Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Lv ths triết học nhân sinh quan phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ đạo phật hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.8 KB, 87 trang )

A. Phần mở đầu

1. Tính cấp bách của đề tài
Đạo Phật truyền vào nước ta khoảng đầu Công nguyên
và đã trở thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có
sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày nay, đã ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam
trong lịch sử. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo
của nó trở thành một bộ phận khơng thể thiếu của nền văn
hố dân tộc. Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới
của đất nước, do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường cùng với các học thuyết tư tưởng và tơn giáo khác,
đạo Phật đã có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự
chuyển mình lớn lao của đất nước. Tình hình đó có tác động
khơng nhỏ, theo cả hai chiều hướng tích cực, tiêu cực, tới
đời sống xã hội, tới lối sống, đạo đức của xã hội nước ta.
Đặc biệt, thủ đô Hà Nội là một trong hai trung tâm lớn của
Phật giáo Việt Nam cũng khơng nằm ngồi dòng chảy trên.
Do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của đất nước cũng như đóng góp một phần nhỏ vào
nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bẩn
sắc dân tộc mà Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đề
ra trong Đại hội Đảng lần thứ VIII, việc đứng trên lập trường
triết học mác-xít để nghiên cứu nhân sinh quan đạo Phật và
sự thể hiện của nó ở các tín đồ đạo Phật hiện nay, chỉ ra
những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó
cũng như những mặt hạn chế của nó chính là một việc làm
có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận cũng như về mặt
thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, tôi mạnh
1



dạn chọn đề tài: "Nhân sinh quan Phật giáo và sự thể
hiện của nó ở một số tín đồ đạo Phật hiện nay" (qua
quan sát một số chùa ở Hà Nội).
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhân sinh quan Phật giáo (nguyên thủy) là một đề tài
đã được nhiều nhà khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt
trong thời gian gần đây, cụ thể là:
- Năm 1984, Tiến sĩ Peter D. Santina viết cuốn sách
"Fundamentals of Buddhism" (Nền tảng của đạo Phật).
Cuốn sách được Thích Tâm Quang dịch sang tiếng Việt năm
1996. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày 12 bài giảng
về lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo lý căn
bản nhất của đạo Phật như: tứ diệu đế, lý nhân duyên,
nghiệp, ngũ uẩn,... Tác giả xuất phát từ quan niệm của một
Phật tử ở phương Tây, có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý nên
khi trình bày, tác giả cố gắng làm rõ từng nội dung trong
quan niệm nhân sinh của đạo Phật nguyên thủy.
- Năm 1984, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện
triết học xuất bản cuốn "Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử
tư tưởng Việt Nam" tập hợp 25 bài tham luận của các nhà
nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nước ta như các
giáo sư Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Đức Sự,
Trần Bạch Đằng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Dỗn, Trần Đình
Hượu,... trong cuộc hội thảo về "Mối quan hệ giữa Phật giáo
và lịch sử tư tưởng Việt Nam". Trong tập bài tham luận này,
các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác
động qua lại giữa Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam,
tính chất của Phật giáo và Phật giáo Việt Nam và đề cập


2


đến một số tông phái Phật giáo ở Việt Nam, ảnh hưởng của
Phật giáo tới chủ nghĩa yêu nước, tới văn hóa Việt Nam,...
- Năm 1988, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản
cuốn "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Viện Triết học do
PGS Nguyễn Tài Thư chủ biên. Cuốn sách đề cập đến quá
trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam từ
đầu Công nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
- Năm 1994, tác giả Thích Tâm Thiện viết cuốn "Tìm
hiểu nhân sinh quan Phật giáo" do Thành hội Phật giáo
thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Đây là cuốn nhập mơn
Phật học. Tác giả trình bày Dun sinh - Vơ ngã qua các thời
kỳ, trong các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Già,...
cuối cùng nhận diện Phật giáo trong sự đối chiếu với các
học thuyết triết học, thấy được vị trí và giá trị của Phật giáo
với những nguyên lý nền tảng của Phật giáo. Tuy nhiên,
trong tác phẩm này, tác giả trình bày nhân sinh quan Phật
giáo nguyên thủy dưới góc độ một Phật tử.
- Năm 1997, TS Nguyễn Hùng Hậu viết cuốn "Lược
khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam" Nhà xuất bản
Khoa học xã hội xuất bản. Trong đó tác giả phân tích khía
cạnh bản thể luận, quan niệm nhân sinh của các thiền sư
thời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
Thượng sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang,... ở đây, tác giả mới đề
cập giai đoạn Phật giáo phát triển đến đỉnh cao - thời kỳ
Nhà Trần.
Nhìn chung, các cơng trình trên đã nghiên cứu về
nhân sinh quan Phật giáo về mặt lý luận, nhưng chưa có

cơng trình nào đi sâu nghiên cứu những biểu hiện của nhân

3


sinh quan Phật giáo ở các tín đồ Phật giáo tại Hà Nội - một
trung tâm Phật giáo lớn của cả nước trong điều kiện công
cuộc đổi mới của đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là:
+ Trình bày một cách có hệ thống về nhân sinh quan
Phật giáo (nguyên thủy), rút ra những mặt tích cực và hạn
chế của nó.
+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh
ở các tín đồ đạo Phật hiện nay (tập trung ở tín đồ Hà Nội).
- Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề thuộc
nhân sinh quan của Phật giáo như: Quan niệm về con người
và cuộc đời con người, quan niệm về giải thoát và con
đường giải thoát.
+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh
Phật giáo ở tín đồ đạo Phật Hà Nội hiện nay qua niềm tin
tôn giáo, việc thực hiện lễ nghi và sự thực hành giới luật của
họ. Từ đó rút ra những kết luận về ảnh hưởng của nó đến
đời sống xã hội nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về triết học và lịch sử triết
học, kết hợp với phương pháp luận nghiên cứu triết học
phương Đông.


4


- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp các phương
pháp: phân tích với tổng hợp, lơgic với lịch sử,, quan sát,
phỏng vấn,...
5. Cái mới của luận văn
Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống quan
niệm nhân sinh Phật giáo (nguyên thủy), chỉ ra những giá trị
tích cực cùng những hạn chế của nó; đi sâu nghiên cứu
những biểu hiện của quan niệm nhân sinh đạo Phật ở các
tín đồ đạo Phật ở Hà Nội trong cơng cuộc đổi mới của đất
nước ta hiện nay.
6. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
cơng tác nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu lịch sử tư tưởng
Phật giáo Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

5


B. Phần nội dung
Chương 1
Quan niệm của Phật giáo (nguyên thủy)
về nhân sinh


Phật giáo là một hệ thống triết học - tôn giáo. Nếu
như các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại như Milê, Êlê
chủ yếu bàn về những vấn đề thế giới quan, bản thể luận
như đi tìm bản nguyên của thế giới, bản chất của thế giới,
trạng thái của thế giới,... Còn những vấn đề về con người họ
lại bàn tương đối ít thì trái lại, ở Phật giáo, bên cạnh những
tư tưởng, quan niệm về thế giới, vấn đề nhân sinh quan
không chỉ được đặt ra ngay từ đầu mà còn là nội dung tư
tưởng chủ yếu bao trùm lên toàn bộ hệ thống. Đặc điểm
này của đạo Phật bị chi phối bởi chính hồn cảnh lịch sử của
đất nước ấn Độ cổ đại - nơi đã sản sinh ra đạo Phật.
1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa - tư
tưởng của sự hình thành nhân sinh quan Phật giáo
- Về điều kiện kinh tế - xã hội: Từ thế kỷ VI (trước
Công nguyên) đến thế kỷ I (sau Công nguyên), chế độ
chiếm hữu nơ lệ mang tính chất gia trưởng kiểu phương
Đơng đã khá phát triển ở ấn Độ. Do việc mở mang các cơng
trình thuỷ lợi, sản xuất nơng nghiệp phát triển. Thủ công
nghiệp tách hẳn khỏi nông nghiệp. Nhiều thành phố trở
thành trung tâm thủ công nghiệp và thương nghiệp quan
trọng thời kỳ này như Benares, Sravasti... Nhiều con đường
thương mại thuỷ bộ đã hình thành. ấn Độ đã giao dịch buôn
6


bán khá rộng rãi với các nước trong vùng như Trung Quốc, ả
rập, Trung á... Nhưng xã hội ấn Độ vẫn bị bóp nghẹt bởi tính
chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn cùng với chế độ
phân biệt màu da, chủng tính khắc nghiệt.
Xã hội ấn Độ lúc này được chia thành bốn đẳng cấp

cách biệt:

1. Tăng lữ thuộc đẳng cấp Bàlamôn; 2. Vua

chúa thuộc đẳng cấp Kshatiya; 3. Nông dân, thợ thủ công
và thương nhân thuộc đẳng cấp Vaishya; 4. Nô lệ thuộc
đẳng cấp Shudra. Bàlamôn và vua chúa là giai cấp thống trị;
nông dân, thợ thủ công, thương nhân và nô lệ thuộc giai cấp
bị trị. Bốn đẳng cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con
nối tạo thành một tổ chức xã hội bất cơng.
- Về văn hóa - tư tưởng: ấn Độ cổ đại là một đất
nước có một nền triết học phong phú hết sức bề thế xuất
hiện từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XV trước công nguyên đã
xuất hiện bộ kinh điển Rg Vêđa. Đó là những bài ca tán có
tính chất thần thoại nhưng đã bao hàm nhiều tư tưởng về
vũ trụ và nhân sinh quan. Tiếp theo trong khoảng 1000-800
năm trước công nguyên là thời đại Brahman. Đến thời kỳ
800-600 năm trước công nguyên là triết học Upanishad.
Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của
kinh Vêđa. Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ
cho học thuyết duy tâm tơn giáo, vốn có trong kinh Vêđa về
cái gọi là "tinh thần sáng tạo tối cao" sáng tạo ra thế giới
này. Upanshad cho rằng thế giới vô ngã Brahman hay "tinh
thần vũ trụ tối cao" là thực thể duy nhất, tồn tại vĩnh viễn,
là cái từ đó nảy sinh ra và chi phối mọi cái tồn tại. Atman
(tiểu ngã) chỉ là một phần hiện thân của Brahman (đại ngã);

7



linh hồn sống của con người chỉ là sự biểu hiện của "tinh
thần tối cao" trong cơ thể con người. Vì vậy, linh hồn cá biệt
về bản chất là đồng nhất với "linh hồn tối cao" cũng tồn tại
vĩnh viễn, tuyệt đối, bất diệt. Trong Upanishad cũng đặt vấn
đề là chính do những ham muốn, dục vọng và những hành
động của con người nhằm thoả mãn những ham muốn trong
đời sống trần gian đã gây những hậu quả, gieo đau khổ cho
kiếp này và cả những khiếp sau gọi là nghiệp báo Karma.
Do vậy linh hồn bất tử bị sự luân hồi nên không nhận ra và
trở về đồng nhất với chân bản của nó được. Muốn giải thốt
linh hồn bất tử khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của
thế giới hiện tượng cảm tính như ảo ảnh thường biến, đạt tới
sự đồng nhất với "tinh thần vũ trụ tối cao", con người phải
tu luyện hành động karma- yoga và tu luyện tri thức jânayoga, nhận ra chân bản của mình.
Triết lý duy tâm tơn giáo của Upanishad giải thích căn
nguyên của thế giới bằng nguyên lý " tinh thần vũ trụ tối
cao" tuyệt đối, bất diệt là cơ sở cho những học thuyết triết
học duy tâm sau này và đã đóng vai trị là cơ sở lý luận cho
đạo Bàlamôn ở ấn Độ cổ đại. Kinh Upanishad đã đề cập đến
những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ
giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và linh hồn cá thể (Atman),
Thuyết luân hồi, nghiệp, nhân quả v.v...
Tóm lại, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tơn giáo,
chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh Vêđa, kinh Upanishad
và đạo Bàlamôn đã trở thành hệ tư tưởng thống trị đời sống
tinh thần của ấn Độ cổ. Uy thế của nó mạnh mẽ tới mức, tư
tưởng triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng chính
thống của ấn Độ cổ và tất cả những mơn phái triết học vô
8



thần, duy vật, chống lại uy thế của khinh Vêđa và triết lý
tôn giáo Bàlamôn đều bị coi là những tư tưởng triết học
khơng chính thống. Sự thống trị khắc nghiệt về xã hội, chính
trị, tư tưởng trên đã làm nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc
trong đời sống xã hội và tất yếu dẫn đến sự phản kháng của
quần chúng lao động địi hỏi một sự tự do, cơng bằng, bình
đẳng xã hội. Đây chính là những nhu cầu của hiện thực lịch
sử làm xuất hiện các trường phái tư tưởng mới ở ấn Độ
trong thời kỳ này. Đạo Phật xuất hiện chính trong bối cảnh
lịch sử trên với tư cách là một hệ tư tưởng phản đối chế độ
phân biệt đẳng cấp xã hội, phủ nhận uy thế của kinh Vêđa,
chống giáo lý duy tâm hoang đường của Bàlamôn giáo, bác
bỏ uy quyền thần thánh và phương pháp tu hành khổ hạnh,
xây dựng niềm tin vào chính con người. Nó là sự khẳng định
một đạo lý, một đường hướng cứu khổ mới cho con người.
Theo các sử liệu ghi lại, người sáng lập ra Phật giáo là
Thích-ca-mâu-ni, có tên thật là Siddhartha (Tất-đạt-đa), họ
là Gautama (Gô-ta-ma), thái tử con vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) dịng họ Sakya, có kinh đơ là thành Kapilavastu
(Catylavê) ở phía Bắc ấn Độ. Phật Thích ca sinh năm 563
(trước Công Nguyên). Năm 29 tuổi ông đã quyết định từ bỏ
cuộc sống vương giả để đi tu. Sau bảy năm liền tu luyện
ông đã ngộ đạo và tìm ra con đường giải thốt con người
khỏi những nỗi khổ đè nặng trong đời sống xã hội ấn Độ cổ
đại. Sau khi tìm ra con đường giải thốt, ông truyền bá
những tư tưởng của mình cho chúng sinh ở ấn Độ và tìm các
đệ tử lập ra các đồn thể Phật giáo. Ơng mất năm 80 tuổi
(năm 483 trước Công nguyên).


9


Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ là truyền
miệng, sau đó được viết thành văn, thể hiện trong một khối
lượng kinh điển rất lớn, gọi là "Tam tạng " (Tripitaka) gồm
ba bộ phận: 1. Tạng Kinh (Sutrapitaka) ghi những lời Phật
dạy về đạo Phật. 2. Tạng Luật (Vinaya pitaka) gồm các giới
luật của đạo Phật. 3. Tạng Luận (Adhidharma pitaka) gồm
các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp
của các cao tăng, học giả về sau này.
Nơi sinh ra Phật giáo là ấn Độ và Phật giáo là sản
phẩm trực tiếp của xã hội ấn Độ cổ đại với những mâu
thuẫn đẳng cấp gay gắt. Cho nên ngay từ đầu, Phật giáo là
tôn giáo của đại đa số những người đẳng cấp thấp ở ấn Độ,
những người cần được an ủi về mặt tâm linh trước sự phân
biệt đẳng cấp khắc nghiệt. Chính vì vậy, Phật giáo đã quan
tâm đến vấn đề nhân sinh: quan niệm về con người và cuộc
đời con người, vấn đề sướng, khổ, vấn đề giải thoát...
1.2. Quan niệm về con người
Đạo Phật ra đời khi mà xã hội ấn Độ lúc bấy giờ đã có
một nền văn minh phát triển rực rỡ, với một di sản tư tưởng
và tôn giáo rất bề thế. Vì vậy, để cho triết thuyết của mình
có thể đứng vững trước thuyết tạo thần của đạo Bàlamôn,
Đức Phật đã xây dựng thuyết nhân duyên sinh làm nền
tảng cho học thuyết của mình
Kinh Phật nói rằng: "Nhất thiết pháp, nhân duyên
sinh".

10



Với thuyết nhân duyên sinh, Phật muốn nói lên một
định lý: mọi sự vật, vạn pháp trên thế gian đều do các nhân
duyên hội họp mà thành; sự vật, vạn pháp sẽ biến diệt khi
nhân duyên tan rã.
Nhân là nguyên nhân, là năng lực tiềm ẩn của mọi sự
hình thành, biến đổi. Khơng có gì là khơng có ngun nhân.
Dun là những quan hệ, những điều kiện, những ảnh
hưởng chung quanh giúp cho nhân phát khởi hiện hành. Tất
cả các hiện tượng đều nương nhau mà thành lập - Nói
nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối,
ảnh hưởng, đối đãi lẫn nhau mà thành. Tất cả mọi hiện
tượng đều có quan hệ mật thiết với nhau, khơng một hiện
tượng nào được thành lập, ngồi sự nương vào nhau, ngoài
sự liên hệ trực tiếp với nhau. Đó là nhân duyên.
Nói về thuyết nhân duyên, trong kinh "Phật Tự
Thuyết" (tiểu bộ I tr. 291) đã có câu:
Nhược thử hữu, tắc bỉ hữu,
Nhược thử sinh, tắc bỉ sinh,
Nhược thử vô, tắc bỉ vô,
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Nghĩa là:
Cái này có thì cái kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này khơng thì cái kia khơng,
Cái này diệt thì cái kia diệt


[3, 95]


Kể từ đây: - Số thứ nhất là số thứ tự của tài liệu tham khảo.
- Số thứ hai trở đi là số trang tài liệu tham khảo.

11


Tất cả các pháp đều sinh diệt và tồn tại trong sự liên
hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại
độc lập và trường tồn, nhất thành bất biến.
Trong Kinh "Thủ Lăng Nghiêm "có đoạn viết:
Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh
Nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt.
Cho nên sinh cũng chẳng thực sinh, mà diệt cũng
chẳng thực diệt. Khi nhân duyên hội họp thì nói là sinh, khi
nhân dun tan rã thì nói là diệt.
Trong kinh "Đại Bát Niết Bàn" có viết:
"Nhất thiết chư pháp, bản vơ hữu tính, nhân dun cố
sinh, nhân dun cố diệt".
Nghĩa là:
Hết thảy mọi pháp,
Đều khơng có tự tính,
Vì nhân dun mà sinh,
Vì nhân dun mà diệt.
ở một chương khác Phật lại nói:
Tịng dun sinh cố,
Danh chi vi hữu,
Vơ tự tính cố,
Danh chi vi vơ


[3, 96]

Có nghĩa là:

12


Tùy theo dun mà hiện ra hình như có sinh, cho nên
gọi là "có"; bởi khơng có tự tính, cho nên gọi là "khơng". Sự
vật chỉ "có" một cách giả tạo, một cách vơ thường, nhân
dun hội họp thì sự vật là "có", nhân dun tan rã thì sự
vật là "không".
Thế giới vũ trụ, vạn pháp, con người đều cấu thành
bởi vô số nhân và trùng trùng duyên khởi. Các pháp khơng
có thực thể, chỉ vì nhân dun hịa hợp chúng hiện hữu một
cách giả hợp. Bởi thế tìm kiếm đến cùng khơng thấy vạn
pháp có "thủy" và xét đến muôn đời, muôn kiếp về sau
cũng không thấy vạn pháp có "chung".
Thuyết nhân duyên sinh cho chúng ta thấy chỉ có
nhân và có dun chứ khơng thực có sự vật. Tất cả những
pháp có mặt trên cuộc đời, thế gian này từ thế giới của sự
vật, hiện tượng cho đến thế giới bí ẩn của ý niệm sâu xa
đều do các nhân, các duyên tương tác lẫn nhau mà hình
thành: do cái này có mà cái kia mới có. Từ đó, Phật giáo cho
rằng, sự vật khơng phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải do
một đấng thiêng liêng nào tạo ra mà mọi sự vật sinh ra là
đều có ngun nhân của nó. Cái ngun nhân một mình
cũng khơng tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên mới tạo
ra quả được. Quả sinh ra lại có thể nếu gặp đủ duyên, biến
thành nhân, để rồi sinh ra quả khác và lại thế nối tiếp nhau

sinh sinh hóa hóa. Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác
nhân đã sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu đủ duyên tốt.
Trái lại, quả có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Sự vật là
một chuỗi nhân quả, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt
quãng, không bao giờ ngừng. Sự duyên khởi dây chuyền của

13


một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với
một sự vật thì gọi là pháp giới trùng trùng duyên khởi. Đó là
thuyết nhân quả.
Giáo lý nhân duyên sinh của Phật giáo đưa đến hai hệ
quả trực tiếp: thuyết vô thường và thuyết vô ngã, chi phối
nhân sinh quan Phật giáo.
Thuyết vô thường (Amicca) là một trong những
thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là một cơ sở lý luận cho
phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu
dưỡng theo giáo lý Phật.
Vơ thường là khơng thường cịn, là chuyển biến thay
đổi. Theo thuyết vô thường chỉ ra các pháp (sự vật, hiện
tượng, con người) ln biến dịch, khơng có gì là thường trụ,
bất biến. Sự chuyển biến ra trong từng sátna (Kshana) - sự
chuyến biến rất nhanh trong thời gian hết sức ngắn, ngắn
hơn cả một cái nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự
chuyển biến vừa khởi lên đã vụt chấm dứt. Sự chuyển biến
này diễn ra nhanh chóng, ngấm ngầm thường ta khơng
nhận thức kịp mà kết quả là dẫn đến sự chuyển biến rõ rệt,
kết thúc một trạng thái cũ chuyển sang một trạng thái mới.
Do vậy, vạn vật vơ tình trong vũ trụ đều tn theo qui luật:

Thành - trụ - hoại - không. Mọi vật được cấu thành, trụ một
thời gian, biến chuyển đi đến diệt, hoại thành không.
Các sinh vật đều tuân theo qui luật: Sinh - trụ - dị diệt.
Chung quanh ta, sự vật biến chuyển khơng ngừng.
Theo luật vơ thường thì không phải khi vạn vật sinh ra mới
gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt, mà từng phút,
14


từng giây, từng sátna, sự sống và sự chết đã từng liên tiếp
xảy ra.
Từ thuyết vơ thường, Phật nói sang thuyết vơ ngã
(Anatta): Vơ ngã là khơng có cái Ta trường tồn vĩnh cửu.
Theo nguyên lý duyên sinh, các sự vật đều là các pháp
duyên sinh. Tất cả sự vật (các pháp) có hình, có tướng đều
do những bộ phận hợp lại mà thành, đều là nhất hợp tướng,
đều có thể chia chẻ ra được. Tất cả sự vật đều đối đãi với
nhau mà thành lập: Tâm đối với cảnh, cảnh đối với thân, lớn
đối với nhỏ, dài đối với ngắn, sống đối với chết, có đối với
khơng. Tất cả sự vật đều do đối đãi với nhau mà thành nên
đều vơ ngã, đều khơng có tự tính: Thân vơ ngã, tâm vô ngã,
cảnh vô ngã.
Với nguyên lý cơ bản trên đây, Đức Phật trình bày
những vấn đề về nhân sinh: Con người từ đâu mà có? Con
người được sinh ra như thế nào? Cuộc đời con người ra sao?
Con đường giải thoát cho con người ?...
Khi trả lời cho câu hỏi "Con người do đâu mà sinh ra?"
Phật xác định con người là một chỉnh thể vũ trụ, là một tiểu
vũ trụ, là kết quả của sự kết hợp giữa danh và sắc. Nghĩa là
con người có đầy đủ cả hai phần sinh lý và tâm lý:

Cái ta sinh lý tức là thân (gọi là sắc uẩn).
Cái ta tâm lý tức là tâm (bao gồm thọ, tưởng, hành,
thức).
Theo Kinh "Trung A Hàm", con người sinh lý chỉ là sự
kết hợp của bốn yếu tố vật chất, bốn đại là: địa, thủy, hỏa,
phong. Các chất cứng, đặc, lỏng, chất sinh ra nhiệt và
những rung động như hơi thở ra, sự hút khơng khí vào khi

15


kết hợp lại tạo thành sắc thân con người (cái ta sinh lý). Khi
chúng tách rời nhau trở về thể của nó thì khơng cịn gì ở lại
để có thể gọi là con người được nữa nên cái mà ta gọi là con
người sinh lý chỉ là một giả tướng, một nhất hợp tướng mà
thơi.
Cịn cái ta tâm lý là gì ?
Theo Đức Phật, cái ta tâm lý bao gồm thụ, tưởng,
hành, thức. Khi sắc thân con người được tạo thành thì lục
căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà sinh ra lãnh thọ (cảm giác).
Sự cảm thụ đó sinh ra mọi ấn tượng, mọi cảm giác sướng,
khổ, buồn, vui (tưởng). Sau khi tiếp xúc với cảnh vật sẽ tạo
nên sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm, sinh lòng ham
muốn hay ghét giận (hành) và cuối cùng là sự xuất hiện
hiểu biết, phân biệt sự vật (ý thức). Đó chính là thụ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Như vậy, mọi cảm giác
nhận thức và suy tưởng - tóm lại là những hoạt động tinh
thần của con người, đều phụ thuộc vào các giác quan và bộ
não. Mọi sự hoạt động tinh thần, mà khơng có giác quan,

nhất là khơng có bộ não thì khơng thể có được.
"Thân thể người ta ví như một đám tro hồng nóng
bỏng, mà cái lị lửa làm tro nóng chính là tinh thần người ta.
Cái tinh thần sẽ bị hủy đi khi cái thân ta bị hủy, cũng như ánh
sáng của cây nến bị tắt khi cây nến hết" [3, 81].
Như vậy, Đức Phật cho rằng con người bao gồm có hai
phần vật chất và tinh thần kết hợp với nhau. Nhưng con
người không phải tự nhiên mà sinh ra. Con người là một
pháp duyên sinh, con người sinh ra là do nhân duyên hòa
16


hợp và thức chuyển biến mà thành. Phật phân tích có mười
hai nhân dun là: Vơ minh dun Hành, Hành duyên Thức,
Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục nhập, Lục nhập
duyên Xúc, Xúc duyên Thụ, Thụ duyên ái, ái duyên Thủ, Thủ
duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão, Tử. Các yếu tố
vật chất khi hội đủ nhân và có duyên cần thiết sẽ hợp thành
những thực thể hữu hình (thân xác con người) gọi là "sắc"
và có "tâm" (ý thức) thì con người sống, hoạt động (tồn tại).
Theo kinh "Đại Trương Dun" nếu khơng có thức thì thân
ngũ uẩn khơng thể hình thành. Mặt khác khi nhân dun
tan rã thì con người cũng khơng cịn (chết đi). Sự tồn tại hữu
hình của con người có ý thức chỉ là tạm thời (sắc sắc khơng khơng) trong vịng ln chuyển liên tục của vô số
nhân và trùng trùng duyên khởi.
Với cách lập luận trên, đạo Phật đã chứng minh con
người sinh ra là do nhân và dun, khơng có một đấng tối
thượng siêu nhiên nào tạo ra con người, cũng như con người
không phải tự nhiên mà sinh ra. Con người sinh ra là do
nhân duyên, nhân duyên hòa hợp thì con người sinh, nhân

duyên tan rã thì con người diệt. Có thể nói yếu tố vơ thần của
đạo Phật thể hiện ở đây.
Khi trả lời câu hỏi: "Con người chết rồi đi đâu?", Đức
Phật chỉ rõ: Con người là một pháp duyên sinh, là sự kết hợp
động của ngũ uẩn. Vì vậy khi con người chết (ngũ uẩn tan
rã) thì khơng cịn cả thể xác lẫn linh hồn. Phật đã phủ nhận
tư tưởng kinh Upanishad cho rằng có một linh hồn bất tử
(linh hồn vũ trụ tối cao) tồn tại vĩnh viễn. Phật cho rằng chỉ
có sự kết hợp mới của ngũ uẩn, mà động lực là nghiệp lực.

17


Vậy nghiệp lực là gì ?
Theo đạo Phật quan niệm trong suốt một đời người,
tất cả những hoạt động về thân thể, về lời nói, về ý nghĩ
đều huân tập nơi thức tâm, gọi là nghiệp (thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp) và kết quả của nghiệp ấy gọi là nghiệp
báo.
Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp (người), các hành
động thiện ác được thực hiện, Phật gọi là con người gây
nghiệp: Nghiệp thiện hay nghiệp ác. Con người sống một
thời gian rồi chết. Khi chết ngũ uẩn tan rã (cả thể xác và
linh hồn), nhưng nghiệp do con người tạo ra thì vẫn cịn và
tác hợp đưa đến một thể hợp mới của ngũ uẩn cho kiếp sau.
Tùy theo nghiệp thiện hay nghiệp ác mà sự kết hợp mới đó
sẽ theo một trong sáu con đường (lục đạo): trời, người,
Atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; cứ như thế mãi không
bao giờ thốt ra khỏi, khơng bao giờ ngừng nghỉ, như chiếc
bánh xe quay tít. Đó là ln hồi. Như vậy, nghiệp là một

động lực, là những hạt giống gây ra một kết hợp mới của
ngũ uẩn cho kiếp sau. Do đó, chỉ có một sự kết hợp mới của
ngũ uẩn được gây ra bởi một nghiệp lực chứ khơng có linh
hồn bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp sau. Mặc dù chúng
sinh luân hồi trong lục đạo, nhưng đạo Phật quan niệm con
người là một sinh vật tương đối hoàn bị hơn cả trong các
loài chúng sinh về tổ chức cơ thể và khả năng tư duy nên
trong Kinh "Hoa Nghiêm" có câu: "Nhân thị tối thắng" nghĩa
là: Con người là hơn cả.
Chỗ khác Phật lại nói: "Nhất thất nhân thân, vạn kiếp
nan phục".

18


Nghĩa là: Một khi mất thân người thì vạn kiếp khó mà trở
lại làm người.
Chính vì lẽ đó, Phật khun con người hãy tạo nghiệp
thiện hoặc đã trót tạo nghiệp ác thì cần phải sám hối và tu
hành để chuyển nghiệp, hy vọng kiếp sau sẽ được trở lại
làm người.
Theo Phật giáo, con người là một pháp do duyên sinh
tạo nên. Cho nên con người cũng khơng nằm ngồi sự chi
phối của quy luật Vô thường. Trong đời một con người từ lúc
sinh cho đến lúc diệt, thân sinh lý và thân tâm lý đã biến đổi
không ngừng: sinh - lão - bệnh - tử. Cái Ta ở sátna trước đã
không phải là cái Ta ở sátna sau, nhưng cũng khơng khác
với cái Ta trước đó. Đã có đổi thay tất phải có lúc tiêu diệt,
khơng ai có thể dừng được sự thay đổi nhanh chóng của
thân. Sự tồn tại của sắc thân con người mỏng manh tạm bợ

như hơi thở. Một hơi thở ra mà khơng hít vào, tức là đời
sống của thân khơng cịn, giờ tan rã sắp đến, nên có câu:
"Nhân mạng tại hơ hấp gian". Khơng chỉ sắc thân con người
luôn biến chuyển; thụ, tưởng, hành, thức cũng biến động
không ngừng. Từng phút, từng giây, từng sátna, ta có những
cảm giác mới, những nhận thức mới, những suy tưởng mới.
Con người sinh ra rồi lại chết đi để một sinh linh mới ra đời.
Khi trả lời câu hỏi: "Đời người ta dài bao nhiêu?" Phật cho
rằng: "Đời người dài một niệm". Một niệm khởi lên rồi diệt
đi, thế là một đời người hết. Một niệm khác khởi lên, tức là
một đời người khác đời người trước tiếp tục. Sự sống và chết
tiếp diễn liên tục nối tiếp nhau bất tận như trên một cái
vòng tròn theo quy luật luân hồi. Hiểu theo Phật, chết

19


không phải là hết, chết là điều kiện cho một cái sinh sắp tới.
Khi chết ngũ uẩn tan rã phân tán, nhưng nghiệp của con
người vẫn tiếp tục chi phối, khi gặp một điều kiện nhân
duyên thuận lợi con người lại được tái tạo thành một sinh
linh mới.
Từ quan điểm Vô thường về con người, đạo Phật đi
đến phủ nhận sự tồn tại của cái Ngã (cái tôi, cái Ta của con
người). Con người là kết quả của sự kết hợp giả tạm của ngũ
uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nhưng Phật lại cho rằng tứ
đại: địa, thủy, hỏa, phong vốn là khơng, và ngũ uẩn cũng
chẳng có. Ngũ uẩn tụ hợp sẽ sinh ra con người, ngũ uẩn ly
tán thì con người sẽ chết cho nên cái Ta chỉ là một giả
tướng, một nhất hợp tướng mà thôi chứ khơng có cái Ta

thực tướng, cái Ta bất biến, cái Ta trường tồn. Sắc thân con
người do cha mẹ sinh ra, do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, là
cái thân hiện hữu trong thế giới nhưng chỉ là ảo ảnh. Phật
nói:
"Sắc đã được cái vơ ngã (tứ đại) làm cho sinh khởi; từ
đâu là ngã được? Sắc đã được cái vô thường làm cho sinh khởi;
từ đâu mà thường được?" [28, 159].
Quan điểm Vô ngã của đạo Phật đã phủ nhận sự tồn
tại đích thực của chính bản thân con người. Như vậy, theo
Đức Phật, cái Ta là giả tạm, là khơng thường cịn. Nhưng tại
sao con người lại có cảm giác về sự bất biến, trường trụ của
thân ta ? Sở dĩ ta có cảm giác đó là do các giả tướng diễn ra
liên tục, nối tiếp nhau với tốc độ rất nhanh đến nỗi ta không
nhận thức kịp và tưởng là bất biến. Vì chấp cái "Ta" thường
cịn, bất biến, cho nên đến phút cuối cùng của đời người,
con ngưòi vẫn còn tham vọng, cố bám lấy cái Ta, cái giả
20



×