PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay chúng ta đang bước vào quá trình hoà nhập về kinh tế - chính
trị, văn hóa với các quốc gia trên thế giới, thông thạo tiếng Anh là một nhu
cầu rất cần thiết đối với bất kì ai, đặc biệt đối với các sinh viên Việt Nam -
“những chủ nhân tương lai của đất nước”. Sử dụng thành thạo tiếng Anh
giúp mọi người có thêm phần tự tin trong giao lưu và hợp tác với các bạn bè
quốc tế. Trong công việc, ngoài năng lực chuyên môn, sử dụng thành thạo
tiếng Anh cũng góp phần giúp mọi người dễ xin việc hay dễ thăng tiến hơn.
Ở Việt Nam hiện nay, việc dạy tiếng Anh không chỉ được thực hiện
trong trường phổ thông mà còn được xem là một môn học bắt buộc ở bậc đại
học. Đối với trường Đại học Tây Nguyên, các sinh viên được học tiếng Anh
ngay từ năm đầu tiên, trường cũng đã thành lập trung tâm ngoại ngữ - tin
học nhằm đào tạo nâng cao trình độ tiếng Anh cho những sinh viên có nhu
cầu, nhưng việc học tiếng Anh của các bạn sinh viên, đặc biệt là đối với các
bạn sinh viên khoa kinh tế như thế nào? Năng lực tiếng Anh của họ ra sao?
Liệu rằng đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra hay chưa? Khi mà các công ty
tuyển dụng đòi hỏi các sinh viên ra trường khi nộp hồ sơ xin việc phải thể
hiện năng lực tiếng Anh của mình.
Xuất phát từ vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài “năng lực tiếng Anh của
sinh viên khoa kinh tế trường Đại học Tây Nguyên” làm đề tài nghiên cứu
của chúng tôi.
1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu Đề tài này chúng tôi nhằm tìm hiểu :
- Tầm quan trọng của tiếng Anh
- Năng lực tiếng Anh của sinh viên
- Một số khó khăn của sinh viên khi học tiếng Anh
- Đề xuất một số kinh nghiệm học tiếng Anh
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng: Các sinh viên năm 2,3,4 của các ngành trong khoa kinh tế
trường đại học Tây Nguyên theo cấu trúc mẫu điều tra sau:
Bảng 1: Số lượng sinh viên tham gia kiểm tra
Ngành Năm
2
Năm
3
Năm
4
Tổng
cộng
Tỷ lệ trên toàn
bộ mẫu điều tra
Kinh Tế Nông Lâm 5 5 5 15 25%
Quản Trị Kinh Doanh 5 5 5 15 25%
Tài Chính Ngân Hàng 5 5 5 15 25%
Kế Toán 5 5 5 15 25%
Tổng cộng 20 20 20 60 (100%)
1.3.2. phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Thông tin trong đề tài được thu thập trong phạm vi khoa kinh tế trường Đại
học Tây Nguyên
- Về thời gian:
Số liệu sơ cấp được sử dụng trong nghiên cứu của đề tài là số liệu do điều
tra thu thập thông tin từ các sinh viên khoa kinh tế của trường Đại học Tây
Nguyên trong năm 2009
2
PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Người duy nhất làm cuộc cách mạng thành công đầu tiên trong ngôn ngữ
học là Ferdinand de Saussure.Trong trào lưu tư tưởng ấy, trước ông đã có
một số nhà cấu trúc luận tiên phong như C. Withney (1817–1894) cũng nhận
thấy ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, một thiết chế, một tập hợp kí hiệu,
một công cụ giao tiếp, và Baudouin de Courtenay cũng đã chỉ ra rằng âm
của tiếng nói thực hiện chức năng khu biệt.
Một luận điểm quan trọng trong “học thuyết của Ferdinand de
Saussure” là coi ngôn ngữ về cơ bản như một công cụ giao tiếp xã hội, chứ
không phải là biểu hiện của một cấu trúc tư duy tồn tại độc lập với mọi hình
thức của nó.
Muốn bảo đảm chức năng giao tiếp, ngôn ngữ trước hết phải là một hệ
thống kí hiệu. Không có kí hiệu thì không thể có một sự giao tiếp nào cả. Kí
hiệu không phải là những yếu tố rời rạc, mà là một tập hợp có tổ chức, có hệ
thống, một chỉnh thể bao gồm những yếu tố có liên quan mật thiết với nhau,
tuỳ thuộc lẫn nhau, giá trị của yếu tố này là do sự đồng thời có mặt của yếu
tố kia, trong hệ thống, quyết định.
Ngôn ngữ là một bộ phận "của hoạt động ngôn ngữ, một sản phẩm của xã
hội, một kho tàng do hoạt động nói năng tích luỹ lại trong mỗi người, trong
tất cả các bộ óc của tập thể như một chế ước, mà mỗi thành viên trong cộng
đồng phải tuân theo. Còn lời nói là hành vi của cá nhân sử dụng ngôn ngữ
trong giao tiếp. Nó là tất cả những cái người ta nói, và bao gồm những kiểu
kết hợp khác nhau, kể cả những cách phát âm khác nhau tuỳ thuộc vào ý chí
của mọi người. Những biểu hiện của lời nói đều có tính chất cá nhân và nhất
thời. Như vậy, tách ngôn ngữ ra khỏi lời nói, là đồng thời cũng tách riêng ra:
3
- Cái có tính chất xã hội với cái có tính chất cá nhân.
- Cái chủ yếu với cái thứ yếu, và ít nhiều có tính chất ngẫu nhiên".
Đối tượng của ngôn ngữ học là cái phần chủ yếu ấy, có tính chất xã hội, cái
có truyền thống lâu đời đã làm nên bản chất cơ cấu của nó.
Vai trò đặc biệt của ngôn ngữ làm trung gian giữa tư duy và ngữ âm trong
những điều kiện như thế nào đó, mà sự kết hợp của chúng dẫn đến chỗ cái
này phân định đơn vị cho cái kia.
(Nguồn: Đái Xuân Ninh (1984). Học thuyết của Ferdinand de Saussure. In trong Ngôn
ngữ học: Khuynh hướng • Lĩnh vực • Khái niệm (tập 1). Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà
Nội 1984)
2.1.2. Tại sao tiếng Anh được xem là ngôn ngữ quốc tế
Crystal (1997) nhận định rằng tiếng Anh từ lâu đã không còn là sở
hữu riêng của người Anh, Mỹ nữa. Vì ngay cả quốc gia nói tiếng Anh lớn
nhất thế giới cũng chỉ chiếm khoảng 20% tổng số người sử dụng tiếng Anh
trên toàn cầu.
Thực vậy, để phân loại và liệt kê số lượng các đối tượng sử dụng tiếng Anh,
Kachru (1992) đề nghị một sơ đồ như sau:
4
Expanding: các nước sử
dụng tiếng Anh như ngoại ngữ
Outer: các nước sử dụng
tiếng Anh nhu ngôn ngư thứ
hai, chính thức
Inner: các nước sử dụng
tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ
(theo Denham, P.A. (1992) sau
công cuôc đổi mới kinh tế, Việt
Nam đã có thể được đưa vào
danh
sách của Expanding circle)
Và theo Kachru (1992) thì chính các nước sử dụng tiếng Anh như một ngoại
ngữ (Expanding circle) là nơi tiếng Anh có tiềm năng truyền bá và phát triển
nhanh nhất. Gradoll (1999) cho rằng mức cân đối giữa lượng người bản ngữ
(native) và không bản ngữ (non-native) sẽ thay đổi đáng kể trong 50 năm
đến. Lượng người sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2 sẽ tăng từ 235
triệu lên đến khoảng 462 triệu trong 50 năm đến. Điều này có nghĩa là số
người không bản ngữ sử dụng tiếng Anh sẽ vượt xa người bản ngữ. Do vậy,
theo các tác giả này đây là một trong những lý do tại sao xem tiếng Anh như
một ngôn ngữ của toàn cầu. (Nguồn: Võ Thị Thao Ly. “tiếng Anh “chuẩn” của người
bản ngữ hay tiếng Anh như ngôn ngữ quốc tế?”, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà
Nẵng)
Theo số liệu thống kê, mặc dù tiếng Anh vẫn đứng sau tiếng Trung
Quốc và tiếng Tây Ban Nha về số lượng người dùng làm ngôn ngữ chính,
nhưng đây vẫn được coi là tiếng thông dụng nhất trên toàn thế giới:
+ Được hơn 350 triệu người dùng làm ngôn ngữ mẹ đẻ
+ Được hơn 800 triệu người dùng làm ngôn ngữ thứ 2
+ Được hơn 44% người dân khối EU sử dụng làm ngôn ngữ thứ 2
+ Là ngôn ngữ phổ biến nhất dùng trong thương mại quốc tế
+ Là ngôn ngữ duy nhất được chấp nhận trong ngành công nghiệp máy bay
+ Là ngôn ngữ của ngoại giao, y khoa, khoa học - kỹ thuật nghệ thuật
+ Là ngôn ngữ phổ biến nhất trên internet và dung trong công nghệ thông tin
(Nguồn: Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 211 - 2008)
5
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tiếng Anh - chính sách giáo dục hiện nay
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta hiện
nay và trong thời đại bùng nổ thông tin trong bối cảnh toàn cầu. Làm thế nào
để có thể đi tắt, đón đầu, để con người Việt Nam có thể vươn lên tầm cao trí
tuệ thế giới? Phải đầu tư, phát triển giáo dục, phải biết ngoại ngữ.
Ngoại ngữ có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục đào tạo và
trong sự phát triển của đất nước. Nói chung, không những vì biết ngoại ngữ
là yêu cầu tất yếu của lao động có kỹ thuật cao nhằm đáp ứng các quy trình
công nghệ thường xuyên được đổi mới, mà biết ngoại ngữ còn là một năng
lực cần thiết đối với người Việt Nam hiện đại.
Để nâng cao trình độ anh ngữ cho mọi người, ngày 02 tháng 8 năm
2006 theo nghị định số 75/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục: “đổi mới toàn diện việc
dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương
trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến
năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại
ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm
2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có
đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm
việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở
thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”. ( Nguồn: )
6
2.2.2. Tiếng Anh – mối quan tâm đầu tiên của các nhà tuyển dụng
Tiếng Anh không chỉ quan trọng trong việc cập nhật thông tin mới trên các
phương tiện thông tin đại chúng, mà trong thời kì kinh tế hội nhập kinh tế
quốc tế nó rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thương
trường quốc tế. Trong giai đoạn này, cơ hội và rủi ro đều đồng hành cùng
với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy để có thể cạnh tranh giành khách
hàng mở rộng thị trường ra nhiều nước, các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải chú trọng tất cả các khâu trước trong và sau khi bán hàng bao gồm từ
việc chào hàng, giao tiếp, đến bán hàng, phục vụ khách hàng và bảo hành
sản phẩm… vì thế, doanh nghiệp cần phải có trình độ tiếng Anh đủ tốt để
giao thương với các đối tác nước ngoài. Nếu xảy ra tranh chấp trong quá
trình giao thương để tìm được khách hàng và giao dịch, các công ty Việt
Nam bắt buộc phải biết đế tiếng anh bởi đây được coi là ngôn ngữ chuẩn
mực trong thương mại. Khi có bất cứ vấn đề tranh chấp xảy ra giữa hai bên
bản hợp đồng bằng tiếng Anh sẽ được sử dụng làm văn bản pháp lý để quyết
định đúng sai. Chính điều trên cũng dẫn đến một thực tế về tầm quan trọng
của tiếng Anh trong xin việc làm. Hầu hết các nhà tuyển dụng đều đòi hỏi
người tìm việc phải có trình độ tiếng anh giao tiếp tốt. Chính vì thực tế này
mà chúng ta thấy các bạn học sinh du học trở về, với ngoại ngữ là thế mạnh,
dễ dàng tìm được công việc tốt tại các công ty nước ngoài. Chưa nói đến
những ngành liên quan đến xuất nhập khẩu, luật thương mại… người tuyển
dụng chắc chắn sẽ đòi hỏi trình độ tiếng Anh chuyên môn khắt khe hơn rất
nhiều. chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng tiếng Anh không còn là lợi thế
như trước đây mà ngày nay đã trở thành điều kiện bắt buộc để được lọt vào
danh sách ứng viên phỏng vấn.
7
PHẦN 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Trường Đại học Tây Nguyên là một trường đại học vùng đa ngành, đa
lĩnh vực đào tạo nhân tài, nhân lực cho các tỉnh Tây Nguyên, được thành lập
ngày 11 tháng 11 năm 1977 tại thành phố Buôn Mê Thuột.
Tính đến năm 2007 trường đã đào tạo được gần 12.000 kỹ sư, bác sĩ, giáo
viên, cử nhân kinh tế, trong đó có hơn 1.600 là người dân tộc thiểu số.
(nguồn: )
Khoa Kinh tế là một khoa trực thuộc trường Tây Nguyên, được thành lập
năm 1997. Khoa là cơ sở đào tạo học viên có trình độ đại học, sau đại học,
đào tạo cả hai hệ chính quy và vừa học vừa làm. Khoa kinh tế hiện nay đào
tạo các ngành: quản trị kinh doanh, kế toán, kinh tế nông lâm, tài chính ngân
hàng, luật kinh doanh. Đối tượng tuyển sinh là học sinh trong cả nước, tốt
nghiệp phổ thông trung học hoặc cấp tương đương, trúng tuyển trong kỳ thi
tuyển sinh vào trường đại học hàng năm, hoặc tuyển chọn nguyện vọng 2, 3
theo quy chế hiện hành, các chế độ ưu tiên được thực hiện theo quy chế của
nhà nước.
Sau khi tốt nghiệp các tân cử nhân có đủ năng lực để làm việc tại nhiều nơi
hoặc tự kinh doanh trong các lĩnh vực được đào tạo. Các học sinh tốt nghiệp
loại xuất sắc được ưu tiên tuyển chọn và đào tạo để làm cán bộ giảng dạy
của khoa và nhà trường. Sinh viên sau khi ra trường có nguyện vọng và điều
kiện có thể được đào tạo tiếp lên thạc sĩ.
Trong những năm qua, sinh viên khoa kinh tế của trường đã đạt nhiều
thành tích học tập xuất sắc. Nhiều sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, nhiều sinh
viên ra trường được làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tư
nhân và nhiều người được giữ lại giảng dạy tại trường. Tuy nhiên, môi
8
trường học tiếng Anh ở trường vẫn còn hạn chế về chất lượng giảng dạy của
giảng viên cũng như về cơ sở vật chất dành cho việc học tiếng Anh, nên
nhiều sinh viên ra trường mà trình độ tiếng Anh vẫn chưa cao.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập số liệu, thông tin sơ cấp: các số liệu lấy từ bảng hỏi điều tra
trình độ của các sinh viên khoa kinh tế trường đại học tây nguyên
Thu thập số liệu, thông tin thứ cấp: Các tài liệu liên quan đến mục tiêu
nghiên cứu lấy từ sách, báo và trên internet
3.3.2 Phương pháp xử lý số liệu
Công cụ xử lý số liệu: Các số liệu sơ cấp về năng lực tiếng Anh của
sinh viên khoa kinh tế trường Đại học Tây Nguyên được xử lý trên
Microsoft Excel.
3.3.3 Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được sử dụng để mô tả
kết quả học tiếng Anh, qua đó nói lên cho thấy năng lực tiếng Anh của sinh viên
- Phương pháp so sánh: so sánh các chỉ tiêu về năng lực tiếng Anh của
sinh viên các ngành với nhau trong khoa kinh tế. So sánh chất lượng đào tạo
giữa trường, các trung tâm với nhau.
9
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Năng lực tiếng Anh của sinh viên khoa kinh tế trường Đại học Tây
Nguyên
4.1.1. Kết quả thu được từ bảng điểm của các sinh viên
Bảng 2 và bảng 3 cung cấp các số thống kê về kết quả kiểm tra lấy từ
bảng điểm của 40 sinh viên của các lớp trong khoa kinh tế năm 3, 4 theo
phương pháp ngẫu nhiên được điều tra qua thu thập trên trang web của
trường (). Điểm thi của sinh viên là điểm lần
đầu tiên.
Bảng 2: Tổng kết điểm các môn tiếng Anh của các ngành
Ngành
Chỉ tiêu
Kinh tế nông
lâm
Quản trị kinh
doanh
Tài chính
ngân hàng
Kế toán
Mode 5 6 7 6
Median 6 5 6 6
Average 5.93 4.63 5.23 5.37
Max 9 6 8 8
Min 2 0 0 0
Range 7 6 8 8
Qua bảng số liệu cho thấy điểm trung bình của ngành Kinh tế Nông Lâm cao
nhất trong nghành (5.93), sau đó là ngành Kế toán (5.37), Tài chính ngân
hàng (5.23) và cuối cùng là ngành Quản trị kinh doanh (4.63). Trong khi đó
mức chênh lệch về điểm giữa các kỳ, của ngành Quản trị là nhỏ nhất (6),
sau đó là ngành Kinh tế Nông lâm (7), tiếp đó là hai ngành Tài chính ngân
hàng và Kế toán (8). Nhìn chung ngành kinh tế Nông lâm học giỏi và đều
hơn so với các ngành khác trong khoa. Thực trạng đó cũng khá mâu thuẫn so
với thực tế yêu cầu công việc hiện nay của các ngành.
Bảng 3: Kết quả điểm trung bình các môn Anh Văn của các sinh viên theo
từng ngành
10