000 2005 2007 2008 2009 2010
2001-
2005
2006-
2010

A
T
ổng CN
cả nước
198326 416613 568140.6 647231.7
- -
16.00

B Tổng
ngành cơ
khí
22224.7 61430.7 97511.5 121287.3 143715 175185 22.55 23.32
2/1,% 14,75 17,16 18,74 - -

1.
S
P
t
ừ Kim
loại
5768.4 17595.2 27972.3 33709.4 38626 47700 24.99 22.07
2.
M
áy móc
thiết bị
khác
2760.9 5494.9 7228.3 9042.6 11225 13120 14.76 19.01
3.
M
áy móc

và thiết bị
điện
3622.2 11991.6 20185.8 25272.7 28958 36490 27.05 24.93
4.
D
ụng cụ y
tế/chính
xác
427.1 761.4 1152.9 1511.6 2165 2595 12.26 27.79
5.
X
e có động
cơ, rơ
móc
3231.5 9753.3 12698.3 15711.6 18003 21780 24.72 17.43
6.
P
hương
tiện VT
khác
6414.6 15834.3 28273.9 36039.4 44738 54130 19.81 27.87

S
ố kiểm tra
22224.7 61430.7 97511.5 121287.3 143715
175815
22.55
23.41
Nguồn: Xử lý Niêm giám thống kê năm 2008 và báo cáo các Tổng Công ty



Giá trị gia tăng ngành công nghiệp cơ khí giai đoạn 2001-2009 và dự báo 2010.
Chỉ tiêu này tăng trưởng bình quân gần 18,6% trong giai đoạn 2001-2005;
đạt 20,3% trong giai đoạn 2006-2009 và dự báo đạt 20,33% trong giai đoạn
2006-2010.

17
Bảng 2 Giá trị gia tăng ngành công nghiệp cơ khí giai đoạn 2001-2009 và dự báo
2010
VA các năm, tỷ đồng
BQ, %/năm

S
T
Mặt hàng
2000 2005 2007 2008
2009 2010 2001-
2005
2006-
2010
Tổng ngành
cơ khí
6420.3 13968.8 20281.3 23622.6 29258
35239
16.82 20.33
1 SP từ Kim
loại
1738.0 4076.5 5770.0 6683.5 8090 9585 18.59 18.69
2 Máy móc
thiết bị khác

778.7 1252.5 1612.2 1937.1 2469 2925 9.97 18.49
3 Máy móc và
thiết bị điện
1081.2 2781.2 4410.4 5240.4 6368 7833 20.80 23.01
4 Dụng cụ y
tế/chính xác
130.9 180.8 302.6 339.9 499 638 6.67 28.89
5 Xe có động
cơ, rơ móc
1121.9 2543.8 3073.9 3578.4 4336 4940 17.79 14.26
6 Phương tiện
VT khác
1569.6 3134.0 5112.2 5843.3 7496 9318 14.83 24.36
Nguồn: IPSI VA: Giá trị gia tăng

Bảng 3: * Tỷ lệ VA/GO
VA/GO,%
ST Các chỉ tiêu
2000 2005 2007 2008 2009 2010
1 Tổng ngành cơ khí
28.89 22.74 20.80 19.48 20.36 20.12
2 SP từ Kim loại
30.13 23.17 20.63 19.83 20.94 20.09
3 Máy móc thiết bị khác
28.20 22.79 22.30 21.42 22.00 22.29
4 Máy móc và thiết bị điện
29.85 23.19 21.85 20.74 21.99 21.47
5 Dụng cụ y tế/chính xác
30.65 23.75 26.25 22.49 23.05 24.59
6 Xe có động cơ, rơ móc

34.72 26.08 24.21 22.78 24.08 22.68
7 Phương tiện VT khác
24.47 19.79 18.08 16.21 16.76 17.21
Nguồn: IPSI VA: Giá trị gia tăng GO: Giá trị sản xuất công nghiệp

Bảng 4 * Năng suất lao động tính theo VA (triệu đồng/người/năm, giá 94)

VA/số lao động, tr.đ/ng/năm BQ%/năm
ST Các chỉ tiêu
2000 2005 2007 2008
2001-
2005
2006-
2008
1 Tổng ngành cơ khí 34.929 34.717 37.756 43.851 -0.12 8.10
2 SP từ Kim loại 34.233 31.354 32.767 35.894 -1.74 4.61
3 Máy móc thiết bị
khác
25.043 23.053 25.007 32.293 -1.64 11.89
4 Máy móc và thiết bị 27.525 34.758 40.168 47.116 4.78 10.67

18
điện
5 Dụng cụ y tế/chính
xác
19.132 15.982 18.036 17.049 -3.53 2.18
6 Xe có động cơ, rơ
móc
71.912 69.123 68.617 80.948 -0.79 5.41
7 Phương tiện VT khác 39.023 34.868 40.822 49.879 -2.23 12.68

Nguồn: IPSI VA: Giá trị gia tăng

* Sản phẩm chủ yếu của ngành.
Bảng 5
: Động thái sản lượng trong các năm 2000-2010 và tăng trưởng.
Sản phẩm
chủ yếu
Đơn
vị
Năm
2000
Năm
2005
Năm
2008*
Ước
2009
Dự báo
2010
BQ 2001-
2005,%
B
Q
2006-
2010,%
Động cơ đốt
trong các loại
Cái
30329 201593 275236 302750 348000 46.06 11.54
Máy kéo, xe

vận chuyển
cái
1932 8654 3325 3560 3842 34.97 -14.99
Bơm nước
nông nghiệp
cái
3496 8298 2196 2250 2400 18.87 -21.97
Bơm DD chạy
điện
1000C
208 591 310 330 350 23.23 -9.95
Máy tuốt lúa có
động cơ
Cái
11877 19529 18230 18500 19800 10.46 0.28
Tuốt lúa không
động cơ
cái
7061 6993 3161 3200 3500 -0.19 -12.93
Bơm thuốc trừ
sâu
1000C
70.4 54.0 59.3 65 68 -5.17 4.72
Máy xay xát
gạo
Cái
12484 2734 5685 5500 5000 -26.19 12.83
Nông cụ cầm
tay
1000C

15918 25998 21197 22000 22500 10.31 -2.85
Xe cải tiến Cái
13705 19435 18314 18500 19100 7.24 -0.35
Máy công cụ Cái
4121 3839 3700 1500 1800 -1.41 -14.06
Động cơ điện
các loại
Cái
45855 194374 165302 181830 209100 33.49 1.47
Máy biến thế cái
13535 45540 46915 47100 48200 27.46 1.14
Dây điện 10
6
m
146.5 936 1024 900 1100 44.91 3.28
Quạt điện dân
dụng
1000C
328.4 1751.7 3069 3200 3300 39.77 13.50
Tủ lạnh 1000C
174.5 692.6 1000.8 1296 1350 31.75 14.28
Máy điều hòa
KK
1000C
52.5 147.9 313.1 444 540 23.02 29.56
Máy giặt gia
đình
1000C
159 336.6 530.6 520.9 600 16.18 12.26
Ô tô lắp ráp Cái

13547 59152 100076 99600 115000 34.28 14.22
Xe máy lắp ráp 1000C
463.4 1982.1 2880.2 3054.2 3100 33.73 9.36
Bếp ga 1000C
548 1046.7 2140.1 13.82

19
Toa xe cái
79 461 95 100 110 42.30 -24.92
Xe đạp 1000C
659 2525 1689 1700 1800 30.82 -6.55

Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2009 và xử lý tài liệu khảo sát.

1.3- Tình trạng thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư chiều
sâu của từng ngành hàng, thiết kế, thiết bị, trình độ công nghệ, đào tạo nhân
lực
Ngành Cơ khí cần vốn đầu tư rất lớn, nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp và
thời gian thu hồi vốn dài, nên ít doanh nghiệp dám mạo hiểm đầu tư và cũng khó
vay ngân hàng. Trong khi đó s
ự hỗ trợ đầu tư từ phía Nhà nước không đáng kể.
Theo đánh giá, trong suốt giai đoạn 1986-2002, Cơ khí nước ta chỉ được đầu tư
không quá 17 triệu đô la Mỹ (không kể đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài). Từ
sau năm 2002 đến nay, ngành cơ khí tuy được Chính phủ cấp nhiều tín dụng đầu
tư với lãi suất ưu đãi, nhưng phần lớn tập trung vào một số
tổng công ty và tập
đoàn nhà nước, như đóng tàu, ô tô để sản xuất những sản phẩm ở công đoạn
cuối cùng là gia công và lắp ráp. Trong khi đó, những khâu quan trọng như đúc,
tạo phôi, công nghệ nhiệt luyện, thiết kế và đào tạo nguồn nhân lực thì chưa
được đầu tư nhiều.

Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp cơ
khí tại th
ời điểm 31/12 năm 2000 đạt 22.242 tỷ đồng, tăng lên 57.605 tỷ vào năm
2005 và đạt 95.267 tỷ đồng vào năm 2007. Trong khi đó, vốn sản xuất kinh
doanh bình quân tương ứng là 40210 tỷ đồng, 137655 tỷ đồng và 220.768 tỷ đồng
(xem phụ lục).
Trong thực tế, việc đầu tư của ngành cơ khí trong những năm vừa qua
thiếu tập trung, đầu tư phân tán và không đồng bộ, chưa có 1 cơ sở chế t
ạo nào đủ
mạnh làm đòn bẩy thúc đẩy toàn ngành chế tạo cơ khí. Việc hỗ trợ và phối hợp
liên kết không thực hiện được cũng vì thiếu những chuyên ngành cơ khí cần thiết
như các dự án sản xuất phôi thép rèn, đúc chất lượng cao, khối lượng lớn, áp
dụng công nghệ tiên tiến. Thiếu các cơ sở có máy gia công chế tạo thiết bị lớn
hiện đại trong nước.
Đa phần các doanh nghiệp cơ khí đầu tư nhỏ lẻ vào khâu chế
tạo gia công kim loại, ngành hàng cần vốn đầu tư không lớn, có đầu ra nhưng giá
trị gia tăng thấp.
Điều quan trọng đối với một dự án là phương án sản phẩm. Mỗi sản phẩm
có vòng đời, công nghệ trải qua các giai đoạn: Phát sinh triển khai, phổ biến rộng
rãi, chín muồi, suy giảm và thay thế. Dự án chọn đố
i tượng sản phẩm ở giai đoạn
đầu của vòng đời công nghệ sẽ có hiệu quả cao và ngược lại. Song tình trạng
chung, các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu đầu tư thường gặp phải vấn nạn về
thủ tục đầu tư phiền hà, kéo dài lãi xuất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
thay đổi nhanh theo chiều hướng tăng cao, đồng thời chính sách cho vay các đối
tượng lại thay đổi nên hầu hết trong 24 dự án đã được chính phủ phê duyệt
ngày 27/10/2003 (công văn số 1457/CP – CN) chỉ có 3 dự án đầu tư được
triển khai và đã hoàn thành, sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi đó là:

20

- Dự án đầu tư nâng cao năng lực sản xuất của công ty cơ khí Hà Nội giá
trị 110 tỷ với lãi suất 3%.
- Dự án đóng mới phương tiện vận tải tàu chở dầu 13.500DW trị giá 11
triệu USD bao gồm cả thuế VAT
- Dự án thiết bị nâng hạ của xí nghiệp cơ khí Quang Trung (xí nghiệp tư
nhân) với vốn vay 282 tỷ lãi suất 6,6%/năm.
- Riêng dự án đầu tư thiết bị nâng c
ủa Tổng công ty Cơ khí xây dựng
(COMA), hiện nay mới xong phần xây dựng nhà xưởng.
Nhưng thực tế một số doanh nghiệp cơ khí đã tận dụng được một số cơ chế
ưu đãi của những năm trước (1998.2002) đã đầu tư vào những cơ sở sản xuất của
mình như Vinashin, sản xuất được nhiều phụ tùng phụ kiện để đóng tàu và nh
ận
được một số cơ chế ưu đãi khác nên trưởng thành nhanh chóng trong các năm
gần đây đã đóng được nhiều tàu cho nước ngoài và trong nước. Kim ngạch xuất
khẩu của các năm 2007 – 2008 đạt tới 500 triệu USD một năm.
Cho dù mọi thủ tục và nguồn vốn vay của quỹ hỗ trợ phát triển của chính
phủ chỉ hạn chế như trên trình bày, song hầu hết các doanh nghiệp cơ khí làm ă
n
có kết quả như hiện nay họ đã tự tìm nguồn tài chính để đầu tư chiều sâu, mở
rộng nhà xưởng, mua sắm thêm được 1 số thiết bị hiện đại, nhiều doanh nghiệp tư
nhân cũng đã huy động nguồn vốn xã hội để đầu tư nhiều nhà máy cơ khí hiện
đại phục vụ cho sản xuất cơ khí:
Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản - TKV đã th
ực hiện đầu tư đến
nay xấp xỉ 600 tỷ VNĐ do đó đã chế tạo được nhiều sản phẩm cơ khí phục vụ
trong ngành như: Lắp ráp xe tải, máy xúc lật dung tích gầu đến 10 m
3
, chế tạo cột
chống thủy lực, cán thép vỉ và thép hình cho hầm lò v v.

COMA đã thực hiện gần 300 tỷ đồng đầu tư thiết bị và công nghệ cho sản
xuất cốt pha thép, sản xuất kết cấu thép, cột điện, v v.
VEAM: Đầu tư vào năng lực sản xuất phôi đúc, phôi rèn và nâng cấp các
dây chuyền gia công cơ khí ở các công ty thành viên phát triển hợp tác sản xuất
giữa các đơn vị thành viên trong vi
ệc tập trung năng lực hiện có …
Hệ thống máy móc thiết bị của một số Công ty thuộc VEAM được đầu tư
thường xuyên theo xu hướng hiện đại hoá để nâng cao chất lượng và năng lực sản
xuất. Hiện nay Công ty VIKYNO&VINAPPRO có khoảng 40 trung tâm gia
công CNC và trên 400 máy móc, thiết bị sản xuất được sắp xếp theo dây chuyền
công nghệ khoa học phát huy tối đa chất lượng và năng lực sản xuất sản ph
ẩm.
Về ô tô: Các doanh nghiệp nhà nước như VINAMOTOR, VEAM,
SAMCO cùng các doanh nghiệp tư nhân như Công ty Trường Hải, Xuân Kiên đã
đầu tư lớn về chế tạo và lắp ráp ô tô xây dựng các Nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô
hiện đại đạt được tiêu chuẩn cao, nhiều doanh nghiệp đầu tư chuyên sâu sản xuất
linh kiện cấu tạo khuôn dập Cabin, thùng xe, nhíp nâng dần tỉ lệ nội địa hóa.một

21
số doanh nghiệp tư nhân như: Công ty Trường Hải, Vinaxuki,… cũng đã đầu tư
lớn vào chế tạo lắp ráp ô tô. Vinaxuki đã huy động hàng nghìn tỷ đồng để xây
dựng nhà máy lắp ráp xe tải nhẹ, xe con, xây dựng các cơ sở đúc rèn để chế tạo
khuôn rập vỏ cabin, thùng xe, nâng dần tỷ lệ nội địa hóa.
Nhìn chung công nghiệp cơ khí nước ta hiện mới đạt trình độ gia công lắp
ráp, cán thép xây dựng chất lượ
ng chưa cao và chế tạo các loại máy công cụ, máy
động lực, máy canh tác và chế biến nông sản cỡ nhỏ.
Ngành cơ khí Việt Nam hiện vẫn chưa có các cơ sở kỹ thuật tiên tiến để đủ
khả năng thiết kế chế tạo máy, thiết bị công nghệ đạt tiêu chuẩn và hàm lượng
công nghệ cao đủ sức cạnh tranh với thị trường trong nước và quốc tế.

Do việc đầu t
ư phân tán, nhỏ lẻ không đồng bộ, lại khép kín trong các
doanh nghiệp đặc biệt trong các tổng công ty lớn và tập đoàn, rất khó phối kết
hợp cho nên chi phí sản xuất cao, khả năng cạnh tranh thấp.
Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ chưa thực sự gắn kết hoạt động
của sản xuất cơ khí. Từ năm 2001 – 2010 có 47 đề tài nghiên cứu cấp nhà nước,
20 dự án sản xuất thử nghiệm và hàng tr
ăm đề tài cấp bộ nhưng hiệu quả của
nguồn kinh phí lớn làm đề tài NCKH chưa có tác động nhiều đến sự phát triển
của ngành cơ khí.
Thực trạng này là do chúng ta chưa chú trọng việc nâng cao năng lực thiết
kế , tư vấn, lập dự án đầu tư.
Đầu tư cho công nghiệp phụ trợ và sản xuất các phôi đúc rèn có độ chính
xác cao chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, không có
đầu ra do không bảo vệ được
thị trường nên tỷ lệ nội địa hóa cho công nghệ lắp ráp và chế tạo cơ khí còn thấp.
Đầu tư công tác đào tạo nguồn nhân lực:
Hiện tại ở Việt Nam chưa có đội ngũ chuyên gia tư vấn thiết kế, kỹ sư
trưởng, công trình sư, tổng công trình sư. Do dó cần cải tiến mạnh mẽ chương
trình đào tạo cơ bả
n các kỹ sư trong các trường đại học, phải có chương trình
thực tập trên các thiết bị cơ khí chính xác và nội dung đào tạo phải phù hợp với
công nghệ hiện đại của thế giới.
Việc đào tạo thợ cơ khí có trình độ lý thuyết và tay nghề cao được thực hành
trên các máy công cụ và thiết bị thi công hiện đại còn yếu. Việc chỉ đạo còn
chung chung, nhưng thực tế chưa có ai triể
n khai nhiệm vụ này.
Đối với ngành máy công cụ, có một số đặc điểm rất cơ bản Việt Nam là:
đầu tư thiếu đồng bộ do thiếu kinh phí, các doanh nghiệp thiếu đội ngũ kỹ sư và
thợ có trình độ cập nhật với công nghệ hiện có trên thế giới nên thiết bị xuống

cấp rất nhanh chóng, chất lượng hàng hóa chưa tốt, mẫu mã kém thay đổi hay nói
cách khác là chưa chú ý đế
n việc sử dụng vòng đời của sản phẩm, hàng năm xuất
khẩu đạt khoảng 8 triệu USD (chỉ bằng 0,1 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam).
Dù đã có khoảng 2 tỷ vốn đầu tư nước ngoài vào ngành cơ khí nhưng không có
bất kỳ một dự án đầu tư nào vào ngành máy Công cụ của Việt Nam. Đây cũng là
điều dễ hiểu vì nếu phát triển được ngành máy Công cụ
thì sẽ kéo các ngành công
nghiệp khác trong nước phát triển dẫn đến giảm bớt nhập khẩu (đó là cái mà các

22
nước phát triển đang có sản phẩm xuất khẩu vào Việt Nam không hề mong
muốn)
Qua khảo sát hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động có liên quan đến khuôn
mẫu ở Việt Nam, bao gồm cả các doanh nghiệp đầu tư của nước ngoài, nhóm
khảo sát có thể chia ra như sau:
- Nhóm các doanh nghiệp ứng dụng CNC trong chế tạo khuôn mẫu và sản
xuất các chi tiết có độ chính xác cao hành loạt. Có các nhóm sau:
+ Nhóm các doanh nghiệp thiết kế chế tạo khuôn mẫu có chấ
t lượng cao:
Duy Tân, Lập Phúc, Phú Vinh, Muto, Everbrige, Toho, ITSV, Meisei…Các
doanh nghiệp này đầu tư có bài bản, có vốn đầu tư nước ngoài nên có cách quản
lý chuyên nghiệp, sản phẩm có chất lượng cao. Ví dụ: doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài - TOHO Việt Nam ở Đông Anh, Hà Nội vốn 2,2 triệu USD có
19 máy công cụ CNC bao gồm: 6 trung tâm gia công CNC, 4 máy phay CNC, 5
máy cắt dây CNC, 4 máy xung định hình CNC cùng 7 hệ thống CAD/CAM. (/5/).
+ Nhóm các doanh nghiệp thiết kế và chế tạo khuôn mẫu chất lượng trung
bình và thấp: Nhựa Hà Nội, Duy Khanh, Liên Anh, Ngọc H
ải, Dương Hải, Chợ
Lớn, Vinakip,… đẩu tư bình thừơng, chủ yếu tập trung vào các hàng tiêu dùng

hàng ngày hoặc gia công sản phẩm cho các hãng lớn như Honda (chủ yếu là ép
nhựa, khuôn do hãng mang đến).
Nhóm các doanh nghiệp sản xuất máy công cụ phục vụ các ngành kinh tế: chỉ
có khoảng vài ba doanh nghiệp như: Tổng công ty máy và Thiết bị công nghiệp
(MIE), Công ty Cơ khí Hà Nội (HAMECO) với số lượng và chủng loại máy rất
nghèo nàn: máy tiện vạn năng chiều cao tâm
đến 300 mm, máy khoan tới đường
kính 25-30mm, máy bào ngang hành trình 650mm, máy phay vạn năng , máy mài
phẳng, máy cưa cần, các hệ máy gia công áp lực như: búa rèn không khí nén
trọng lượng rơi đến 150 kg, máy dập đến 250 tấn, máy cắt đột dập kim loại, máy
cắt tôn có chiều dày tới 6mm – tất cả đều là máy công cụ vạn năng, có giá trị
thấp. Năm 2005, MIE xuất khẩu khoảng 2000 máy trị giá 1,1 triệu USD, 2006
xuất khẩu khoảng 2700 chiếc với giá trị 1,5 triệu USD. Cũng
đã có một số công
ty bắt đầu sản xuất hoặc cải tạo các thiết bị CNC cũ như Sino, TA&T song cũng
chỉ hoạt động tự phát, không có chiển lược phát triển chung.
Tại Việt Nam, tuy máy công cụ CNC được nhập về và sử dụng trong các
công ty, nhà máy và nhà trường ngày càng nhiều nhưng vẫn ở tình trạng chưa
phổ cập rộng rãi. Việc đầu tư trang bị máy công cụ CNC cho các cơ sở quốc
doanh và các trường đại học, trường trung học dạy nghề còn rất chậm do không
giải quyết được vấn đề kinh phí. Chính vì vậy mà các cơ sở sản xuất tư nhân lại
là nơi trang bị được nhiều máy công cụ CNC hơn. Các cơ sở tư nhân sản xuất
khuôn mẫu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là những nơi đầu tư nhiều máy
công cụ CNC hơn cả. Ở những cơ s
ở đó, lượng máy đã qua sử dụng và máy CNC
được nâng cấp chiếm tỉ lệ khá cao, chỉ ở các công ty liên doanh với nước ngoài
hoặc công ty 100% vốn nước ngoài mới có giàn máy CNC hiện đại và đông bộ
Bức tranh chi tiết về ngành đóng tàu có thể cho ta một minh chứng rõ
hơn về Cơ khí Việt Nam trong lĩnh vực này:


23
Tổng giá trị tài sản của VINASHIN hiện đạt hơn 90.000 tỉ VNĐ (chủ yếu
hình thành từ nguồn vốn vay do vốn của chủ sở hữu rất nhỏ - khoảng 10.000 tỉ
VNĐ), trong đó tổng giá trị tài sản cố định (giá trị còn lại) tính đến 31/12/2009 là
43.617.304 triệu đồng.
Về công tác nghiên cứu, tư vấn, thiết kế:
Bên cạnh hoạt động đầu tư phát triển sả
n xuất (về máy móc, thiết bị công
nghệ, nhà xưởng, triền đà, v.v…) thì công tác nghiên cứu, tư vấn, thiết kế đã
được chú trọng phát triển trong bản thân doanh nghiệp và cả từ phía các cơ quan
quản lý Nhà nước.
Trong giai đoạn 2003-2009 hàng trăm nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước và
cấp Bộ, ngành đã được triển khai thực hiện trong lĩnh vực cơ khí đóng tàu thủy.
Thực tế, trong giai đoạn 2000 đế
n nay (chủ yếu là 2002-2009), VINASHIN đã và
đang thực hiện hơn 100 nhiệm vụ KH&CN các cấp (bao gồm 53 nhiệm vụ cấp
Nhà nước, 56 nhiệm vụ cấp Bộ, ngành). Đặc biệt, ngày 14/12/2006 Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt danh mục các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước năm
2006, trong đó có Dự án KH&CN „Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ
đóng tàu chở dầu thô 100.000 DWT”, bao gồm 10 đề tài NCKH, 09 Dự án SXTN
cấp Nhà nước,
được thực hiện trong giai đoạn 2006-2009. Nhìn chung các nhiệm
vụ KH&CN đã tập trung giải quyết những vấn đề kỹ thuật, công nghệ khó khăn,
cấp thiết nhất mà thực tế sản xuất và phát triển của ngành CNTT đặt ra và góp
phần tích cực vào việc tăng năng lực công nghệ đóng mới và sửa chữa tàu thủy
của Việt Nam.
Công tác thiết kế, tư vấn cũng đã
được chú trọng phát triển. Hầu hết các
đơn vị đóng tàu lớn đề có Phòng/bộ phận thiết kế – công nghệ, đảm đương được
phần lớn công việc thiết kế công nghệ nhiều tàu lớn, cũng như nghiên cứu, thiết

kế các thiết bị, máy móc phục vụ nhu cầu của ngành. Nhiều công ty tư vấn thiết
kế cũng đã được hình thành và tạo điều kiện phát tri
ển trong giai đoạn 2003-
2009.
Đặc biệt, Viện KH&CN tàu thủy đã được tập trung đầu tư phát triển cả về
mặt nghiên cứu, thiết kế và tư vấn, kiểm định, từ trang thiết bị (điển hình là các
phần mềm thiết kế mạnh, hệ thống máy tính, bể thử mô hình tàu thủy – Phòng thí
nghiệm quốc gia), công nghệ (các công nghệ mới từ nước ngoài, từ quá trình
nghiên cứu, từ th
ực tế sản xuất) đến nhân lực (tuyển dụng, đào tạo nâng cao, đào
tạo tại nước ngoài, đào tạo qua công tác nghiên cứu, thiế kế, thử nghiệm).
Về nhà xưởng, trang thiết bị:
Trong giai đoạn 2003-2009, các đơn vị đóng tàu thuộc VINASHIN đều có
đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị. Thống kê cho thấy các đơn vị có giá trị tài sản
cố định khá lớn (và trong phạ
m vi toàn Tập đoàn thì chiếm khoảng 50% tổng tài
sản hiện có), trong đó nhiều đơn vị đầu tư vào nhà xưởng làm việc với giá trị lớn
hơn đầu tư vào trang thiết bị (trừ một số đơn vị đã có cơ sở vật chất – kỹ thuật từ
trước như Bạch Đằng, Hạ Long và các đơn vị đóng tàu nhỏ chỉ tiến hành đổi mớ
i
trang thiết bị là chủ yếu). Trong giai đoạn 2003-2009 nhiều doanh nghiệp đã đầu
tư lớn cho các dây chuyền, thiết bị mới, trong đó điển hình là TCTy CNTT Nam

24
Triệu, Công ty Đóng tàu Hạ Long, Công ty Đóng tàu Phà Rừng, Công ty CNTT
Dung Quất – đó cũng chính là các doanh nghiệp lớn, mới được đầu tư của ngành.

Nhìn chung các đơn vị lớn tiến hành đổi mới công nghệ và thiết bị mạnh
mẽ hơn, các đơn vị nhỏ chủ yếu thực hiện việc nâng cấp, nâng cao năng lực, mở
rộng nhà máy, các dự án đầu tư sớm đã đạt yêu cầu, như

ng các dự án đầu tư sau
này và dự án của các đơn vị nhỏ thì chưa hoàn thành. Các đơn vị có đầu tư vào
thiết bị, công nghệ đều tự đánh giá là có hiệu quả. Tuy vậy, có thể nói đây là đánh
giá định tính, để có thể xác định chính xác hiệu quả đầu tư thì cần phải khảo sát
thực tế và đánh giá định lượng, phân tích chi tiết để thấy được đầu tư như th
ế nào
là hiệu quả (ngoài ra còn các yếu tố ảnh hưởng khác như quản lý, thị trường, lựa
chọn công nghệ, v.v….xem phụ lục).
Về trình độ công nghệ, về cơ bản mục tiêu năng lực đóng mới đến năm 2010 đã
được thực hiện:
- Năng lực đóng mới các phương tiện thủy nội địa: có hàng loạt doanh nghiệp
thực hiện được.
- Năng lực đóng mới tàu công trình: một số doanh nghiệp thực hiện được.
- Nhìn chung đáp ứng được việc đóng tàu đánh bắt hải sản, nhưng chủ yếu các
doanh nghiệp có qui mô nhỏ mới thực hiện.
- Các doanh nghiệp đều đóng tàu biển, thực hiện tốt Quyết định số
186/2002/QĐ-TTg (đóng tàu biển trọng tải dưới 15.000 DWT): thực tế m
ột số
doanh nghiệp đã đóng được tàu biển trọng tải tới 34.000 DWT, 53.000 DWT; có
những doanh nghiệp đủ năng lực công nghệ đóng tàu cỡ lớn hơn (tàu bách hóa
đến 70.000 DWT, tàu dầu đến 300.000 DWT, tàu chở ô tô đến 4.900 xe, v.v ,
xem phụ lục).
Bảng thống kê tài sản cố định của các đơn vị đóng tàu (xem phụ lục 15)
chủ yếu thuộc VINASHIN tại thời điểm 31/12/2009. Thống kê cho thấy các đơn
vị có giá trị tài sản cố định khá lớn (và trong phạm vi toàn Tập đoàn thì chiếm
khoảng 50% tổng tài sản hiện có), trong đó nhiều đơn vị đầu tư vào nhà xưởng
làm việc với giá trị lớn hơn đầu tư vào trang thiết bị (trừ một số đơn vị đã có cơ
sở vật chất – kỹ thuật từ trước như Bạch Đằng, Hạ Long và các đơ
n vị đóng tàu
nhỏ chỉ tiến hành đổi mới trang thiết bị là chủ yếu).


Bảng thống kê giá trị các dây chuyền gia công sản phẩm của các đơn vị
đóng tàu chủ yếu thuộc VINASHIN (xem phụ lục 15) trong các giai đoạn trước
2003 và từ 2003-2009. Số liệu này cho thấy trong giai đoạn 2003-2009 nhiều
doanh nghiệp đã đầu tư lớn cho các dây chuyền, thiết bị mới, trong đó điể
n hình
là TCTy CNTT Nam Triệu, Công ty Đóng tàu Hạ Long, Công ty Đóng tàu Phà
Rừng, Công ty CNTT Dung Quất – đó cũng chính là các doanh nghiệp lớn, mới
được đầu tư của ngành.

Bảng tổng hợp thông tin cơ bản tình hình đầu tư đổi mới công nghệ, thiết
bị tại các nhà máy đóng tàu thuộc VINASHIN (xem phụ lục 15) trong giai đoạn

25
2003-2009. Có thể thấy các đơn vị lớn trong ngành đều tập trung hoàn thiện, phát
triển cơ sở công nghệ, thiết bị đóng tàu, một số triển khai sản xuất, chế tạo vật
liệu và thiết bị phục vụ ngành đóng tàu. Nhìn chung các đơn vị lớn tiến hành đổi
mới công nghệ và thiết bị mạnh mẽ hơn, các đơn vị nhỏ chủ yếu thực hiện việ
c
nâng cấp, nâng cao năng lực, mở rộng nhà máy, các dự án đầu tư sớm đã đạt yêu
cầu, nhưng các dự án đầu tư sau này và dự án của các đơn vị nhỏ thì chưa hoàn
thành. Bảng 12 cho thấy các đơn vị có đầu tư vào thiết bị, công nghệ đều tự đánh
giá là có hiệu quả. Tuy vậy, có thể nói đây là đánh giá định tính, để có thể xác
định chính xác hiệu quả đầu tư thì c
ần phải khảo sát thực tế và đánh giá định
lượng, phân tích chi tiết để thấy được đầu tư như thế nào là hiệu quả (ngoài ra
còn các yếu tố ảnh hưởng khác như quản lý, thị trường, lựa chọn công nghệ,
v.v….).

Bảng thống kê tổng mức đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, thiết bị phòng

thí nghiệm, công nghệ tin học tại các đơn vị
đóng tàu chủ yếu của VINASHIN
(xem phụ lục 15). Có thể thấy rằng việc đầu tư tương xứng với qui mô của các
đơn vị: các đơn vị lớn (trừ đơn vị chưa báo cáo) đều đầu tư lớn (hàng trăm tỉ
VNĐ), các đơn vị nhỏ đầu tư ít hơn (từ vài trăm triệu đến hàng chục tỉ VNĐ).
Về trình độ công nghệ:
B
ảng trình bày thống kê năng lực đóng các loại tàu thủy chủ yếu (theo
Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg) của các doanh nghiệp đóng tàu thủy yếu thuộc
VINASHIN (xem phụ lục 15). Có thể thấy về cơ bản mục tiêu năng lực đóng mới
đến năm 2010 đã được thực hiện:
- Năng lực đóng mới các phương tiện thủy nội địa: có hàng loạt doanh
nghiệ
p thực hiện được.
- Năng lực đóng mới tàu công trình: một số doanh nghiệp thực hiện
được. Nhìn chung đáp ứng được việc đóng tàu đánh bắt hải sản, nhưng
chủ yếu các doanh nghiệp có qui mô nhỏ mới thực hiện.
- Các doanh nghiệp đều đóng tàu biển, thực hiện tốt Quyết định số
186/2002/QĐ-TTg (đóng tàu biển trọng tải dưới 15.000 DWT): th
ực tế
một số doanh nghiệp đã đóng được tàu biển trọng tải tới 34.000 DWT,
53.000 DWT; có những doanh nghiệp đủ năng lực công nghệ đóng tàu
cỡ lớn hơn (tàu bách hóa đến 70.000 DWT, tàu dầu đến 300.000 DWT,
tàu chở ô tô đến 4.900 xe, v.v ).

Không có đơn vị nào tự đánh giá có trình độ công nghệ ở mức độ lạc hậu
so với khu vực, còn 03 đơn vị ở mức lạc hậu so với th
ế giới. Ngược lại, có đến
5/15 (33,33%) số các đơn vị tự đánh giá có trình độ công nghệ ở mức tiên tiến
của khu vực và 3/15 (20%) số các đơn vị tự đánh giá có trình độ công nghệ ở

mức tiên tiến của thế giới. Ở khía cạnh nào đó, đây là một kết quả rất đáng khích
lệ, bởi vì nhiều đơn vị tự tin về năng lực công nghệ
của mình.
Về đào tạo nhân lực:

×