Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

Lv ths luật nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.92 KB, 145 trang )

1

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng" [18, tr. 33].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của
mọi cơng việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng" [39, tr. 269].
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống
hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của
hệ thống chính trị. Cấp xã giữ một vai trị, vị trí hết sức quan
trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, pháp
luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp
chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước
với nhân dân.
Qua từng thời kỳ lịch sử, chính quyền cấp xã không
ngừng được xây dựng và củng cố, bảo đảm cho chính quyền
nhà nước vững mạnh từ cơ sở.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây
dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời
muốn xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh thì


2
phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để
thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.


Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng
của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước đã xác định từ nay đến
năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức
xúc trong đó ghi rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát
huy sức dân, khơng tham nhũng, khơng ức hiếp dân; trẻ hóa
đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp
lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [20, tr. 167168].
Thực tế cho thấy, ở những xã chính quyền vững mạnh là
do có đội ngũ cán bộ mạnh và những xã yếu kém thì thường
cũng bắt đầu yếu kém từ khâu cán bộ. Trong những năm gần
đây, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trong cả nước nói
chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã có những mặt tiến bộ rõ
nét.
Thực hiện Nghị quyết 09 ngày 14 tháng 8 năm 1997 của
Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Phú Thọ về xây dựng chính
quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
nhiều mặt, nhất là kiến thức quản lý nhà nước. Theo đó năng


3
lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ
chính quyền cấp xã khơng ngừng được nâng cao, đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới,
góp phần tạo nên chuyển biến trên tất cả các mặt đời sống

kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phịng trên
địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước,
của địa phương thì đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã cịn
nhiều bất cập. Trong năm 2001, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh
đã tổ chức thi chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giỏi tỉnh Phú
Thọ lần thứ nhất. Qua cuộc thi cho thấy trình độ năng lực của
đội ngũ chủ tịch UBND cấp xã còn nhiều hạn chế bất cập,
nhất là sự hiểu biết về pháp luật liên quan đến quản lý nhà
nước ở cấp xã, phường, thị trấn cũng còn nhiều hạn chế. Do
những hạn chế đó, nên trong q trình quản lý khi gặp những
tình huống, những vụ việc rắc rối khơng đề ra được phương án
giải quyết tối ưu. Cũng thông qua cuộc thi cho thấy có sự
chênh lệch cả về nhận thức, năng lực giữa chủ tịch UBND các
xã miền núi so với các xã, phường, thị trấn đồng bằng, thành
phố, thị xã. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh hầu
hết chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp bồi
dưỡng ngắn ngày. Những lúng túng, va vấp, vi phạm trong
cơng việc là điều khó tránh khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn
đặt ra cho Phú Thọ về đào tạo để nâng cao trình độ năng lực
cho đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Bên cạnh những hạn
chế do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp


4
xã, một bộ phận không nhỏ cán bộ do tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường, đã có biểu hiện suy thoái về phẩm chất,
đạo đức, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, mất
dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức quyền làm trái
các nguyên tắc quản lý, bán và sang nhượng đất trái phép,

thậm chí bớt xét tham ô tiền của nhà nước, bị truy tố trước
pháp luật... gây tổn hại không nhỏ đến uy tín và làm giảm sút
lịng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng
khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đơng người vẫn cịn. Bên cạnh
đó, hoạt động của các đại biểu HĐND cấp xã còn nhiều hạn
chế. Năng lực, trình độ của các đại biểu HĐND cấp xã khơng
đáp ứng được u cầu, địi hỏi của nhiệm vụ mà nhân dân
giao cho.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện
về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã để có giải pháp nâng
cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
ở tỉnh Phú Thọ. Từ những phân tích nêu trên tác giả lựa chọn
đề tài: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay" để làm luận văn
thạc sĩ. Đây là vấn đề cấp bách, phù hợp với yêu cầu cải cách
nền hành chính nhà nước hiện nay, phù hợp với thực tiễn của
địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã từ năm 1991 đến nay đã được các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội và các nhà hoạt động chính trị quan tâm


5
dưới nhiều góc độ khác nhau như: Học viện Hành chính Quốc
gia năm 1991, đã cơng bố một cuốn sách về: "Cải cách bộ
máy quản lý hành chính nhà nước và xây dựng đội ngũ cơng
chức nhà nước".
Có nhiều cơng trình khoa học, các luận văn thạc sĩ, cử
nhân nghiên cứu về bộ máy chính quyền cấp xã trong đó có

bàn về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Đáng chú ý là các
cơng trình sau đây: Giáo sư Hồ Văn Thơng: "Tình hình các tổ
chức chính trị ở nông thôn nước ta" được in trong cuốn sách
"Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay", tập 2, Nxb Tư
tưởng văn hóa, Hà Nội 1991; Lê Đình Chếch: "Về nhà nước xã
hội chủ nghĩa và công tác cán bộ chính quyền cấp xã ở Hải
Hưng", Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1994; Nguyễn Thị
Hải: "Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà
nước", Hà Nội, 2001.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề
đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm.
Một số đề tài khoa học, cơng trình nghiên cứu đề cập trực tiếp
đến vấn đề này và hồn chỉnh hơn. Chẳng hạn: Phó giáo sư,
tiến sĩ Bùi Tiến Quý "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000; Tiến sĩ Thang Văn
Phúc và tiến sĩ Chu Văn Thành đồng chủ biên: "Chính quyền
cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã" của Viện Khoa học Tổ
chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị


6
quốc gia, Hà Nội, 2000; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên
"Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam" của
Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2001; Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và giáo sư Hồ Văn Thông chủ
biên: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2001; Thạc sĩ Phạm Đức Thăng: "Mấy suy nghĩ về việc củng

cố tổ chức Đảng và chính quyền cấp xã hiện nay", Thơng tin
Chính trị học, số 1(8)/2001; Phó giáo sư, tiến sĩ Hồng Chí
Bảo: "Một số vấn đề xử lý nạn quan liêu, tham nhũng như một
tình huống chính trị", Thơng tin Chính trị học, số 2 (9)/2001;
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên:
"Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã
ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Phó giáo sư, tiến sĩ
Nguyễn Đăng Dung: "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa
phương", Nxb Đồng Nai, 1997.
Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các
Tạp chí Thơng tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước,
Nhà nước pháp luật như: Tiến sĩ Lê văn Hịe: "Về hồn thiện
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi ", Đề tài
độc lập cấp nhà nước: "Các giải pháp đổi mới hoạt động của
hệ thống chính trị các tỉnh miền núi", Hà Nội, 2002.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều đề
cập vấn đề đội ngũ cán bộ của chính quyền cấp xã, hoặc là ở
dạng chung nhất hoặc đặt nó nằm trong phạm vi nghiên cứu


7
tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã nói chung,
chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới
góc độ một luận văn khoa học về nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã ở một tỉnh cụ thể như đề tài luận
văn lựa chọn ở đây. Tuy nhiên, trong các cơng trình đã được
cơng bố có những nội dung liên quan đến đề tài sẽ được tác
giả luận văn tham khảo có kế thừa, chọn lọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng,
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Phân tích cơ sở lý luận về cán bộ chính quyền cấp xã
và chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Trong đó hệ
thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta về đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã; khái niệm và những tiêu chí đánh giá,
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã.
+ Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã tỉnh Phú Thọ, qua đó nêu ra những vấn đề tồn
tại cần khắc phục cũng như phân tích các nguyên nhân hạn


8
chế đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú
Thọ.
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất
lượng, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Quan niệm về chính quyền cấp xã cịn nhiều ý kiến
khác nhau. Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ của HĐND và UBND

cấp xã.
- Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp
xã ở Phú Thọ nhưng chỉ giới hạn từ thời kỳ tái lập tỉnh Phú Thọ
năm 1997 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Nhà nước ta về
nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN), về cán bộ, về
chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết
học Mác - Lênin, kết hợp các phương pháp lịch sử - thực tiễn;
phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học; thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới của luận văn


9
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn về chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã ở một tỉnh trung du, miền núi như tỉnh
Phú Thọ.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất
các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng
hiện nay đối với một tỉnh trung du miền núi, có nhiều dân tộc,
đa dạng các loại hình kinh tế như tỉnh Phú Thọ.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


10

Chương 1
Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã
1.1. Chính quyền cấp xã và vị trí, vai trị của đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp

a) Khái niệm chung về chính quyền cấp xã
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền xã phường - thị trấn (gọi chung là cấp xã) là chính quyền cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp hồn chỉnh:
Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Tính đến 19 tháng 4 năm 2002, nước ta có 10.579 đơn vị
hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 8.964 xã, 573 thị
trấn, 1.042 phường. Dưới xã, phường, thị trấn có các cộng
đồng dân cư tự quản; dưới xã có thơn, làng, ấp, bản, bn.
Dưới phường, thị trấn có tổ dân phố, ở một số thành phố, thị
xã giữa phường và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa xã và thơn
có khu hành chính. Số lượng xã, phường, thị trấn trong những
năm qua khơng ổn định. Cùng với q trình chia tách các tỉnh,
huyện, việc thành lập mới các xã, phường, thị trấn diễn ra ở
hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chỉ trong
vòng
7 năm từ 1995 đến 2002 đã tăng 357 đơn vị trong đó có 59

xã, 213 phường và 85 thị trấn. Chính quyền cấp xã là nơi trực


11
tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể quản lý hành chính nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phịng, kinh tế,
văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm bảo các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, nâng cao
mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã đóng
vai trị rất quan trọng trong tồn bộ hoạt động quản lý nhà
nước và cung cấp dịch vụ cơng phục vụ nhân dân.
Trong q trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước,
Đảng và nhân dân ta ln dành sự quan tâm đối với chính
quyền cấp xã. Cùng với việc hồn thiện thể chế, chính sách
đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng và Nhà nước luôn
chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất
đạo đức, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã.
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là
cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân
dân, hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện
vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trị rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý
công việc của nhà nước và hoạt động của nó mang tính chất

quyền lực của Nhà nước, bằng phương thức tác động của Nhà


12
nước. Cấp xã là đơn vị cấp dưới cùng, vì thế Chính quyền cấp
xã chỉ bao gồm HĐND và UBND. Qua đó có thể hiểu, chính
quyền cấp xã là một cấp cuối cùng trong hệ thống chính
quyền 4 cấp của Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phịng ở cơ sở, thực hiện
việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái
niệm chính quyền cấp xã như sau: Chính quyền cấp xã bao
gồm HĐND và UBND là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước ở địa
phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ
vào nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ
chức thực hiện những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân
dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh,
quyết định của cấp trên.
b) Đặc điểm của chính quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau:
Một là: Chính quyền cấp xã có HĐND là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương và UBND do HĐND bầu ra là cơ
quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương. Vì thế, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở
cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý

trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân.


13
Hai là: Chính quyền cấp xã khác với chính quyền cấp
tỉnh, cấp huyện: Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã chỉ bao
gồm cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND là cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa phương và
UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, khơng có các cơ quan tư pháp:
Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Ba là: Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc với
nhân dân; cán bộ chính quyền cấp xã là người hàng ngày trực
tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến mọi quyền lợi và
nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp
luật của cấp trên. UBND cịn có trách nhiệm rất nặng nề phải
quản lý mọi mặt đời sống của nhân dân địa phương cho nên
trong hoạt động mang nhiều tính chất hành chính địa phương.
Bốn là: Trong hoạt động của chính quyền cấp xã, giữa
HĐND và UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm
quyền và UBND có ưu thế vượt trội: Chính quyền cấp xã được
coi là một cấp chính quyền hồn chỉnh, bao qt tồn diện đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng ở địa bàn
cơ sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của
UBND nhìn chung là giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết
định biện pháp, còn UBND tổ chức thực hiện. Trong khi đó, tổ
chức bộ máy của HĐND không đủ sức hoạt động độc lập mà
chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo các nghị
quyết. Theo Điều 5, Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi):



14
"Hội đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân" [35, tr. 7]. Đối với cấp tỉnh và cấp huyện: "Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân
dân và các ban của Hội đồng nhân dân" [35, tr. 7]. Với cơ cấu
tổ chức như trên, các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có
khả năng soạn thảo các nghị quyết, thức hiện chức năng
quyết định các biện pháp, chủ trương về các vấn đề thuộc
thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện. Trong khi đó, ở
cấp xã, do khơng có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại kiêm
nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp hoàn toàn dựa vào bộ máy
của UBND và mỗi năm chỉ họp từ 3 - 4 lần. Trong điều kiện đó,
hoạt động của UBND sẽ có ưu thế vượt trội hơn, dễ lấn át
HĐND, dễ lâm vào tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi cịi".
Năm là: Các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành
trên nền tảng những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư
trong một khối liên hoàn thống nhất. Mọi vấn đề của địa
phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải được giải
quyết trên cơ sở kết hợp hài hịa các lợi ích: Nhà nước, dân cư
và giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây khơng chỉ là cơ
quan cai trị- quản lý mà cịn là cơ quan thể hiện lợi ích chung
của dân cư.
Trong khi tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương
có việc phân chia, hoặc phân cơng phân nhiệm một cách rạch
ròi giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cấp tỉnh, cấp huyện
cũng có cơ quan tư pháp - Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án
nhân dân. Riêng cấp xã, trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính



15
quyền chỉ có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, thậm chí UBND cấp
xã, phường, thị trấn trong nhiều trường hợp cịn phải kiêm
nhiệm ln cả chức năng tư pháp (xét xử, hịa giải).
1.1.2. Vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đều đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Có đường lối
đúng đắn nhưng thiếu đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng
lực thì cách mạng cũng khó thành cơng. Cán bộ có vai trị
quyết định thắng lợi của cách mạng.
C. Mác, Ph. Ăngghen là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng
sản khoa học, là lãnh tụ vĩ đại đầu tiên của phong trào cách
mạng vô sản trên thế giới đã đưa ra những tư tưởng, quan
điểm cơ bản về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ
cán bộ. Song do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chưa có một
đảng vơ sản nào giành được chính quyền nên Mác và
Ăngghen chưa thể bàn cụ thể về cán bộ và công tác cán bộ
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhưng chính các ơng đã
trực tiếp bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán
bộ cho tổ chức cộng sản có tính quốc tế đầu tiên là "ủy ban
thông tin cộng sản". Trong Đại hội "Liên đoàn những người
cộng sản", Mác và Ăngghen đã nêu rõ nguyên tắc tổ chức một
đảng cách mạng của giai cấp vô sản là phải lựa chọn cho


16

mình những đại biểu cơng nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu nhất
theo phương châm: Cần phải sàng lọc từng người một.
V.I. Lênin là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước
Nga. Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ bức thiết của phong
trào chúng ta", khi nói về vai trò của người lãnh đạo phong
trào cách mạng, Người đã chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh đạo
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức
và lãnh đạo phong trào" [30, tr. 473].
Tổng kết những năm đầu của cách mạng (1917-1922),
V.I. Lênin đã khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những
cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế
thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn"
[33, tr. 449].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc" [39, tr. 269]; "công việc thành công hay thất
bại

đều

do

cán

bộ

tốt


hay kém".
Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua
thực tiễn cách mạng ở các nước, các Đảng cộng sản và công
nhân quốc tế đều chứng minh và khẳng định vai trò quan
trọng của cán bộ và công tác cán bộ.


17
Tính đến 19/4/2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính
cấp xã. Trong kỳ bầu cử ngày 14/11/1999, tổng số đại biểu
HĐND xã, phường, thị trấn được bầu là 227.000 đại biểu.
Tổng số cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh
hoạt phí và phụ cấp hàng tháng từ các nguồn ngân sách và
kinh phí khác nhau trong tồn quốc khoảng 2 triệu người,
bình quân mỗi xã, phường, thị trấn có khoảng 190 cán bộ.
Cán bộ chun trách bình qn mỗi xã có 22 người. Đại biểu
HĐND bình qn mỗi xã có 22 đại biểu; cán bộ cấp thơn tổng
số có khoảng 480.000 người; cán bộ y tế, giáo dục mầm non
khoảng 200.000 người. Cán bộ không chuyên trách (như cán
bộ phụ trách công tác dân số, Hội người cao tuổi, Hội chữ thập
đỏ, cán bộ hoạt động văn hóa - thơng tin...) có khoảng
780.000 người. Có thể thấy, số lượng cán bộ cấp xã là quá
lớn, và xu hướng cịn mở rộng thêm chứ khơng tinh giảm được
do cơng việc dồn xuống cấp dưới quá nhiều, và nhiều ngành
cũng như cấp tỉnh, huyện đều muốn có cán bộ của mình ở cơ
sở cấp xã.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chun trách
và khơng chun trách:
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn
thời gian lao động, làm việc tại công sở để thực hiện chức

trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử
gồm: Cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, HĐND, UBND, những
người đứng đầu ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị xã hội. Cán bộ chuyên môn được UBND tuyển chọn


18
gồm trưởng công an, xã đội trưởng, cán bộ văn phịng, địa
chính, tài chính - kế tốn, tư pháp, văn hóa - xã hội. Số lượng
cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định. Tổng số cán bộ
chuyên trách ở một xã, phường, thị trấn tối thiểu là 17 người,
tối đa là 25 người (chưa kể kiêm nhiệm).
Cán bộ chuyên trách ở cấp xã có chế độ làm việc và
được hưởng chính sách chế độ về cơ bản như cán bộ, cơng
chức nhà nước; khi khơng cịn là cán bộ chuyên trách mà
chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự
đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế
độ nghỉ việc. Cán bộ, cơng chức cơ sở có đủ điều kiện được thi
tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh cán bộ, cơng chức, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2003, tại điểm g và h khoản 1, Điều 1 quy định: Những người
do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường
trực HĐND, UBND; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn và những người
được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc UBND cấp xã được gọi là cán bộ công chức nhà nước
trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và
các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
Cán bộ chính quyền cấp xã là bộ phận lớn nhất và rất

quan trọng trong đội ngũ cán bộ của bộ máy chính quyền ở
nước ta. Họ vừa là người đại diện của nhân dân trong quản lý
hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là người trực tiếp tổ
chức thực hiện quyền hành pháp và quản lý hành chính nhà


19
nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ quản lý và phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng
ở địa phương. Cán bộ chính quyền cấp xã đã có nhiều đóng
góp, trưởng thành trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ
quốc qua các thời kỳ cách mạng trước đây và hiện nay, họ
vẫn phát huy được những ưu điểm của mình.
Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước, trước những hồn cảnh và tình thế mới, đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập cần
phải nghiên cứu khắc phục.
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa số lượng ngày một tăng
của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nhưng chất lượng
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã tuy rất đơng về số lượng nhưng không đủ sức đảm
đương được những công việc trong những điều kiện và tình
hình mới của đất nước.
Theo quy định tại Nghị định số 174/CP của Chính phủ
ban hành ngày 29/9/1994, cơ cấu của UBND xã, phường, thị
trấn gồm có: 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 5 ủy viên ủy ban.
Với khoảng 1 vạn đơn vị hành chính cấp xã, đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã có số lượng khoảng 70.000 người.
Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định, ngoài số

ủy viên ủy ban đã nêu trên, các chức danh khác được bố trí
phù hợp với yêu cầu của từng địa phương theo các mức sau
đây:


20
- Dưới 5.000 dân: 12 cán bộ.
- Từ 5.000 dân đến dưới 10.000 dân: 14 cán bộ.
- Từ 10.000 dân đến dưới 15.000 dân: 16 cán bộ.
- Từ 15.000 dân đến dưới 20.000 dân: 18 cán bộ.
- Trên 20.000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ.
Trừ số cán bộ làm cơng tác đồn thể, số cán bộ chính
quyền cấp xã gồm chủ tịch UBND và các thành viên của ủy
ban dao động từ 7 đến 13 người tùy theo từng loại xã.
Đến Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày
23/01/1998, quy định số lượng cán bộ chính quyền cấp xã như
sau:
- Xã dưới 10.000 dân: 17-19 cán bộ.
- Xã từ 10.000 dân đến 20.000 dân: 19-21 cán bộ.
- Xã trên 20.000 dân, cứ thêm 3.000 dân thêm 1 cán bộ,
tối đa không quá 25 cán bộ.
Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm cơng tác đồn thể, số
lượng cán bộ làm cơng tác chính quyền cấp xã đã tăng lên ở
từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu lấy bình qn mỗi xã có
khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cấp xã
trong cả nước sẽ vào khoảng 212.000 người. So với đội ngũ
cơng chức hành chính trong tồn quốc từ cấp huyện đến
Trung ương hiện có khoảng 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ
làm cơng tác chính quyền ở cấp xã khơng phải là nhỏ. Ngồi
số đó ra cịn có 227.000 người là đại biểu HĐND và hàng trăm




×