Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích để làm rõ các yếu tố chi phối luật Thuế ở nước ta hiện nay. Ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện về sự thể hiện các yếu tố chi phối này trong Luật Thuế Nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.71 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
TRANG
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ 2
II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái quát chung về pháp luật Thuế của Việt Nam
a. Khái niệm
b. Các yếu tố chi phối luật Thuế ở nước ta hiện nay
2. Những yếu tố chi phối luật Thuế ở nước ta hiện nay
a. Những yếu tố chi phối đến việc xây dựng và ban
hành pháp luật Thuế ở nước ta
b. Những yếu tố chi phối đến việc thực thi pháp luật
Thuế ở nước ta
3. Sự thể hiện các yếu tố chi phối trong Luật
thuế nhập khẩu
2
2
2
2
3
3
7
9
III/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Pháp luật nói chung và pháp luật Thuế nói riêng khi ra đời đều chịu sự chi
phối của những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan nhất định. Ở
1
1
phạm vi bài làm, nhóm chúng em xin tìm hiểu về đề tài số 01: “Phân tích để làm rõ
các yếu tố chi phối luật Thuế ở nước ta hiện nay. Ý kiến pháp lý của nhóm thực


hiện về sự thể hiện các yếu tố chi phối này trong Luật Thuế Nhập khẩu?”
II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2. Khái quát chung về pháp luật Thuế của Việt Nam
a. Khái niệm:
Như chúng ta đã biết, Thuế là một phạm trù kinh tế nhưng cũng là một phạm
trù lịch sử, nó ra đời là một tất yếu khách quan gắn với sự hình thành và phát triển
của nhà nước. Pháp luật thuế cũng như pháp luật nói chung là công cụ giúp Nhà
nước thực hiện việc quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong những lĩnh vực
cụ thể.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực
hiện các mục tiêu xác định trước.
b. Các yếu tố chi phối pháp luật Thuế ở Việt Nam:
Các yếu tố chi phối pháp luật Thuế có thể hiểu là những điều kiện, nhân tố tác
động một cách trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động liên quan đến luật Thuế Việt
Nam, trong đó có các hoạt động chính như xây dựng luật thuế, ban hành Luật, thực
thi luật Thuế trên thực tế…
Có thể chia những yếu tố chi phối pháp luật thuế thành hai nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm những yếu tố chi phối đến việc xây dựng và ban hành pháp
luật Thuế ở nước ta hiện nay. Trong nhóm yếu tố này có cả những yếu tố chủ quan:
trình độ hiểu biết của chủ thể tham gia xây dựng pháp luật, mức độ nắm bắt thông
tin thực tế ; hay những yếu tố khách quan như: tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước ở một thời kỳ nhất định, nhu cầu ngân sách nhà nước,… cũng là những yếu tố
chi phối đến việc xây dựng pháp luật Thuế hiện nay.
2
2
Thứ hai, nhóm những yếu tố chi phối đến việc thực thi pháp luật thuế trên
thực tế, có thể kể đến những yếu tố chính như: trình độ hiểu biết pháp luật của các
chủ thể có liên quan, tình hình kinh tế - xã hội ở đất nước, chính sách phát triển kinh

tế của Nhà nước từng thời kỳ…
Như vậy, có rất nhiều yếu tố chi phối đến pháp luật Thuế trong những hoạt
động cụ thể. Những yếu tố mà nhóm xin trình bày dưới đây được nhận định chủ
quan là những yếu tố quan trọng và có sự chi phối rõ rệt nhất.
3. Những yếu tố chi phối luật Thuế ở nước ta hiện nay:
c. Những yếu tố chi phối đến việc xây dựng và ban hành pháp luật Thuế ở nước
ta
Thứ nhất, việc xây dựng pháp luật thuế chịu sự chi phối của nhu cầu đảm bảo
vật chất, chi tiêu cho Nhà nước. Khi xây dựng một luật thuế cần phải căn cứ vào nhu
cầu thực tế này để đưa ra những quy định chính sách phù hợp. Nhận thấy, pháp luật
thuế được ban hành nhằm mục đích chủ yếu là phải đáp ứng được tối đa nhu cầu chi
tiêu cho Nhà nước, nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước.
Xuất phát từ việc Nhà nước là chủ thể duy nhất phải chịu những nghĩa vụ đặc
biệt, đó là các chi tiêu công cộng như an ninh, quốc phòng, ngoại giao, trợ cấp xã
hội, Người dân là chủ thể được hưởng kết quả của hoạt động chi tiêu này. Thuế
chính là nguồn thu quan trọng, chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 2 Luật Ngân sách nhà nước: “Thu ngân sách nhà nước bao gồm các
khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế Nhà nước; các
khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu
khác theo quy định của pháp luật”. Mặt khác, theo quy định tại Điều 30, Điều 31
Luật Ngân sách nhà nước quy định về nguồn thu của ngân sách trung ương, ngân
sách địa phương đa phần các nguồn thu về ngân sách nhà nước được thu từ các loại
thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế đối với người thu nhập cao, Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa
vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà
đòi hỏi nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung
3
3
nguồn tài chính vào ngân sách, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Chính những nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy độn một phần lớn

nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng – kinh
tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa thông
tin, quốc phòng, an ninh; trợ cấp xã hội; Pháp luật thuế sẽ tạo cơ sở pháp lý quan
trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Vì vậy, hệ
thống pháp luật thuế được ban hành giúp cho Nhà nước có được nguồn thu, qua đó
có khả năng thực hiện chi tiêu phân bổ hợp lý cho xã hội
Thứ hai, việc xây dựng pháp luật thuế phải căn cứ vào điều kiện kinh tế -
chính trị - xã hội của đất nước thời điểm đó.
Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã
hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được vai trò,
tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện
thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu không
có những khảo sát, những nắm bắt thực tế cuộc sống thì không có cơ sở khoa học và
thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật không phát huy được vai trò
của nó trong cuộc sống. Có một thực tế là những yếu tố liên quan đến tình hình phát
triển kinh tế, thu nhập của dân cư, định hướng của nhà nước về phát triển ngành,
miền có tác động trực tiếp đến việc ban hành hay thay đổi cơ cấu của hệ thống pháp
luật thuế. Bên cạnh đó, những yếu tố về chính trị cũng chi phối tới quá trình xây
dựng pháp luật thuế. Trong bài viết: “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, TS. Phạm Thị Giang Thu đã nhận
định: “Hệ thống pháp luật thuế suy cho cùng là một bộ phận của kiến trúc thượng
tầng xã hội, phải phản ánh được và định hướng được yêu cầu của đời sống kinh tế
xã hội”. Do đó, yếu tố kinh tế - xã hộicó ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định
kế hoạch xây dựng hệ thống pháp luật thuế. Đặc biệt khi kinh tế - xã hội có sự thay
đổi thì cũng sẽ kéo theo sự thay đổi của hệ thống pháp luật thuế sao cho phù hợp. Có
như vậy, việc ban hành, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế mới đảm bảo thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ví dụ như, khi Việt Nam đang
xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thể chế hoá đường
4
4

lối này, hệ thống pháp luật thuế phải tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển, đặc
biệt những lĩnh vực công nghiệp quan trọng, hiện đại. Ngoài ra, các qui định pháp
luật về thuế phải phản ánh được xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá
trình quản lý, thu và nộp thuế.Qua đó, đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội.
Nhà nước bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết mọi mặt của đời sống
xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với
đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp. Thông qua các quy định của pháp
luật thuế nhà nước chủ động can thiệp đến cung cầu của nền kinh tế một cách hợp lý
có sự tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của
pháp luật thuế, nhà nước tác động tích cực đến cung cầu của nền kinh tế trong tất cả
các giai đoạn. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối
với các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, pháp luật thuế
còn các quy định ưu đãi, miễn giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính,
tạo sự ổn định và phát triển cho các doanh nghiệp.
Trên thực tế, ta thấy pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước
đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Nó là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích
hoặc hạn chế sản xuất. Vì vậy, khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế ta cần căn cứ
vào điều kiện, kinh tế, xã hội để khi được ban hành pháp luật thuế sẽ thúc đẩy kinh
tế phát triển.
Thứ ba, việc xây dựng pháp luật thuế phải dựa trên căn cứ nhìn nhận bao quát
về nguồn thu, tức là các quy định pháp luật thuế phải đảm bảo không bỏ sót đối
tượng nộp thuế, đối tượng nằm trong diện cần điều tiết, vì khi đáp ứng được yêu cầu
này pháp luật thuế sẽ tạo căn cứ pháp lý để tạo nguồn thu tối đa, chính đáng và cũng
đạt được nguyên tắc công bằng, bình đẳng, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo trong xã
hội…từ đó sẽ cân nhắc được các nhiệm vụ chi cho hợp lý. Do vậy, khi xây dựng
pháp luật thuếcần xác định đúng và đủ phạm vi điều chỉnh của mỗi loại thuế. Việc
xác định đúng và đủ phạm vi áp dụng của một loại thuế không chỉ đảm bảo nguyên
tắc công bằng, bình đẳng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế mà còn là biện

5
5
pháp tăng thu thực tế và tạo cơ sở pháp lý ổn định các loại nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Chẳng hạn như nếu trong thuế thu nhập cá nhân việc xác định đối tượng
nộp thuế là cá nhân có thu nhập, không phân biệt thu nhập từ kinh doanh hay không.
Thứ tư, việc xây dựng pháp luật thuế phải dựa trên yêu cầu của các quan hệ
kinh tế đối ngoại, quan hệ quốc tế trong từng giai đoạn cụ thể:
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Trong văn kiện Đại hội đảng lần thứ IX Đảng ta đã nhận định : “toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế
này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia
chi phối, chưa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa
có hợp tác vừa có đấu tranh”. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua việc một quốc
gia tham gia vào các tổ chức hay liên minh kinh tế quốc tế giữa hai nước, trong khu
vực hay trên thế giới.
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt từ
bên ngoài là hết sức cần thiết đối với các nước. Để kích thích sản xuất trong nước
phát triển, kích thích hành hóa xuất khẩu thù nhà nước ta đánh thuế rất thấp hiện nay
xu hướng hội nhạp quốc tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu vực và trên thế
giới. sự ưu đãi các hiệp định về thuế tính thong lệ quốc tế của chính sách có thể gia
tăng sự hòa nhập kinh tế giữa một số quốc gia với kh vực và cộng dồng quốc tế.
trước sự dổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng loạt các chính sách
kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, trong đó có chính sách thuế khóa. Kỳ
họp thứ XI quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thong
qua hai luật thuế cho thuế doanh thu, lợi tức.
Việc xây dựng pháp luật thuế dựa trên yêu cầu của các quan hệ kinh tế đối
ngoại, quan hệ quốc tế trong từng giai đoạn cụ thể sẽ đảm bảo có được sự tương
thích, phù hợp giữa hệ thống pháp luật thuế củaViệt Nam với các điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết và tham gia. Sự tương thích với các điều ước quốc tế mà một
quốc gia tham gia hoặc ký kết đã trở thành tiêu chuẩn cơ bản của hệ thống pháp luật

thuế trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống thuế của Việt Nam cũng không nằm ngoài
6
6
những yêu cầu chung đó. Vấn đề này đặt ra khi Việt Nam không chỉ ký kết điều ước
song phương và đa phương với rất nhiều quốc gia và mà còn công nhận và cam kết
tuân thủ với nhiều điều ước quốc tế đa phương đã được ký kết và thực hiện trước
đó.Về mức độ tương thích với hệ thống pháp luật thuế của các quốc gia ký kết điều
ước quốc tế, yêu cầu cơ bản đặt ra là phải đảm bảo tính tương đồng về nguyên tắc,
định hướng. Khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế cần phải tuân thủ một số nguyên
tắc nhất định để đảm bảo sự phù hợp với những cam kết về thuế giữa các nước ký
kết và tham gia các cam kết quốc tế với các nước trên thế giới và trong khu vực.
Ví dụ như nguyên tắc ràng buộc và cắt giảm thuế quan, bảo hộ thông qua thuế
quan và phi thuế quan. Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia mở cửa thị trường bằng
cách giảm số thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu từ quốc gia ký kết, giảm thiểu sự
bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua hàng rào thuế nhập khẩu và các
khoản thuế đánh ở khâu nhập khẩu. Việt Nam đã có thời kỳ thực thi chính sách bảo
hộ hàng nội địa tương đối rõ ràng và nghiêm ngặt. Tuy nhiên sau khi gia nhập
ASEAN, Việt Nam đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp khác nhau nhằm hạn chế
và từng bước loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan. Bởi lẽ, trong
khu vực ASEAN, các hạn chế về số lượng nhập khẩu được qui định đã loại bỏ ngay,
các rào cản phi thuế quan khác đã được loại bỏ trong vòng 5 năm đồng thời với việc
thực hiện tiêu chuẩn chất lượng. Đối với các thành viên tổ chức thương mại thế giới,
Việt nam tuyên bố đã chủ động thực hiện hạn chế về số lượng từ năm 2000 và cam
kết tiếp tục giảm các dòng thuế, thực hiện mức thuế suất thực tế không vượt quá so
với mức đã ràng buộc cam kết với các bên ký kết.
d. Những yếu tố chi phối đến việc thực thi pháp luật Thuế ở nước ta
Thứ nhất, yếu tố tình hình kinh tế, chính trị trong nước và các chính sách
thương mại quốc gia.
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là
yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế và nội dung pháp luật

thực định về thuế trong giai đoạn đó. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ suy cho cùng
chính sách và pháp luật về thuế chính là tấm gương phản chiếu thực trạng tình hình
7
7
kinh tế và xã hội trong nước. Để phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong đời
sống xã hội pháp luật luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện thực khác quan những tiến
trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ
thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây
dựng và thực hiện pháp luật, không phát huy được vai trò của pháp luật trong cuộc
sống. Những quy định mà pháp luật Thuế đưa ra về những khoản thu và nhiệm vụ
chi tuy được xây dựng trên cơ sở căn cứ vào tình hình thực tế nhưng phần nào vẫn
còn phụ thuộc vào thực tế cuộc sống thì mới có thể triển khai được hay không những
mục tiêu, hay quy định đó. Bởi lẽ, pháp luật có tính ổn định cao, mà chưa hẳn lúc
nào thực tế đời sống xã hội thay đổi mà pháp luật đã kịp thời phản ánh. Chính vì vậy
mà tình hình kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
những quy định của pháp luật có thực hiện được triệt để hay không.
Thứ hai, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước trong bối cảnh hội nhập
kinh tế cũng là nhân tố chi phối việc thực thi pháp luật thuế.
Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điều hành của nhà nước đối với nền
kinh tế của quốc gia đó. Chính sách kinh tế thực chất thể hiện thái độ, quan điểm của
nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật.
Pháp luật thuế nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của
quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì pháp luật thuế cũng phải sửa đổi để
phù hợp với toàn bộ hệ thống. Nếu chính sách phát triển kinh tế của nhà nước thay
đổi thì pháp luật về thuế cũng thay đổi theo, đó là lí do giải thích vì sao pháp luật
thuế chỉ có sự ổn định tương đối. Chính sách phát triển kinh tế ưu tiên phát triển
ngành kinh tế nào thì pháp luật thuế trong ngành đó sẽ có sự ưu tiên và có lợi cho
phía người nộp thuế, còn những ngành kinh tế chưa được khuyến khích phát triển thì
sẽ không có được những thuận lợi trong pháp luật thuế.
Thứ ba, yếu tố về nhu cầu ngân sách nhà nước cũng chi phối rất lớn đến việc

thực thi pháp luật thuế.
Ngân sách nhà nước thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội,
đồng thời tạo ra các hàng hoá, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Đối với
8
8
những nước đang phát triển như Việt Nam thì Thuế là nguồn thu quan trọng, chủ yếu
của ngân sách nhà nước. Có những thời kỳ vì nhu cầu cấp bách của Ngân sách Nhà
nước để đối phó với những sự cố khách quan hay khắc phục hậu quả mà buộc phải
thực hiện việc thu thêm thuế, ngoài những khoản đã được quy định trong pháp luật
đã quy định. Đây chính là yếu tố do nhu cầu của Ngân sách nhà nước ảnh hưởng đến
việc thực thi pháp luật thuế trên thực tế.
Thứ tư, sự hiểu biết và nắm bắt pháp luật của người nộp thuế là nhân tố chi
phối mang tính chủ quan trong hoạt động thực thi pháp luật Thuế hiện nay.
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc thực thi pháp luật về thuế. Nếu
những người nộp thuế có ý thức chấp hành tốt pháp luật về thuế thì sẽ giúp cho pháp
luật thuế được thực hiện hiệu quả, đầy đủ, giúp cho Nhà nước định hướng được nền
sản xuất, tiêu dùng trong nước, các mục tiêu của thuế cũng qua đó mà được thực
hiện. Tuy nhiên do thuế là khoản thu không hoàn trả nên người nộp thuế thường có
thái độ không thân thiện với thuế và pháp luật về thuế, các hành vi trốn thuế khá phổ
biến và nhiều khi gây nên hậu quả nghiêm trọng cho nhà nước và xã hội. Chính vì
vậy cần tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân về mục đích của thuế, những giá trị mà
thuế mang lại, hơn nữa là tạo mọi điều kiện thuận lợi để người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế của mình. Bên cạnh đó các quy định pháp luật về thuế cũng cần
khuyến khích người nộp thuế nộp thuế đầy đủ. Có như vậy thì việc thực thi pháp luật
thuế mới đạt được hiệu quả. Nếu sự hiểu biết và nắm bắt pháp luật của người nộp
thuế cao thì họ sẽ có ý thức chấp hành pháp luật thuế tốt, nộp thuế đầy đủ cho nhà
nước, và ngược lại.
4. Sự thể hiện các yếu tố chi phối trong Luật thuế nhập khẩu:
Thứ nhất, nhu cầu đảm bảo vật chất cho chi tiêu thực tế của Nhà nước, cũng
như việc đảm bảo ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ quốc gia là yếu tố

chi phối đến luật thuế nhập khẩu.
Pháp luật thuế nhập khẩu giúp ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi
tiêu của nhà nước, nguồn thu từ thuế nhập khẩu quyết định đến một phần trong cơ
cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo quy định tại Điều 30, Điều 31 Luật Ngân
9
9
sách nhà nước quy định về nguồn thu của ngân sách trung ương, nguồn thu của ngân
sách địa phương đa phần các nguồn thu về của ngân sách nhà nước được thu từ các
loại thuế như thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất nhập khẩu; thuế
thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người thu nhập cao; thuế nhà đất; thuế
tài nguyên; thuế môn bài; Theo kết quả theo dõi thuế quan qua các thời kỳ tồn tại
và phát triển cho thấy: Ở Việt Nam từ những năm 2001 trở lại đây, nguồn thu từ thuế
nhập khẩu đáp ứng đầy đủ các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước, đảm nhiệm hàng
loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội.
Cụ thể trong số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá hàng hoá
xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tháng 8/2012 đạt gần 20,57 tỷ USD, tăng 3,9%
so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu đạt 10,31 tỷ USD, tăng 1,2% và nhập khẩu là
10,26 tỷ USD, tăng 6,7%.
Tính đến hết tháng 8/2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả
nước đạt 148 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: nhập khẩu là
73,96 tỷ USD, tăng 7,5%. Kết quả này đã đưa cán cân thương mại của Việt Nam
trong 8 tháng năm 2012 thặng dư 134 triệu USD.
Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy
động được một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các công trình
kết cấu hạ tầng – kinh tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các sự nghiệp giáo
dục, y tế, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục – thể thao – khoa học công
nghệ; Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội… Công tác kiểm soát chi ngân sách qua
kho bạc, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính đã được tăng cường, thực hiện công
khai minh bạch quyết toán và dự toán hàng năm. Chẳng hạn, năm 2012 Chính phủ

Chi cho phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành
chính tổng là 542.000 tỉ đồng.
Thứ hai, hoạt động xây dựng pháp luật thuế nhập khẩu còn được biểu hiện ở
sự ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của nước ta.
Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện
đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước Tác động của thuế quan đối với
nền kinh tế. Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập
10
10
thuế cho nước đánh thuế. Tuy nhiên, đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan
lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền
kinh tế thế giới, nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu
và nhập khẩu của một quốc gia. Thuế quan cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ, kích thích tệ
nạn buôn lậu. Thuế quan cao cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hiện tượng gian
lận thuế, trốn thuế (bởi khi trốn thuế hay gian lận thuế thì người ta phải bỏ ra một
khoản tiền được gọi là chi phí để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc
biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá
hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó
cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập
khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản
phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa
này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi
nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được
hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu
thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
Thứ ba, chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập cũng là nhân tố quan
trọng chi phối pháp luật thuế nhập khaari của nước ta.
Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay

đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức
thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc
xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế
xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế
quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các
nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan
đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên
minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên
minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính
11
11
sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và
bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài.
Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành
viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để
những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả, đồng
thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt
hơn.
Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy
nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những
sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên
minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như
một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành
khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên. Nhà nước, bằng pháp luật có
khả năng quản lý điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống
pháp luật thuế, nhà nước thực hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh
tế một cách gián tiếp, thông qua đó đảm bảo thực hiện công bằng xã hội.
Ví dụ: Với thuế giá trị gia tăng nhà nước có biểu thuế suất khác nhau đối với
những loại hàng hóa khác nhau để điều tiết nền kinh tế xã hội. Cụ thể, áp dụng mức
thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu, không phân biệt đối tượng và hình thức

xuất khẩu; như vậy, mức thuế suất này được áp dụng đối với cả hoạt động xuất khẩu
tại chỗ, các dịch vụ xuất khẩu khi đáp ứng điều kiện của luật, Nhà nước áp dụng
mức thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu thể hiện mục đích thúc đẩy xuất khẩu
phát triển; Bên cạnh mức thuế suất 0% nhà nước còn áp dụng mức thuế suất 5% đối
với các hàng hóa dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát triển đầu tư. Các sản phẩm thiết
yếu (như: thuốc, các trang thiết bị y tế, ), các sản phẩm công nghiệp nặng hoặc
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công cộng đều thuộc diện ưu đãi và áp
dụng mức thuế suất 5%; Mức thuế suất cao nhất trong biểu thuế giá trị gia tăng, đó
cũng là mức thuế suất chuẩn, áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ thông thường. Thông
qua việc áp dụng các loại thuế suất khác nhau mà nhà nước thể hiện ý chí của mình
trong đó. Đối với các loại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống
nhân dân thì mức thuế suất thường ở mức thấp hơn. Điều này càng được thể hiện rõ
12
12
hơn ở biểu thuế đối với một số loại hàng hóa đặc biệt là đối tượng điều chỉnh của
luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Cụ thể, mức thuế suất cao nhất được áp dụng với bia chai,
bia hộp; và mức thuế thấp nhất là 10% áp dụng đối với xăng, các chế phẩm dùng pha
chế xăng và dịch vụ kinh doanh golf. Chúng ta có thể thấy được nhà nước đã dùng
chính sách thuế để điều tiết nền kinh tế quốc gia, thể hiện đường lối phát triển kinh
tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận
động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều đó có thể tổn thương đến trật tự xã
hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia. Giải
quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào
hoạt động và quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của
nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu
tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu
đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ
thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng
đến cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng
chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác.

Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu
trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác
nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác
động đến các ngành, nghề, qua đó bảo đảm sự phát triển cân đối ngành nghề trong
nền kinh tế. Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội,
điều chỉnh thu nhập trong những trượng hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hôi, ở mỗi
quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế
Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch
vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; Trong khi đó lại khuyến khích, tạo
cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa dịch vụ thiết
yếu của đời sống xã hội. Ở Việt Nam bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh
tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thực hiện
chính sách xã hội.
13
13
Thứ ba, luật thuế nhập khẩu cũng bị chi phối bởi những quy định về nguồn
thu, nhiệm vụ chi từ ngân sách nhà nước mà phải đảm bảo thực hiện và hoàn thành
hiệu quả.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì Thuế, trong đó có thuế
nhập khẩu là nguồn thu quan trọng, chủ yếu của ngân sách nhà nước. Khi hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế.
Trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập, việc cắt giảm này cũng gây ra
những tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm,
giá cả một số mặt hàng như máy móc, thiệt bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước
ngoài cũng giảm theo. Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước tăng về số lượng
và giảm giá thành. Kết quả là kích thích tiêu dùng, giúp thu được nhiều loại thuế
khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt…
Các nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan từ đó dẫn đến việc kích
thích các nước đó tăng hàng xuất khẩu, từ đó tăng thu ngân sách từ các hàng xuất
khẩu sang các nước thành viên. Như vậy việc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm tăng

thu ngân sách vừa làm giảm thu ngân sách do đó khi tiến hành xây dựng chính sách
pháp luật về thuế nhập khẩu thì phải có sự tính toán lỹ lưỡng hợp lý, phải tính đến
nhu cầu thu ngân sách nhà nước để bảo đảm cho ngân sách quốc gia có được nguồn
thu ổn định lành mạnh.
Thứ tư, yêu cầu của các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ quốc tế trong từng
giai đoạn cụ thể cũng có ảnh hưởng nhất định đến pháp luật thuế nhập khẩu.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX ( năm 2001), Đảng ta nhận định:
“Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”. Như vậy, các quốc gia không thể
đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa mà phải nắm bắt những cơ hội của nó để đưa đất
nước nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua
việc một quốc gia tham gia vào các tổ chức hay liên minh kinh tế quốc tế giữa hai
nước, trong khu vựa hay trên thế giới. Sự tham gia đó được chứng nhận thông qua
14
14
việc quốc gia tiến hành kí kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương và
quốc gia đó phải tuân thủ các điều ước đó một cách nghiêm túc ngay khi điều ước đó
có hiệu lực. Để làm được điều này thì quốc gia thành viên phải xây dựng một hệ
thống pháp luật phù hợp với quy chế của điều ước quốc tế đã kí kết. Luật thuế nhập
khẩu là một trong hệ thống pháp luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ nhất tiến
trình hội nhập của quốc gia đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu
thì mỗi quốc gia phải “ nội luật hóa” các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu bằng
cách bổ sung, ban hành các quy định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi các quy
định cũ để phù hợp với cam kết đó.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới ( WTO) từ ngày 7/11/2006
và chính thức trở thành thành viên từ 15/1/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này,
Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật, ví dụ là Luật thuế xuất khẩu,

thuế nhập khẩu sửa đổi bổ sung năm 2005 để tương thích với các quy chế của WTO,
sau khi gia nhập Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung ,
hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật thời kì hậu WTO. Biểu hiện cụ thể gần
đây nhất là những sư thay đổi trong chính sách thuế nhập khẩu đối với hang hóa
nhập khẩu đến từ Hoa Kì, nhằm thực hiện các cam kết giảm thuế theo Hiệp định
thương mại Việt Nam- Hoa Kì, theo đó Việt Nam đang tiến tới giảm dần thuế nhập
khẩu với một số hàng hóa nhập khẩu.
Thứ năm, sự nhận thức hay hiểu biết của các chủ thể liên quan đến quan hệ
nộp thuế Nhập khẩu cũng là yếu tố chi phối việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
có thực sự hiệu quả hay không.
Trên thực tế hiện nay có rất nhiều đối tượng có hành vi lợi dụng kẽ hở của
pháp luật hoặc cố ý khai báo gian trá… để được giảm, miễn hoặc trốn được thuế
nhập khẩu. Tình trạng này ngày càng phổ biến khiến Luật thuế nhập khẩu không
phát huy được những hiệu quả vốn có của nó. Nhiều mặt hàng nhập khẩu doanh
nghiệp khai báo giá tính thuế thấp hơn thực tế, thậm chí chỉ bằng 1/8 giá thực mua,
nhằm bớt thuế nhập khẩu.
Ví dụ như một doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhập khẩu
độc quyền thương hiệu xe sang, khai báo giá nhập khẩu trên tờ khai hải quan xe ô tô
Lexus RX350 có giá 40.020 USD/chiếc. Qua tham vấn giá, Phòng Thuế XNK- Cục
15
15
Hải quan TP.HCM đã bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp, điều chỉnh giá tính
thuế lên 41.580 USD/chiếc. Như vậy, chỉ với một chiếc xe ô tô Lexus RX350 nhập
khẩu, cơ quan Hải quan đã điều chỉnh tăng thu cho ngân sách 310 triệu đồng tiền
thuế.
Đáng chú ý, các mặt hàng tiêu dùng có thuế suất cao, khó xác định định
lượng, thương hiệu, có các chi phí phát sinh sau nhập khẩu cao cũng nằm trong diện
doanh nghiệp khai báo giá thấp. Mặt hàng gạch ốp lát không tráng men kích thước
(60x60 cm), xuất xứ Trung Quốc, doanh nghiệp khai báo hàng loại II, giá 3,5
USD/m2. Qua thực hiện tham vấn, cơ quan Hải quan không chấp nhận hồ sơ và giải

trình của doanh nghiệp, điều chỉnh mức giá tính thuế 4,8USD/m2. Cục Hải quan
TP.HCM đã điều chỉnh tăng thuế các lô hàng nhập khẩu thuộc 4 tờ khai hải quan,
với tổng số thuế tăng 274 triệu đồng.
Nhiều vụ việc trốn thuế đã phải truy cứu trách nhiệm hình sự vì sự nguy hiểm
và nghiêm trọng của hành vi vi phạm. TAND TP HCM đã xét xử vụ trốn thuế hơn
40 tỷ đồng tại Công ty TNHH Việt Hùng. Đây được đánh giá là vụ trốn thuế nhập
khẩu quy mô lớn nhất tại TP HCM, sau vụ Đông Nam. Trong vụ án này, Lầu Lý
Sáng, nguyên giám đốc Công ty Việt Hùng, cùng 3 nhân viên bị truy tố về tội trốn
thuế, 8 người nguyên là cán bộ kiểm hoá Hải quan TP HCM tội thiếu trách nhiệm,
gây hậu quả nghiêm trọng. Việt Hùng được thành lập với chức năng kinh doanh các
mặt hàng dây kéo YKK, máy photo và các phụ kiện nhập khẩu của Công ty
CROWNING (Hong Kong). Sáng trực tiếp lập một số hợp đồng nhập khẩu với giá
nhập thấp hơn giá thực tế để trốn thuế. Đơn vị bán hàng không viết hóa đơn tài chính
hoặc liên trên hóa đơn với liên dưới không giống nhau về số lượng, chủng loại, giá
cả mặt hàng đã bán. Bằng những thủ đoạn này, Việt Hùng đã trốn thuế hơn 33,8 tỷ
đồng. Ngoài ra, Sáng còn tổ chức nhập dây kéo YKK theo đường quà biếu phi mậu
dịch mang tên một số nhân viên của Việt Hùng. Theo kết quả giám định của Tổng
cục Thuế, 91 tờ khai hải quan nhập hàng “phi mậu dịch”, giá trị 25,5 tỷ đồng. Song
qua tay Sáng và các nhân viên hải quan chỉ còn 2,4 tỷ. Nhờ đó, Việt Hùng đã trốn
hơn 6,8 tỷ đồng tiền thuế.
Như vậy, sự hiểu biết đúng đắn về pháp luật thuế nhập khẩu có ảnh hưởng rất
lớn đến việc pháp luật có đi vào cuộc sống hay không. Cần có những chế tài nghiêm
16
16
khắc để ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật thuế như trên để luật thuế nhập
khẩu phát huy hiệu quả cao nhất.
III/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Qua việc phân tích, tìm hiểu và tìm hiểu biện những yếu tố chi phối đối với
pháp luật thuế nói chung và luật thuế nhập khẩu nói riêng phần nào ta đã hiểu rõ
hơn, có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb. CAND,
Hà Nội, 2012).
2. Luật Thuế Xuất khẩu - Nhập khẩu 2005.
3. Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
thuế ở Việt Nam, TS. Phạm Thị GIang Thu.
4. Số liệu của tổng cục thống kê về hoạt động nhập khẩu.
5. website: .
/>
17
17

×