Tải bản đầy đủ (.pdf) (279 trang)

Cơ chế, chính sách phát triển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 279 trang )


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CHƯƠNG TRÌNH KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC
KX.01/06-10:
"Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020"








ĐỀ TÀI
CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC
VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ĐẾN NĂM 2015
MÃ SỐ: KX.01.05/06-10






Chủ nhiệm đề tài: GS.TS. Nguyễn Văn Nam
Cơ quan chủ trì : Trường Đại học Kinh tế quốc dân








8028



HÀ NỘI, 1 – 2010


ii


Các thành viên tham gia đề tài:

Chủ nhiệm đề tài: GS, TS Nguyễn Văn Nam, Đại học Kinh tế quốc dân
Phó chủ nhiệm đề tài: PGS, TS Ngô Thắng Lợi, Đại học Kinh tế quốc dân

Các thư ký đề tài:
- Th.s Vũ Thành Hưởng, Đại học Kinh tế quốc dân
- Th.s Nguyễn Anh Tuấn, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

Chủ nhiệm các đề tài nhánh:
- PGS, TS Lê Thu Hoa, Đại học Kinh tế quốc dân
- TS. Hoàng Xuân Quế, Đại họ
c Kinh tế quốc dân
- TS. Nguyễn Tiến Dũng, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
- TS. Tạ Thị Thu, Viện Chiến lược phát triển, Bộ KH&ĐT
- Ths. Bùi Đức Tuân, Đại học Kinh tế quốc dân
- Th.s Vũ Thành Hưởng, Đại học Kinh tế quốc dân
- Th.s Nguyễn Anh Tuấn, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.










iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BQL : Ban quản lý
BVMT : Bảo vệ môi trường
Bộ KH & ĐT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ TN & MT: Bộ Tài nguyên và Môi trường
CCKTLT : Cơ cấu kinh tế lãnh thổ
CCN : Cụm công nghiệp
CN : Công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CTR : Chất thải rắn
DV : Dịch vụ
DHMT : Duyên hải miền Trung
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
FDI : Đầu tư trực tiếp n
ước ngoài
GTVT : Giao thông vận tải
KCN : Khu Công nghiệp
KCNC : Khu công nghệ cao
KCX : Khu chế xuất

KĐT : Khu đô thị
KKT : Khu kinh tế
KTTĐ : Kinh tế trọng điểm
NN : Nông nghiệp
NSLĐ : Năng suất lao động
PTBV : Phát triển bền vững
SEZ : Đặc khu kinh tế
TNC : Tập đoàn đa quốc gia

TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
VĐT : Vốn đầu tư
VKTTĐ : Vùng Kinh tế trọng điểm
VKTTĐBB : Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ
VKTTĐMT : Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung
VKTTĐPN : Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam
VN : Việt Nam

iv
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iii
MỞ ĐẦU viii
PHẦN I 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 1
VỀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 1
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 1
1.1.1 Khái luận chung về vùng kinh tế trọng điểm
1
1.1.2. Các quan điểm và lý thuyết về vùng KTTĐ trên Thế giới 3
1.2. PHÁT TRIỂ
N BỀN VỮNG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 14

1.2.1. Đặt vấn đề phát triển bền vững VKTTĐ 14
1.2.2. Nội hàm phát triển bền vững VKTTĐ 16
1.2.3. Các tiêu chí phát triển bền vững VKTTĐ 18
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CÁC VKTTĐ 24
1.3.1. Hệ thống cơ chế chính sách - một trong những công cụ định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế 24
1.3.2. Hệ thống cơ chế chính sách – một nhân tố tác động đến phát triển bền vững VKTTĐ
25
1.3.3. Sự cần thiết phải có các chính sách riêng trong từng giai đoạn phát triển các VKTTĐ
28
1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ SỬ DỤNG CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 33
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: mô hình 33
phát triển vùng Chu Giang mở rộng 33
1.4.2. Kinh nghiệm của Nhậ
t Bản 41
1.4.3 Kinh nghiệm của Pháp về tổ chức hội đồng tư vấn kinh tế và xã hội vùng 42
1.4.4. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 43
1.4.5. Kinh nghiệm của Thái Lan 45
1.4.6. Kinh nghiệm của Malaixia 49
1.4.7. Kinh nghiệm của Đài Loan 50
1.4.8. Kinh nghiệm của Philippine 52
1.4.9. Các bài học về phát triển bền vững vùng KTTĐ đối với Việt Nam 53
PHẦN II 58
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẾN PTBV
CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐI
ỂM Ở VIỆT NAM 58
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
Ở VIỆT NAM 58

2.1.1. Giai đoạn hình thành (1992-1999) 58
2.1.2. Giai đoạn phát triển mở rộng (2000-2005) 60
2.1.3. Giai đoạn phát triển lan tỏa: Từ 2006. 61
2.2. THỰC TRẠNG CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM 62
2.2.1. Nhóm cơ chế chính sách trực tiếp cho VKTTĐ 62
2.2.2. Các chính sách phát triển các lãnh thổ đặc biệt hướng tới sự phát triển t
ập trung 74
2.2.3. Những cơ chế, chính sách chung, có ảnh hưởng đến phát triển bền vững các VKKTĐ.
77
2.3. ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH THEO CÁC TIÊU CHÍ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG VKTTĐ. 96
2.3.1. Đánh giá hệ thống cơ chế chính sách đối với bền vững lĩnh vực kinh tế 96

v
2.3.2. Đánh giá hệ thống cơ chế chính sách đối với việc thực hiện các mối liên kết vùng 118
2.3.3. Đánh giá hệ thống cơ chế chính sách đối với bền vững về xã hội 126
2.3.4. Đánh giá cơ chế chính sách đối với bền vững về môi trường 133
2.3.5. Đánh giá cơ chế chính sách đối với tác động lan tỏa của các VKTTĐ (đóng góp của
VKTTĐ đối với nền kinh tế
quốc gia) 142
2.3.6 Những vấn đề quan trọng đặt ra cho hoàn thiện chính sách từ những khía cạnh không
bền vững trong phát triển VKTTĐ 150
PHẦN III 154
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 154
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC VKTTĐ
ĐẾN NĂM 2015 154
3.1.1. Căn cứ xác định quan điểm và định hướng phát triển VKTTĐ
154

3.1.2. Quan điểm định hướng chiến lược phát triển các VKTTĐ 160
3.1.3. Định hướng phát triển bền vững VKTTĐ 165
3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 175
3.2.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến bảo đảm tính chất hợp lý và đồng bộ trong
quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển 175
3.2.2. Chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý cho các vùng trọng đ
iểm 185
3.2.3. Hoàn thiện chính sách bảo đảm vốn và các nguồn lực chất lượng cao nhằm hướng tới
mục tiêu thực hiện mô hình tăng trưởng theo chiều sâu các vùng trọng điểm 192
3.2.4. Hoàn thiện chính sách chống ô nhiễm và BVMT trên các vùng trọng điểm 201
3.2.5. Xây dựng và hoàn hiện các chính sách tạo sự lan tỏa kinh tế của các VKTTĐ 207
3.2.6. Hoàn thiện chính sách và bộ máy quản lý VKTTĐ nhằm bảo đảm thực hiện tốt sự
phối h
ợp và liên kết vùng 210
3.2.7 Hoàn thiện bộ máy điều phối phát triển VKTTĐ 220
3.3. CÁC KIẾN NGHỊ 227
3.3.1 Một số kiến nghị chung: 227
3.3.2. Các kiến nghị cụ thể: 227
KẾT LUẬN 229
PHỤ LỤC 1 -















vi

Danh mục các bảng trong đề tài

Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu chính của các thành phố vùng Chu Giang 40
Bảng 1.2: GDP và dân số Thái Lan năm 1981 và 1991 47
Bảng 1.3: Thái Lan - Dân số vùng và số dân di cư ròng 48
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tổng hợp của ba vùng KTTĐ 59
Bảng 2.2: Tỷ trọng của ba vùng KTTĐ so cả nước 59
Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu tổng hợp của ba vùng KTTĐ 61
Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng GDP các VKTTĐVN 97
Bảng 2.5: Quy mô và mật độ kinh tế c
ủa các VKTTĐVN (tính theo GDP) 100
Bảng 2.6: So sánh động thái về mật độ kinh tế của VKTTĐ 101
Bảng 2.7: NSLĐ của các VKTTĐ (GDP/lao động) 102
Bảng 2.8: Vốn đầu tư tính cho 1 đồng GDP 105
Bảng 2.9: Cơ cấu ngành kinh tế các VKTTĐ 106
Bảng 2.10: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu theo hệ số COSφ của VKTTĐ 107
Bảng 2.11: Năng lực cấp nước tại các đô thị phân theo VKTTĐ 110
Bảng 2.12: T
ốc độ tăng trưởng lao động các VKTTĐ 112
Bảng 2.13: Cơ cấu lao động các VKTTĐ 113
Bảng 2.14: So sánh cơ cấu lao động theo ngành với cơ cấu ngành kinh tế 114
Bảng 2.15: Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở các VKTTĐ 115
Bảng 2.16: Thu nhập bình quân đầu người VKTTĐ 127

Bảng 2.17: Tỷ lệ điện thoại / 100 dân 128
Bảng 2.18: Tốc độ tăng GDP và GDP/người trên các VKTTĐ 128
Bảng 2.19: Tỷ lệ h
ộ nghèo các VKTTĐ 129
Bảng 2.20: Tổng hợp hệ số co giãn của tỷ lệ nghèo đói và thu nhập 130
Bảng 2.21: Hệ số GINI, hệ số giãn cách thu nhập và tiêu chuẩn “40” của VKTTĐ 131
Bảng 2.22: Tỷ lệ co giãn giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mức độ gia tăng ô nhiễm môi
trường ở Vùng KTTĐBB, giai đoạn 2000 – 2005 133
Bảng 2.23: Sự bền vững về môi trường của chuyển dịch c
ơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành công
nghiệp, giai đoạn 2000 - 2005 134
Bảng 2.24: Khối lượng CTR các đô thị loại 4 trở lên 135
Bảng 2.25: Thu - chi ngân sách các VKTTĐ 142
Bảng 2.26: Cán cân ngân sách của ba VKTTĐ 143
Bảng 2.27: Tốc độ tăng thu ngân sách các VKTTĐ 143
Bảng 2.28: Đóng góp thu ngân sách của các VKTTĐ 144
Bảng 2.29: Kim ngạch xuất – nhập khẩu của các VKTTĐ 145
Bảng 2.30: Cán cân thương mại quốc tế của VKTTĐ 145
Bảng 2.31: Tốc độ t
ăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 3 VKTTĐ 146
Bảng 2.32: Vốn đầu tư vào VKTTĐ 147
Bảng 2.33: Quy mô thu hút lao động VKTTĐ 148


vii

Danh mục các hình trong đề tài

Hình 1.1: Mô hình phát triển bền vững vùng KTTĐ 15
Hình 1.2: Sơ đồ hệ thống cơ chế chính sách sử dụng trên VKTTĐ 27

Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 3 VKTTĐ và cả nước các năm 2001 và 2007 98
Hình 2.2: Tăng trưởng dịch vụ của các VKTTĐ năm 2001 và 2007 98
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng GO và GDP của VKTTĐBB 101
Hình 2.4: Tốc độ tăng trưởng GO và GDP Công nghiệp VKTTĐ (%) 102
Hình 2.5: So sánh NSLĐ của VKTTĐ với NSLĐ củ
a một số nước 103
Hình 2.6: Đóng góp của các yếu tố đầu vào đến tăng trưởng (2002– 2008) 104
Hình 2.7: Hệ số ICOR cả nước và ba VKTTĐ từ 2000-2008 104
Hình 2.8: Cơ cấu ngành của 3 VKTTĐ các năm 2000 và 2008 108
Hình 2.9: Số lao động được GQVL hàng năm 113
Hình 2.10: Tỷ lệ bác sĩ /10.000 dân các vùng KTTĐ 128
Hình 3.1: Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy VKTTĐ Việt Nam hiện nay 221
Hình 3.2: Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ
máy VKTTĐ Việt Nam theo phương án mới 225


viii
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đã đặt mục tiêu đến 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Một trong những khâu đột phá để thực hiện mục
tiêu trên là hình thành các cực tăng trưởng kinh tế nhanh. Nằm trong khuôn khổ hình
thành các cực tăng trưởng kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã công bố quyết đị
nh thành lập
ba vùng KTTĐ vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, IX
và X của Đảng nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng 3 vùng KTTĐ trở thành những vùng
kinh tế phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đi đầu trong một số lĩnh vực
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo động l
ực
cho quá trình phát triển của cả nước.

Trong thời gian qua, nhờ có quyết tâm lớn của Đảng, Chính phủ, các Bộ ngành và
các địa phương đã có những nỗ lực đáng kể, tạo ra bước phát triển mới đối với ba vùng
KTTĐ trên các mặt: tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mạng lưới kết cấu hạ
tầng, thu hút vốn đầu tư Các vùng kinh tế trong
điểm đó trở thành các trung tâm kinh
tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, cung cấp dịch vụ cho các vùng và trong cả nước.
Tuy vậy, sự phát triển của các VKTTĐ còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế đứng
trên góc độ phát triển bền vững: (1) Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế chưa tương
xứng với tiềm năng và chưa đạt được mục tiêu kế hoạch đặt ra cho các VKTTĐ
; (2) Cơ
cấu kinh tế của các vùng trọng điểm chưa tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững, chưa tạo
được sức cạnh tranh và động lực phát triển cho cả nước; (3) các khu công nghiệp (KCN),
khu công nghệ cao (KCNC), khu chế xuất (KCX) các đầu tầu tăng trưởng trong cả 3
vùng KTTĐ đều chưa sử dụng hết năng lực, tỷ lệ lấp đầy còn thấp, đầu tư
công nghệ
hiện đại chưa cao, đóng góp vào xuất khẩu và thu hút lao động còn thấp; (4) Mức toàn
dụng lao động, đặc biệt là lao động có kỹ thuật chưa cao, chưa giải quyết được tốt việc
làm cho lao động nông nghiệp dôi dư khi bị mất đất nông nghiệp cho công nghiệp; (5)
Vấn đề ô nhiễm môi trường ở các thành phố, khu trung tâm du lịch, làng nghề ở các vùng
KTTĐ đang có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống dân cư và phát
triển bền vững đang đòi hỏi phải giải quyết cấp bách.
Có nhiều lý do dẫn đến những bất cập trên, trong đó những vấn đề thuộc về cơ
chế chính sách và sự vận hành nó cũng còn nhiều yếu tố không đồng thuận cho phát triển
bền vững các vùng KTTĐ. Cụ thể: (1) hệ thống chính sách với tư cách của riêng cho các
vùng trọ
ng điểm còn rất ít mà lại không phù hợp; (2) theo cơ chế hiện tại, 3 VKTTĐ
chưa có bộ máy chuyên trách thực hiện chức năng quản lý, tổ chức phối hợp phát triển
trong nội bộ vùng, lập kế hoạch phát triển, giám sát, đánh giá tác động phát triển ở cấp


ix
vùng; (3) Quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch chưa được coi trọng hoặc làm tuỳ tiện; (4)
việc thực hiện các chủ trương chính sách thiếu cụ thể và điều chỉnh kịp thời, gặp khó
khăn do bị chia cắt địa giới hành chính, sự liên kết giữa các vùng còn rời rạc, chưa tạo ra
sức mạnh tổng hợp của vùng
Để thực hiện được các mục tiêu đặt ra cho các vùng tr
ọng điểm, nhất là mục tiêu
trở thành các đầu tầu tăng trưởng và phát triển bền vững, Nhà nước cần tiếp tục có cơ
chế chính sách tích cực thúc đẩy các vùng KTTĐ; tăng cường năng lực nâng cao nhận
thức về phát triển bền vững vùng KTTĐ cho các cấp chính quyền địa phương thuộc
vùng; thống nhất quy hoạch phát triển vùng KTTĐ trong mối quan hệ với quy hoạch
tổng th
ể quốc gia; tăng cường chính sách và phát huy tính chủ động của các địa phương
trên vùng về chính sách thu hút vốn đầu tư, phát triển sản xuất, thương mại, kỹ thuật,
nguồn nhân lực, chính sách liên quan tới việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên
và BVMT, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng KTTĐ. Những vấn
đề nêu trên chính là cơ sở hình thành của đề tài, hay nói cách khác, đã khẳng định sự cần
thi
ết của vấn đề nghiên cứu đặt ra.
2. Tổng quan nghiên cứu :
2.1 Những nghiên cứu nước ngoài.
Phát triển có trọng điểm một số địa bàn lãnh thổ về mặt kinh tế được xem là một xu
thế vận động mang tính qui luật và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh trong
điều kiện của các nước đang phát triển. Việc tập trung nguồn lực và áp dụng các cơ chế
ưu tiên cho mộ
t số vùng lãnh thổ sẽ tạo điều kiện phát triển nhanh những vùng có ưu thế
phát triển, qua đó nhờ tác động lan toả thúc đẩy sự phát triển của các vùng lãnh thổ lân
cận và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về mặt lý thuyết, đã có nhiều quan điểm và mô hình lý thuyết được các học giả nước
ngoài đưa ra và được sử dụng làm nền tảng cho quá trình tổ chức phát triển kinh t

ế lãnh
thổ của các quốc gia trên thế giới. Trong số các lý thuyết trên có thể kể đến một số lý
thuyết nổi bật như : lý thuyết vành đai nông nghiệp của V. Thunen, lý thuyết tăng trưởng
nội sinh của Clark và Fisher, lý thuyết về điểm trung tâm của Christaller, hay lý thuyết
cực của François Perroux, vv. Việc nghiên cứu những lý thuyết này sẽ rất có ích cho việc
phát triển các vùng kinh tế của Việt nam, đặc biệt là lý thuyết c
ực tăng trưởng của
François Perroux đã từng được áp dụng rông rãi ở các nước ASEAN và đã chứng minh là
đạt kết quả thích hợp với các quốc gia còn thiếu vốn cần kêu gọi vốn nước ngoài. Sự
thành công này góp phần giải thích sự cần thiết và gợi ý định hướng phát triển kinh tế
lãnh thổ theo hướng có trọng điểm.
Về thực tế, trong những năm gần đây chúng ta đã đượ
c chứng kiến sự thành công
trong việc phát triển có trọng điểm các vùng kinh tế của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
đang phát triển như Trung Quốc, Malaixia, Philippine, Thái Lan, Đài Loan, vv.

x
Các nghiên cứu về phát triển vùng kinh tế trọng điểm của các nước này đã chỉ ra
rằng :
Một là: Các quốc gia này thường chọn những vùng lãnh thổ có lợi thế so sánh, thông
thường là những khu vực gần các trục giao thông huyết mạch, ven sông, ven biển có điều
kiện phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế với bên trong và bên ngoài, có khả năng tiếp
cận và hoà nhập nhanh chóng vào các thị trường hàng hoá để tập trung đầu tư
, lập các
trọng điểm phát triển công nghiệp và thương mại nhằm tạo địa bàn động lực, mũi đột phá
trong phát triển kinh tế vùng để từ đó có sức lan toả phát triển sang các vùng khác trong
nước.
Hai là: Thực tế thành công của các quốc gia nêu trên đã minh chứng cho quan điểm
đúng đắn về đầu tư phát triển có trọng điểm theo lãnh thổ. Có thể nói, đối với các nước
đang phát triển, các c

ực phát triển được xem là một công cụ hữu hiệu trong phát triển
lãnh thổ vì nó phù hợp với điều kiện hạn chế về nguồn lực của các nước này.
Ba là: Trong quá trình phát triển theo hướng có trọng điểm, sự phân cực giữa các
vùng về trình độ phát triển và mức sống dân cư là không thể tránh khỏi và có thể gia tăng
theo thời gian. Tuy nhiên, các quốc gia đều có những giải pháp khống chế, không để cho
tình trạng chênh l
ệch vùng trở nên trầm trọng. Bên cạnh việc đầu tư có trọng điểm để
vùng thuận lợi bứt phá nhanh về phát triển kinh tế, các quốc gia đều chủ động thực hiện
đầu tư hỗ trợ cho các vùng khó khăn dần dần tự phát triển, việc đầu tư cũng không chỉ
dừng lại ở khía cạnh kinh tế mà còn quan tâm thích đáng đến các khía cạnh xã hội và
môi trường.
Bố
n là: Để phát triển thành công các vùng kinh tế trọng điểm, vai trò điều tiết của
Nhà nước là rất cần thiết nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lãnh thổ trong việc
phân chia lợi ích quốc gia. Nhà nước có biện pháp điều tiết thu nhập giữa các vùng thông
qua các chính sách vĩ mô và cơ chế điều hành thích hợp ví dụ như có chính sách khuyến
khích phát triển hoặc hạn chế kịp thời đối v
ới các lãnh thổ có sự phát triển nóng, đồng
thời có các chính sách hỗ trợ các vùng khó khăn, kém phát triển.
2.2 Những nghiên cứu trong nước.
Thời gian gần đây, nhiều công trình nghiên cứu với những qui mô và tầm quan
trọng khác nhau đã được nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, nhiều nhà khoa học triển
khai nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu và kinh nghiệm ở các nước ngoài vào phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta. Các nghiên cứu củ
a Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, của Viện Nghiên cứu Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
của các nhà nghiên cứu như TS Lê Thu Hoa, TS Phạm Vũ Câu, … đã nhận thức nhất
quán tầm quan trọng và sự cần thiết của việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở
Việt Nam, những tác động tích cực trong việc tạo ra những vùng kinh tế phát triển
nhanh, gây ả

nh hưởng lan toả kích thích các vùng cùng phát triển, qua đó thoả mãn yêu

xi
cầu tăng lên về trình độ phát triển và mức sống của dân cư ở các vùng, hướng tới mục
tiêu phát triển bền vững nền kinh tế đất nước.
Các nghiên cứu này một mặt đã chỉ rõ yêu cầu phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm về mặt lý luận trong điều kiện phát triển kinh tế hiện tại của Việt Nam, khẳng định
vị trí vai trò quan trọng của ba vùng kinh tế
trọng điểm, đồng thời đưa ra được bức tranh
toàn cảnh về quá trình phát triển các vùng kinh tế trọng điểm của nước ta cũng như triển
vọng tương lai trong việc phát triển các vùng lãnh thổ này.
Mặt khác, các nghiên cứu trên cũng đã tập trung làm rõ được những vấn đề bất cập,
những yếu kém trong phát triển vùng kinh tế trọng điểm của nước ta (tốc độ tăng tr
ưởng
kinh tế chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, thu hút và sử dụng vốn chưa hiệu
quả, chưa tạo được mối liên kết cần thiết giữa các vùng trọng điểm với các vùng lãnh thổ
khác, thiếu sự điều tiết của Nhà nước và sự phân công hợp tác giữa các vùng kinh tế
trọng điểm với các địa phương, vv).
Đồng thời các nghiên cứu c
ũng đã chỉ ra những thách thức mới đối với yêu cầu
phát triển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm trong thời gian tới (về nâng cao khả
năng cạnh tranh của vùng, tăng cường liên kết vùng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
tăng cường quản lý nhà nước, giảm bớt sự chênh lệch quá lớn giữa các vùng lãnh thổ,
vv).
Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận về phát tri
ển vùng kinh tế trọng điểm, về mối
quan hệ giữa các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng lân cận mới chỉ được nghiên cứu
trên một số giác độ nhất định, chưa đưa ra được cái nhìn tổng thể, xem xét đầy đủ các
mối quan hệ tương tác giữa phát triển vùng và phát triển bền vững trong môi trường kinh
tế trong nước, khu vực và thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh củ

a quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Các nghiên cứu cho đến nay cũng chưa đề cập nhiều đến yêu cầu phát triển
bền vững các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển bền vững nội tại của bản thân vùng kinh
tế trọng điểm trong mối liên hệ với phát triển bền vững tổng thể toàn nền kinh tế quốc
dân. Các phương pháp tiếp cận, đánh giá hiệu qu
ả của sự phát triển cũng như đánh giá
tác động của sự phát triển có trọng điểm một số vùng lãnh thổ vẫn chủ yếu mang tính
chất thống kê và sử dụng cách tiếp cận định tính, ít sử dụng phương pháp định lượng, mô
hình hoá để có những kết luận đầy đủ hơn và dự đoán được những diễn biến trong tương
lai.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài đặt mục tiêu cuối cùng là trên cơ sở xác định rõ quan điểm, mục tiêu phát
triển bền vững các VKTTĐ nước ta trong giai đoạn đến 2015; đưa ra luận cứ (lý luận và

xii
thực tiễn) và những nội dung đề xuất hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung, sự phát triển bền vững của
từng VKTTĐ và liên kết vùng, trong đó có sự liên kết giữa vùng trọng điểm và vùng
không trọng điểm lân cận.
3.2. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu
- Hệ thống hoá nhữ
ng cơ chế, chính sách có liên quan đến quá trình hình thành và
phát triển các VKTTĐ, cơ chế vận dụng chính sách đối với từng VKTTĐ trong thời gian
qua; từ đó phân tích và đánh giá tác động của hệ thống chính sách và cơ chế vận dụng
chính sách của từng vùng đến sự phát triển của VKTTĐ theo những yêu cầu phát triển
bền vững.
- Kết luận về những tác động đồng thuận và không đồng thuận từ phía các cơ
chế
chính sách đến quá trình phát triển bền vững VKTTĐ nói chung cũng như những tác

động đặc thù của những chính sách đó đến từng VKTTĐ ở nước ta.
- Xác định luận cứ (lý luận và thực tiễn, trong đó kể cả những kinh nghiệm quốc
tế) có liên quan đến việc đề xuất hoàn thiện và đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách nhằm
phát triển bền vững VKTTĐ
ở nước ta; cơ chế vận dụng chính sách trong các điều kiện
đặc thù của từng VKTTĐ.
- Đề xuất nội dung hoàn thiện, đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách phát triển
VKTTĐ nói chung và những cơ chế vận dụng cho từng VKTTĐ đến năm 2015; những
kiến nghị và giải pháp nhằm thực hiện những đề xuất đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính
sách cho các VKTTĐ và cho từng vùng cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được yêu cầu đặt ra, trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận của
đề tài như sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận thực tế thông qua điều tra khảo sát.
Để phục vụ nhu cầu thông tin cho việc đánh giá thực trạng và tác động của các
chính sách đến sự phát triển của vùng KTTĐ, ngoài những thông tin thứ cấp có thể thu
thập từ nhi
ều nguồn khác nhau, nhóm đề tài đặt trọng tâm vào việc thu thập các thông tin
sơ cấp, coi đây là nguồn thông tin quan trọng và đáng tin cậy cho việc tiến hành nghiên
cứu. Những thông tin này được thu thập thông qua khảo sát, điều tra thực tế tại địa bàn,
kết hợp với việc tổ chức các cuộc hội thảo lấy ý kiến chuyên gia về các chuyên đề nghiên
cứu chuyên sâu.

xiii
Việc điều tra khảo sát nhằm mục đích tiếp cận tốt hơn và sát thực hơn với tình
hình thực tế phát triển kinh tế tại các địa phương. Quá trình khảo sát sẽ được thực hiện
đồng thời bằng nhiều phương pháp như điều tra trực tiếp, lấy ý kiến chuyên gia và những
người ra quyết định tại địa phương, tổ chức thảo luận nhóm và t
ổ chức hội thảo tại chỗ.
Hoạt động điều tra khảo sát này sẽ được tiến hành tại các địa phương thuộc cả ba vùng

kinh tế tọng điểm hiện nay.
Phương pháp tiếp cận này sẽ đảm bảo tính chính xác và chất lượng của các thông
tin thu thập, là kênh thông tin quan trọng cho phép đánh giá một cách cụ thể các tác động
của các cơ chế, chính sách phát triển vùng KTTĐ, cũng như cung cấp thông tin
đầu vào
cho các mô hình phân tích định lượng mà đề tài dự kiến áp dụng.
4.2 Phương pháp kết hợp nghiên cứu tổng hợp với nghiên cứu chi tiết.
(1) Nghiên cứu tổng thể các vùng kinh tế: đặt xu thế vận động của tổng thể các
vùng KTTĐ theo xu thế phát triển bền vững, đó là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu
của hiện tại, nhưng không gây ảnh hưởng đến khả năng ti
ếp cận các nguồn lực của tương
lai. Do đó, để có được sự phát triển bền vững tổng thể các vùng kinh tế, cần có cách tiếp
cận tổng hợp giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và tự nhiên. Cơ sở đánh giá tác động của cơ
chế chính sách phải dựa trên những yêu cầu về phát triển cả 3 khía cạnh trên. Khi có sự
tác động thiên lệch của một chính sách nào đó sẽ
ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Từ
kết quả đánh giá sẽ xác định mức độ ảnh hưởng đến phát triển bền vững, và sẽ là chỉ báo
để hiệu chỉnh cơ chế, chính sách nhằm đạt được sự phối hợp tốt nhất trong hệ thống. Phát
triển bền vững cần được tiếp cận một cách tổng hợp và toàn diện, kế
t hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT.
(2) Nghiên cứu đặc thù của từng vùng: mỗi vùng KTTĐ bản thân nó lại có những
đặc điểm và những yêu cầu phát triển khác nhau. Nghiên cứu sẽ phải tìm ra những điểm
nhấn cần thiết cho từng vùng một cách cụ thể để trên cơ sở đó có cái nhìn đúng cho sự
phát triển của từng vùng KTTĐ hiện nay,
đánh giá đúng sự tác động thuận và không
thuận của hệ thống chính sách và tìm ra những nét đặc thù trong vận dụng chính sách đối
với từng vùng, đảm bảo cho sự phát triển trong những điều kiện cụ thể. Việc nghiên cứu
chi tiết từng vùng KTTĐ sẽ cho phép sử dụng những kinh nghiệm, những mô hình phát
triển của vùng KTTĐ phía Nam vào 2 vùng KTTĐ Bắc Bộ và miền Trung một cách có

hiệu quả nhất.
4.3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu hệ thống và xu thế động.
(1) Đặt sự vận động của các vùng KTTĐ trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. Từ
đó nghiên cứu các chính sách một mặt nhằm tạo ra sự phát triển đột phá từ các vùng này,
mặt khác các chính sách cũng phải hướng tới yêu cầu nhằm phát huy tác động lan toả của

xiv
các vùng trọng điểm với các vùng khác trên lãnh thổ quốc gia và tạo dựng mối liên kết
kinh tế giữa các vùng với nhau.
(2) Đặt sự phát triển các vùng kinh tế dưới tác động tổng hợp của nhiều nhân tố,
trong đó cơ chế, chính sách là yếu tố tác động mang tính chủ quan về phía các nhà hoạch
định, các nhà lãnh đạo quản lý. Cơ sở của những quyết định này phải được hình thành từ
những yếu tố
khách quan mang tính chất thị trường và những phát sinh nội lực của các
vùng kinh tế.
(3) Hệ thống cơ chế chính sách đặt ra ở đây vừa là những chính sách chung của
nhà nước Trung ương áp dụng cho các vùng KTTĐ, vừa là cơ chế vận dụng chính sách
ấy đối với từng vùng khác biệt. Vì vậy, cách tiếp cận tổng hợp đòi hỏi có sự tham gia
tích cực của các bên quan tâm sẽ là cần thiết để làm rõ tác động của chính sách
đến phát
triển bền vững các vùng KTTĐ.
4.4. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu định lượng.
Một kỳ vọng đặt ra cho nghiên cứu này là phân tích định lượng cho các nội dung:
(1) Tác động của một số chính sách điều tiết vĩ mô đến quá trình thu hút vốn đầu
tư, đến tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khả năng thu hút lao động vào
các vùng KTTĐ;
(2) Tác động lan toả (tràn) củ
a sự phát triển của vùng KTTĐ đến các vùng khác
trên lãnh thổ quốc gia hoặc các vùng, địa phương lân cận;
(3) Đưa ra hệ thống chỉ tiêu thể hiện sự phát triển bền vững các vùng KTTĐ, bao

gồm các chỉ tiêu thể hiện sự bền vững nội tại vùng KTTĐ và những chỉ tiêu thể hiện sự
lan toả của nó đến nền kinh tế của quốc gia.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứ
u
5.1 Đối tượng nghiên cứu: với chủ đề là cơ chế chính sách phát triển bền vững các
VKTTĐ, đề tài đặt ra hai đối tượng nghiên cứu chính:
Một là: hệ thống cơ chế chính sách có liên quan đến phát triển các VKTTĐ của
Việt Nam xuất hiện trong thời gian qua, phân tích nội dung chính sách và những khía
cạnh được hay không được của hệ thống chính sách này với tư cách là công cụ định
hướng và điều tiết phát tri
ển nói chung và các VKTTĐ nói riêng.
Hai là: Các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam: Tình trạng và mục tiêu phát
triển (theo các khía cạnh phát triển bền vững) các VKTTĐ của Việt Nam; cơ chế chính
sách có ảnh hưởng đến thực trạng phát triển bền vững VKTTĐ (theo từng khía cạnh) và
hoàn thiện cơ chế chính sách cho sự phát triển bền vững VKTTĐ ở VN thời gian tới.

xv
5.2 Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài không chỉ nghiên cứu hệ thống cơ chế chính sách riêng cho các VKTTĐ
mà là tổng thể các cơ chế chính sách có liên quan đến phát triển VKTTĐ ở VN thời gian
qua. Tuy vậy, để phân chia cụ thể cơ chế riêng và chính sách riêng thì đây là một vấn đề
rất khó khăn, vì thế trong phân tích và đề xuất, đề tài dùng cụm từ cơ chế - chính sách
chung và về cơ bản đi sâu vào hệ thống chính sách, góc độ cơ chế
, chúng tôi chỉ đặt vấn
đề về cách thức vận dụng chính sách đối với từng địa phương trong VKTTĐ.
- Đối với hệ thống các VKTTĐ: đề tài đặt vấn đề nghiên cứu 3 VKTTĐ là chủ
yếu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, Chính phủ có quyết định thành lập thêm 01
VKTTĐ mới là VKTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu sẽ không đề cập đến
vùng này trong phân tích thực trạng mà chỉ
đề cập đến trong phần định hướng đến năm

2015.
4. Kết cấu đề tài: Những nội dung cơ bản của đề tài được kết cấu theo ba phần chính
ngoài mở đầu và kết luận như sau:
- Phần I: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về cơ chế chính sách phát triển bền
vững vùng kinh tế trọng điểm.
- Phần II: Thực trạng cơ
chế chính sách và tác động đến phát triển bền vững các
vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam thời gian qua.
- Phần III: Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm mục tiêu phát triển bền vững các
vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam đến 2015.


1
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

1.1. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
1.1.1. Khái luận chung về vùng kinh tế trọng điểm
Một trong những nội dung mang tính nguyên tắc đựơc chi phối từ lâu trong phân
vùng kinh tế trên thế giới là hình thành “khu vực nhân” trong mỗi vùng kinh tế hoặc mỗi
quốc gia. Khái niệm về “khu vực nhân, hay hạt nhân” dùng để chỉ những khu vực đóng
vai trò là động lực, có ý nghĩa đầu tầu, lôi kéo sự phát triển chung cho cả nướ
c hay cho
từng vùng kinh tế. Mỗi quốc gia, hay mỗi vùng đều tồn tại khu nhân hay lãnh thổ động
lực Ngay từ buổi bình minh của Cách mạng công nghiệp, cùng với sự ra đời của các
“Công trường thủ công”, các lãnh thổ công nghiệp tập trung cũng đã dần hình thành và
phát triển ở nước Anh. Tiếp đó, với các KCN tập trung nối tiếp nhau ra đời, nước Anh đã
trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớ
n nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh.

Tiếp sau nước Anh, quá trình công nghiệp hóa diễn ra tại Hà Lan, Đức, Pháp, Italia, Bỉ,
Hoa Kỳ, Canađa… kéo theo sự phát triển nhanh chóng của các lãnh thổ sản xuất công
nghiệp tập trung, làm trọng điểm cho sự phát triển của các vùng và toàn bộ nền kinh tế.
Tại Châu Mỹ La tinh, các lãnh thổ động lực dưới hình thức các khu thương mại tự do đã
bắt đầu xuất hiện từ
đầu những năm 1920. Tính đến năm 2002, trên toàn Thế giới đã có
khoảng 43 triệu người đang làm việc trong khoảng 3.000 khu thương mại tự do của 116
quốc gia và vùng lãnh thổ. Mục tiêu chính của các lãnh thổ kinh tế này là tăng cường thu
hút các dòng ngoại tệ, phát triển các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu và tạo ra
nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, từng bước tạo ảnh hưởng lan tỏa cho sự phát
triển của các lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế.
Từ những năm 1960, đã có một sự thay đổi lớn trong việc lựa chọn và phát triển
các “khu nhân”, nó không phải chỉ là một KCN, KCX, khu thương mại tự do, mà đã phát
triển thành một vùng động lực mà chúng ta gọi là “vùng kinh tế trọng điểm”. Một số
quốc gia trên Thế giới đã chủ động lựa chọn những lãnh thổ có lợi thế
so sánh, thông
thường là những khu vực gần các trục giao thông huyết mạch, ven sông, ven biển, gần
các đô thị sôi động (hoặc ngay chính các đô thị đó), có điều kiện phát triển và mở rộng
giao lưu kinh tế với bên trong và bên ngoài, có khả năng tiếp cận và hoà nhập nhanh
chóng vào các thị trường hàng hoá và dịch vụ… để tập trung đầu tư, lập các trọng điểm
phát triển công nghiệp và thương mại nhằm tạ
o địa bàn động lực, tạo mũi đột phá trong
phát triển lãnh thổ để từ đó có sức lan toả phát triển sang các lãnh thổ khác.


2
Hiện nay khái niệm về vùng kinh tế trọng điểm (hay vùng động lực) chưa được
thống nhất ở Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng: đó là những vùng có lịch sử phát triển lâu
dài và do đó có được sự tập trung các tiềm lực về kinh tế, có được sự tập trung các điều
kiện thuận lợi để phát triển (nhất là về giao thông, điện, nước, thông tin, dịch vụ tài chính

ngân hàng, lao
động kỹ thuật…), có được sự quan tâm của các nhà đầu tư, và trong
tương lai với sự hấp dẫn như thế, nó trở thành động lực lôi kéo sự phát triển của các vùng
khác, có vai trò to lớn trong việc quyết định tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp
thu công nghệ và kinh nghiệm quản trị tiên tiến của nước ngoài. Ý kiến nêu trên về cơ
bản phản ánh đựợc bức tranh của vùng kinh tế
trọng điểm. Tuy vậy, trên thực tế, nhiều
vùng động lực trên thế giới cũng như Việt Nam có thể được hình thành không phải từ
những vùng có lịch sử phát triển lâu dài mà là những vùng mới xuất hiện với những dấu
hiệu về lợi thế cạnh tranh; hay nhiều vùng kinh tế trọng điểm khi thành lập không phải là
đã có sự tập trung các tiềm lực kinh tế cao là mới chỉ
là có những dấu hiệu lợi thế để từ
đó thu hút nguồn lực để trở thành vùng tập trung kinh tế cao. Vì vậy theo quan niệm của
nhóm nghiên cứu, vùng kinh tế trọng điểm là vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện phát
triển, có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh, làm đầu tầu tăng trưởng nhanh để đẩy mạnh
quá trình phát triển cho chính mình, và tiến tới đóng
được vai trò chi phối quyết định đối
với nền kinh tế cả nước. Lãnh thổ được coi là VKTTĐ phải thỏa mãn các yếu tố sau:
(1) Hội tụ các điều kiện thuận lợi tập tung tiềm lực kinh tế, có vị trí thuận lợi
trong quá trình thực hiện liên kết, gần và có điều kiện phát triển thị trường và hội nhập,
có vị thế hập dẫn các nhà đầu t
ư, để tạo khả năng thực hiện vai trò đầu tầu tăng trưởng và
phát triển nhanh trong nội bộ vùng.
(2) Có khả năng chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của quốc gia, nếu được đầu
tư thích đáng sẽ có khả năng tạo tốc độ phát triển nhanh cho cả nước.
(3) Có khả năng tạo tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng; đồng thờ
i có thể tạo
nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Trên có sở đó vùng này không chỉ tự bảo đảm
nguồn tài chính cho mình mà có khả năng hỗ trợ cho các vùng khác.
(4) Có khả năng thu hút những ngành công nghiệp mới và các ngành dịch vụ then

chốt để rút kinh nghiệm về mọi mặt cho các vùng khác trong phạm vi cả nước. Từ đây có
tác dụng lan truyền sang các vùng xung quanh.
Quan niệm và yêu cầu đặt ra đối với VKTTĐ sử dụng trong nghiên cứu này hoàn
toàn phù h
ợp với quan điểm địa kinh tế mới: một mặt, muốn cho quốc gia phát triển
mạnh thì phải tạo ra được sự phát triển dẫn đầu của những vùng có lợi thế; mặt khác
trong dài hạn, sự tập trung và phân cực kinh tế phải kéo theo sự hội tụ dần về vấn đề xã
hội, đó chính là nhiệm vụ đặt ra cho các VKTTĐ.


3
1.1.2. Các quan điểm và lý thuyết về vùng KTTĐ trên Thế giới
1.1.2.1. Lý thuyết Lợi thế cạnh tranh
Một trong những lý thuyết quan trọng luận cứ cho việc hình thành các vùng kinh
tế trọng điểm là lý thuyết về lợi thế cạnh tranh vùng hay quốc gia.
Trước hết phải nói đến quan điểm của Adam Smith trong cuốn “của cải các dân
tộc” (năm 1776). Theo quan điểm của ông, “chính do bờ biển, và dọc theo các bờ sông
cho phép giao thông th
ủy là nơi các ngành sản xuất khác nhau bắt đầu chia nhỏ một cách
tự nhiên và tự cải tiến, dần dà không bao lâu, sau chính những cải tiến đó tự lan rộng vào
những vùng miền đất liền của đất nước”. Điểm mấu chốt trong quan điểm của Adam
Smith là: sự phát triển kinh tế của một quốc gia, trong những giai đoạn đầu của nó, có xu
hướng đi theo những vùng miền là nhữ
ng nơi mang lại tiềm năng tiếp cận thị trường lớn
nhất, và nhờ đó tạo điều kiện tiếp cận đến những nơi có mật độ cao. Song những nơi
cách xa vùng có mật độ cao, như các vùng trong đất liền (trong ví dụ của Adam Smith)
có xu hướng bị bỏ lại phía sau. Theo quan điểm của Adam Smith, lợi thế cạnh tranh của
vùng trong một quốc gia được xuất phát từ các
điều kiện lợi thế về khả năng tiếp cận thị
trường quốc tế (trong giai đoạn này là hệ thống giao thông đường thủy, đường sông), và

những vùng có lợi thế này sẽ trở thành những vùng động lực tăng trưởng mạnh mẽ, nó
không chỉ có khả năng tạo sức bật cho chính nó mà còn có khả năng lan tỏa sự phát triển
của mình sang các địa phương khác trong cả nướ
c. Theo ông, trong giai đoạn đầu của sự
phát triển, để tạo ra sự khởi sắc nhanh chóng cho nền kinh tế đất nước, cần khai thác triệt
để lợi thế cạnh tranh của các vùng này để phát triển.
Trong hai cuốn sách ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và cuốn ''Lợi thế cạnh tranh
quốc gia” vào năm 1990, M. Porter đã đưa ra quan điểm của mình về lợi thế cạnh tranh.
Ông đã phê phán các học thuyết cổ
điển trước đây cho rằng lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên thương trường cạnh tranh quốc tế là chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối của
Adam Smith hay chỉ có lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo ông, khả năng cạnh
tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động
của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chấ
t toàn cầu hóa thì nền
tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên
ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh
lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Khi nền tảng của cạnh tranh
càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên.
Lợi thế cạnh tranh quố
c gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao độ.
Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên ưu
thế quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành
trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và
nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối th
ủ quốc tế nhờ


4
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước,

nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành
phụ trợ.
Theo Porter, lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành,
quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo
ra một số ưu thế vượt trội hơn, ư
u việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế
cạnh tranh quốc gia có thể được bắt nguồn từ lợi thế so sánh nhưng không phải chỉ là lợi
thế so sánh. Lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh
nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điề
u kiện tự
nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được
coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho
một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành
công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng
cho các đố
i tượng có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh
và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp.
Như vậy, M. Porter đã phát triển khá đầy đủ quan niệm về lợi thế cạnh tranh.
Theo ông, lợi thế cạnh tranh, (i) trước hết phải được thể hiện từ những dấu hiệu lợi thế
của đất nước; (ii) nhưng phải từ lợi thế đó, phải làm thế nào đ
ó để duy trì lợi thế, biến
những lợi thế đó thành những thế mạnh cụ thể để tạo ra giá trị kinh tế từ lợi thế và tạo sự
hấp dẫn đối với bên ngoài (các nhà đầu tư, khách hàng, đối tác) nhằm phát triển kinh tế
từ các lợi thế này.
Từ các lý thuyết của một số nhà kinh tế nói trên, theo quan điểm của nhóm nghiên
cứu:
(i) Khi sản xuất ch
ủ yếu là nông nghiệp thì hoạt động kinh tế có xu hướng phân
phối đều theo không gian. Sự khác biệt về năng suất cũng chỉ ở mức độ vừa phải, thay
đổi tự nhiên theo chất lượng đất canh tác và khí hậu.

(ii) Khi kinh tế phát triển và sản phẩm được mở rộng sang lĩnh vực công nghiệp
và dịch vụ, thì một số vùng trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp và người lao
động do có những lợi thế so sánh. Những lợi thế so sánh có thể bao gồm: lợi thế do ưu
đãi tự nhiên và địa lý, ví dụ như vị trí ven biển, ven sông; có nhiều tài nguyên thiên nhiên
ưu đãi; có thể do điều kiện về lịch sử, xã hội như lao động, ngành truyền thống; có thể do
hệ thống sơ sở hạ tầng để lại từ xa xưa;… Các yếu tố đó đã mang lại thu
ận lợi cho các
vùng này trong các vấn đề về hội nhập thị trường, thu hút lao động, vốn và khả năng mở
rộng giao lưu thương mại trong nước và quốc tế.
(iii) Chúng ta cần nằm bắt được các dấu hiệu lợi thế so sánh này, kết hợp với việc
chính phủ đưa ra các chính sách định hướng cũng như trợ giúp sẽ thúc đẩy quá trình thu
hút đầu tư, nguồn nhân lực, để tạo d
ựng và duy trì lợi thế cạnh tranh của vùng, hình
thành những vùng động lực, đóng vai trò dẫn đầu để tận dụng tính hiệu quả nhờ tích tụ


5
trở thành các trung tâm tăng trưởng và sáng tạo để có cơ hội dẫn dắt sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong tương lai dài.
1.1.2.2. Các lý thuyết về sự phát triển các lãnh thổ trọng điểm
Từ thế kỷ 19, Johann - Heinrich Von Thunen trong lý thuyết phát triển các vành
đai nông nghiệp (1833) đã coi các thành phố, các cảng biển, các đầu mối giao thông lớn
là những nút, những trọng điểm của lãnh thổ có s
ức hút và sức lan tỏa ra xung quanh.
Cách phân tích và lý luận để dẫn tới lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp dưới
ảnh hưởng của các thành phố (trung tâm thị trường) có ích rất nhiều cho những nghiên
cứu liên quan đến các trọng điểm của lãnh thổ.
Trong lý thuyết định vị công nghiệp (1909), nhà kinh tế học A. Weber đã đề cập
những ưu điểm và hạn chế của việc tập trung các doanh nghiệp tạ
i một địa điểm mà

trong ngôn ngữ kinh tế học hiện đại chúng được gọi là các “lợi ích ngoại ứng” và “chi
phí ngoại ứng” (hay phi kinh tế ngoại ứng) của vùng lãnh thổ trong phạm vi quyết định
đầu tư. Các lợi ích ngoại ứng xuất hiện khi các doanh nghiệp có thể chia sẻ gánh nặng sử
dụng chung hệ thống kết cấu hạ tầng và có thể hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt độ
ng, thực hiện
chuyên môn hoá, hợp tác hoá, làm tăng NSLĐ, hạ giá thành sản phẩm, sử dụng tiết kiệm
các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng. Phi kinh tế ngoại ứng xuất hiện khi có sự quá
tải của lãnh thổ và sự cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau dẫn đến hạn chế sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp.
Lý thuyết định vị công nghiệp được vận dụng trong việc lựa chọn các lãnh thổ

trọng điểm cho phát triển: nhờ các lợi ích ngoại ứng mà những lãnh thổ/ vùng hội tụ
được nhiều yếu tố thuận lợi cho sự phát triển sẽ trở nên hấp dẫn đối với các hoạt động
kinh tế, đặc biệt là công nghiệp; mặt khác sự tập trung phát triển của công nghiệp lại dẫn
tới tăng cường tiềm lực kinh tế cho những lãnh thổ/ vùng này.
Lý thuy
ết vị trí trung tâm (1933) của hai nhà bác học người Đức là W. Christaller
và A. Losch là sự khám phá quy luật phân bố không gian, nghiên cứu các hệ thống
không gian cơ sở để xác định các nút trọng điểm. Việc phân chia các địa điểm không
gian của các nhà sản xuất có quy mô thị trường khác nhau sẽ tạo nên một trật tự thứ bậc
của các vị trí trung tâm. Các trung tâm đô thị càng lớn sẽ càng có nhiều loại sản phẩm
được sản xuất và tiêu th
ụ, càng có chức năng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn so với
các trung tâm đô thị nhỏ. Theo quan niệm của Christaller, các thành phố là cực hút, là hạt
nhân của sự phát triển, là đối tượng để đầu tư có trọng điểm trên cơ sở nghiên cứu mức
độ thu hút và mức độ ảnh hưởng của các vị trí trung tâm.
Lý thuyết cực tăng trưởng do nhà kinh tế học người Pháp Francois Perrous đề
xướng vào n
ăm 1950, sau đó được Albert Hirshman, Myrdal, Friedman và Harry



6
Richardson tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Lý thuyết này chú trọng vào những lãnh thổ
làm phát sinh sự tăng trưởng kinh tế. Theo lý thuyết này, sự phát triển kinh tế của một
lãnh thổ không phải là tiến hành một cách cân đối/ đồng đều theo một tốc độ như nhau
trên tất cả các vùng. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, có vùng có mức tăng trưởng cao hơn
nhờ vào sự phát triển của các ngành chủ đạo/ mũi nhọn (leading industry) với năng l
ực
đổi mới và khả năng mang lại lợi nhuận cao. Các ngành chủ đạo/ mũi nhọn này thường
tập trung tại một số thành phố lớn và được ưu tiên phát triển, trở thành “cực tăng
trưởng”. Cực tăng trưởng thường lại là các trung tâm sản xuất, trung tâm thương mại,
trung tâm tài chính, trung tâm thông tin, trung tâm giao thông hay các trung tâm dịch vụ
quan trọng có tính chất quyết định đối với lãnh thổ. Tập trung hoá về lãnh thổ đạ
t tới một
mức nhất định và sau đó hiệu ứng lan toả sẽ làm cho các cơ hội phát triển mới bắt đầu
xuất hiện ở nhiều địa phương khác. Kết quả là sự phát triển của một cực như là một lãnh
thổ trọng điểm sẽ có tác dụng như những “đầu tàu” lôi kéo theo sự phát triển của các
vùng lãnh thổ khác, tạo điều kiện cho n
ền kinh tế cả nước phát triển nhanh và mạnh hơn.
Tác động của cực được xác định bởi cả hiệu ứng thu hút hay hiệu ứng phân cực và
hiệu ứng lan toả. Hiệu ứng phân cực (hay tập trung hoá) là những tác động tiêu cực của
tăng trưởng tại điểm cực tới các vùng trong phạm vi ảnh hưởng của nó, thể hiện ở sự gia
tăng khoảng cách chênh lệ
ch GDP bình quân đầu người giữa các vùng và những ảnh
hưởng xấu tới sự tăng trưởng, phát triển các vùng xung quanh do sự thu hút các nguồn
lực vào vùng cực. Hiệu ứng lan toả được đề cập như là những tác động tích cực của sự
tăng trưởng tại điểm cực tới tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người và cơ cấu
kinh tế của các vùng lãnh thổ xung quanh nó.
1.1.2.3 Quan điể
m địa kinh tế mới

Trong một khoảng thời gian dài, đứng trên góc độ địa kinh tế, đã tồn tại trong
nhiều quốc gia với các yếu tố chính trị không giống nhau như Liên Xô cũ, Cộng hòa Ả
Rập, Ấn Độ, Braxin, Indonexia, Mêxico, Nigieria, Nam Phi hay nhiều nước khác một
quan điểm “tăng trưởng kinh tế theo không gian”. Theo đó các chính sách của Chính phủ
luôn cố gắng hướng tới trải rộng sự phát triển kinh t
ế đồng đều trên mọi vùng lãnh thổ
của đất nước, mặc dù bản thân những vùng này có những đặc điểm và điều kiện thuận
lợi cũng như khó khăn cho phát triển kinh tế hoàn toàn không giống nhau. Thậm chí
trong lịch sử, nhiều nước phát triển đã từng có một sự cam kết mạnh mẽ về sự phát triển
cân đối theo không gian. Ví dụ như nước Anh theo đuổi ch
ủ trương này vào khoảng cuối
những năm 1920 đến thập kỷ 1980; hay Canada cũng đã làm tương tự như vậy vào
khoảng cuối thập kỷ 50 của thể kỷ 20. Tuy nhiên mọi sự cố gắng trong nhiều năm đều
dẫn đến những kết cục không sáng sủa, các vùng không có khả năng phát triển chẳng
những không cải thiện được thành quả kinh tế của mình sau những chính sách đầu t
ư khá


7
tốn kém của Chính phủ. Hơn nữa cách chính sách làm giảm khoảng cách chênh lệch phát
triển giữa các vùng trong nước, trên một góc độ nhất định đã làm giảm đi khả năng phát
triển của những vùng có nhiều lợi thế hơn
Một thực tế ở nhiều nước thành công về phát triển kinh tế trong thời gian qua đã
cho thấy chính phủ của các quốc gian này đã vừa phải tạo điều ki
ện thuận lợi cho sự tập
trung hóa sản xuất diễn ra ở những vùng có lợi thế cạnh tranh, lại vừa phải đề ra những
chính sách khiến mức sống của tất cả mọi người (xét về mặt dinh dưỡng, giáo dục và
điều kiện vệ sinh) đồng đều hơn giữa các vùng. Để tranh thủ được lợi ích của sự tập
trung hóa sản xuất và hội tụ xã h
ội, đòi hỏi phải có những hành động chính sách chú

trọng đến sự hội nhập và liên kết kinh tế. Sự thành công của các nước này đã củng cố
cho một quan điểm về địa kinh tế mới có giá trị rất quan trọng trong tổ chức không gian,
phân vùng kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển của nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Quan điểm địa kinh tế mới đó là: “Phát tri
ển kinh tế cần phải tập trung (mất cân đối);
còn xã hội thì tiến đến hội tụ (phát triển đồng đều)”. Theo quan điểm này, một quốc gia
thành công trong phát triển cần phải theo đuổi các chính sách nhằm bảo đảm một mức
sống tương đối đồng đều giữa các vùng trong nước nhưng không phải thực hiện bằng
cách tạo sự tăng trưởng kinh tế mạnh thông suốt theo không gian, mà ph
ải theo phương
châm: Sản xuất kinh tế phải tập trung còn mức sống thì hội tụ. Một số vấn đề nhóm
nghiên cứu nhấn mạnh từ quan điểm địa kinh tế mới có liên quan đến vấn đề phát triển
vùng trọng điểm như sau:
(1) Muốn toàn bộ quốc gia trở nên phồn thịnh thì nhất quyết phải có một số vùng
giầu lên trước những vùng khác. Khi nền kinh t
ế chuyển từ nông nghiệp sang công
nghiệp, sự phân bố sản xuất và dân số theo không gian gắn kết chặt chẽ với nhau hơn.
Trong phạm vi một nước, sự tích tụ và liên kết kinh tế của các vùng có lợi thế đã làm cho
các vùng này trở thành vùng động lực tăng trưởng nhanh, dẫn đầu có nhiều hoạt động
kinh tế. Sự tiến bộ về công nghệ và toàn cầu hóa làm gia tăng tiềm năng thị trườ
ng của
những vùng dẫn đầu (vùng động lực) ở các nước đang phát triển tăng cường tính tập
trung, phát huy hiệu quả của các lợi thế cạnh tranh và nâng cao tính đậm đặc trong mật
độ kinh tế. Đây chính là khía cạnh ủng hộ cho quan điểm cần phải có các vùng kinh tế
trọng điểm ở các nước đang phát triển theo nghĩa tạo động lực cho tăng trưởng nhanh,
tích tụ các yếu t
ố vật chất cho quá trình thực hiện phát triển kinh tế chung của cả nước.
(2) Chênh lệch về mức sống theo không gian sẽ đi theo hình chữ” U ngược”, tức
là mở rộng ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, tiếp tục duy trì mức cao trong thời
gian dài trước khi dần dần hội tụ với nhau. Khi một nước công nghiệp hóa, nó cần phải

tập trung nguồn lực có giới hạn vào các vùng d
ẫn đầu, nơi có tiềm năng tăng trưởng cao.
Nhiều vùng nằm xa các trung tâm mới có mật độ kinh tế cao sẽ trở nên tụt hậu. Khoảng
cách lớn về năng suất và thu nhập có thể tồn tại trong nhiều thế hệ ngay cả khi vốn và lao
động vẫn rất cơ động. Tăng cường tính tập trung về kinh tế vào các vùng động lực đã


8
làm đậm đặc thêm sự bất bình đẳng theo không gian. Tiếp theo giai đoạn này là quá trình
thu hẹp khoảng cách mức sống, một mặt quá trình phân phối hoạt động kinh tế theo
không gian trở nên ổn định hơn; mặt khác chính phủ sẽ áp dụng đa dạng hóa những
chính sách có liên quan đến sự hội tụ về mặt xã hội.
(3) Để thực hiện quá trình trên, vai trò của hệ thống chính sách của Chính phủ là
rất cần thiết: (i) Tr
ước tiên là các chính sách nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho các vùng
động lực, tức là, từ các dấu hiệu lợi thế, vai trò của các chính sách Chính phủ là làm thế
nào để tạo điều kiện thu hút vốn, nhân lực, đầu tư đẩy mạnh hoạt động kinh tế, mở rộng
hệ thống thị trường, phát triển khoa học công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, cải thiện
môi trường, tạo sự hấp d
ẫn của vùng cho các đối tác đầu tư… (ii) tiếp sau đó là áp dụng
các chính sách nhằm hướng tới sự hội tụ về xã hội, các chính sách này, một mặt dựa vào
quan điểm địa kinh tế mới hướng tới sự giao lưu và hội nhập, ví dụ như quan điểm di dân
tự do, không tạo rào cản cho người dân ở các vùng khác di chuyển đến vùng động lực,
hay chính sách đầu tư hệ thống giao thông, cơ sở
hạ tầng, thông tin liên lạc, chính sách
phát triển khu đô thị; một mặt khác các chính sách có liên quan đến công bằng xã hội
như: chính sách điều tiết thuế thu nhập lũy tiến, chính sách tài khóa, thị trường đất đai,
nhà ở; các chính sách liên quan đến đầu tư công như giáo dục, y tế, cấp nước và vệ sinh
cơ bản.
1.1.3. Sự cần thiết phát triển VKTTĐ ở Việt Nam

1.1.3.1. Mục tiêu CNH, HĐH đất nước và yêu cầ
u chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CNH, HĐH là tất yếu khách quan đối với các nước có nền kinh tế còn kém phát
triển như Việt Nam. Mục tiêu CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có CCKT hợp lý. CNH, HĐH cũng là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về
chất của nền kinh tế, là quá trình làm biến đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu chủ yếu là
nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ hiện đại,
làm tăng tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế gắn với những đổi
mới căn bản về công nghệ, tạo nền tả
ng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền
vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH chính là sự thay đổi cơ cấu
kinh tế từ tình trạng lạc hậu, mất cân đối, kém hiệu quả sang một cơ cấu hợp lý, đa dạng,
cân đối, năng động và có hiệu quả cao, gắn với từng bước trưởng thành c
ủa cơ sở vật
chất - kỹ thuật do CNH, HĐH tạo ra. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng
ta không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn làm thay đổi cơ cấu trong từng
ngành, từng lĩnh vực, từng vùng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghệ
tiến bộ, không chỉ tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá mà còn kết hợp đồng


9
thời với các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, và có những mũi nhọn phát triển đi tắt, đón
đầu, không chỉ áp dụng công nghệ tiên tiến mà còn tận dụng và hiện đại hoá các công
nghệ truyền thống.
Xét từ giác độ lãnh thổ, mục tiêu CNH, HĐH đòi hỏi các vùng có tiềm năng, lợi
thế phải nhanh chóng trở thành những lãnh thổ trọng điểm, động lực, có hệ thống KCHT
hiện
đại, chức năng đa dạng, dịch vụ chất lượng cao để đáp ứng cho sự phát triển của các

ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ hiện đại và đòi hỏi hàm lượng chất xám cao
cùng với các ngành nông nghiệp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế
cao. Bên cạnh đó mục tiêu CNH, HĐH cũng đòi hỏi quan tâm một cách hợp lý đến việc
hỗ trợ phát triể
n của các vùng còn lại, đặc biệt là các vùng khó khăn, để các vùng này
dần vươn lên tự giải quyết khó khăn cho mình, khai thác được các lợi thế và nguồn lực
tại chỗ, từng bước chuyển dịch CCKT theo hướng tiến bộ và tăng cường liên kết giữa
các vùng, tạo nên sự phát triển ổn định và bền vững của cả nước.
Thực chất của quá trình trên cũng là hình thành một CCKTLT hợp lý. Một
CCKTLT h
ợp lý phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, cơ cấu đó phải bảo đảm phù hợp nhất với các điều kiện cấu thành (các
phần tử cơ cấu vùng) và những nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước giao
cho vùng nhằm bảo đảm sự phát triển tốt nhất của vùng và thực hiện tốt nhất các nhiệm
vụ được giao.
Thứ hai, cơ cấu đó phải bảo đảm sự “ăn khớp nhịp nhàng” của các yếu tố phát
triển nói chung và của sức sản xuất nói riêng giữa các lãnh thổ, có sự thích ứng cao với
những thay đổi bên ngoài.
Thứ ba, cơ cấu đó phải bảo đảm đạt được hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất, hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằ
ng xã hội.
Một CCLT được coi là hợp lý cũng phải đạt được ba nhóm mục tiêu là:
Các mục tiêu của vùng: mỗi vùng phải hoàn thành những nhiệm vụ kinh tế quốc
dân nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và các nguồn lực có trong vùng, hoàn
thiện CCKT của vùng để phát triển tối đa kinh tế vùng về lâu dài, tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật và những điều kiện kinh tế - xã hội khác cho việc phát tri
ển nhanh chóng kinh tế và
nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng, BVMT sinh thái.
Các mục tiêu của ngành: mỗi vùng phải hoàn thành nhiệm vụ sản xuất những
sản phẩm chủ yếu, đáp ứng nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, giảm đến mức

thấp nhất chi phí sản xuất, phối hợp hài hoà với các bộ phận khác trong ngành và ngoài
ngành nằm ở các vùng khác.


10
Các mục tiêu của cả nước: CCKTLT hợp lý phải thể hiện đúng chiến lược phát
triển quốc gia cả trong kinh tế, xã hội, môi trường cũng như vấn đề an ninh quốc phòng.
Với những yêu cầu và mục tiêu nêu trên, rõ ràng, CCKTLT hợp lý không thể chỉ
là quan hệ tỷ lệ của các bộ phận cấu thành CCKTLT đó, mà điều quan trọng hơn, cốt lõi
hơn là phải đề cập đến "ki
ểu bố trí" nền kinh tế xã hội theo lãnh thổ. Những yêu cầu và
mục tiêu về tính hiệu quả và chất lượng của phát triển đòi hỏi sự phát triển cần được tập
trung vào một số lãnh thổ trọng điểm; trong khi đó yêu cầu và mục tiêu ổn định và phát
triển bền vững của nền kinh tế quốc gia lại đòi hỏi phải quan tâm phát triển toàn diện các
vùng lãnh thổ củ
a đất nước. Vì vậy, để hình thành CCKTLT hợp lý, các quốc gia luôn
phải phát hiện ra và có giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các lãnh thổ hay địa bàn có
vai trò động lực để thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển chung của nền kinh tế; đồng thời cũng
phải tìm ra các vùng còn chậm phát triển hay trong tình trạng trì trệ, suy thoái để có giải
pháp thích hợp hỗ trợ cho các vùng này phát triển. "Kiểu bố trí" phát triển có trọng điểm
theo lãnh thổ kết hợp vớ
i phát triển toàn diện như vậy có một ý nghĩa rất quan trọng, đặc
biệt là đối với các quốc gia trong nền kinh tế chuyển đổi với điểm xuất phát thấp, nguồn
vốn hạn hẹp, các nguồn lực hạn chế như Việt Nam.
1.1.3.2. Sự khác biệt theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
của Việt Nam
Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là khung cảnh và là
điều kiện cần
thiết (chứ không phải quyết định) đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của bất cứ quốc
gia/ vùng lãnh thổ nào. Đặc biệt, đối với một quốc gia đang ở giai đoạn đầu của quá trình

CNH với kinh tế nông nghiệp và dân cư nông thôn còn chiếm tỷ trọng cao thì sự phân dị
các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên giữa các vùng lãnh thổ đã khiế
n cho các
vùng có những tiềm năng và lợi thế không giống nhau, điều này có ý nghĩa không nhỏ
đối với việc hình thành CCKTLT và phát triển các lãnh thổ trọng điểm.
- Việt Nam là nước đứng đầu về tính chất biển trong số các quốc gia lục địa Đông
Nam Á. Ngoại trừ hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, các vùng còn lại đều tiếp giáp với
biển, có nhiều vũng, vịnh kín gió, cửa sông nước sâu, nhiều cảng tự nhiên tạo đi
ều kiện
thuận lợi cho việc thiết lập một hệ thống các cửa vào - ra giữa các vùng trong nội địa và
với các lãnh thổ bên ngoài.
Vị trí nằm ở "ngã ba đường", gần các tuyến hàng hải quan trọng qua Biển Đông
nối châu úc với vùng Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài
Loan), nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương có ý nghĩa không nhỏ với các vùng ven
biển, đặc biệt là các khu vự
c thuộc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và Nam Bộ.

×