Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nghiên cứu một số bài tập nhằm nâng cao thành tích chạy 60m cho đội tuyển nam học sinh lớp 5 của trường tiểu học đại ân 2c, tú điềm, đại ân 2, trần đề, sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.81 KB, 41 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sức khỏe, trí tuệ là những thứ quý giá nhất của mỗi con người và mỗi
quốc gia. Muốn có được sức khỏe khơng chỉ cần có dinh dưỡng và vệ sinh tốt mà
cần phải kiên trì tập luyện thể dục thể thao. Vì lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài
của thể dục thể thao là rất lớn, góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo
dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần, nâng cao năng suất lao động và sức chiến đấu của nhân dân ta.
Chính vì thế trong các nghị quyết của Đảng Cộng Sản Việt Nam về những
vấn đề thể dục thể thao điều nhấn mạnh quan điểm: “Sự cường tráng về thể chất
là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản và vật
chất cho xã hội. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của tồn xã
hội nói chung, của ngành thể dục thể thao nói riêng”. Đó cũng chính là mục đích
cơ bản, quan trọng thứ nhất của Giáo dục thể dục thể thao ở nước ta.
Cho nên trong những năm gần đây bộ giáo dục và đào tạo không ngừng
nghiên cứu cải tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy Thể
dục trong các cấp. Trong đó Điền kinh là một trong những nội dung cơ bản
không thể thiếu của hầu hết các chương trình Giáo dục thể dục thể thao ở các
trường phổ thơng.
Điền kinh là mơn vận động có lịch sử phát triển lâu đời nhất, cũng là hoạt
động cơ bản không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày của con người để
đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ để tồn tại và phát triển.
Hàng ngàn năm trước đây lồi người đã biết dùng mơn điền kinh để rèn
luyện tăng cường sức khỏe, nâng cao kĩ năng chiến đấu. Vì vậy, mơn điền kinh
được đưa vào thi đấu chính thức ngay từ Thế vận hội đầu tiên. Điền kinh bao


2



gồm các hoạt động như: đi, chạy, nhảy, ném, đẩy và nhiều môn phối hợp khác.
Chạy là một trong những kĩ năng vận động cơ bản của con người có giá trị thực
dụng lớn, đồng thời cũng là biện pháp rất hiệu quả để tăng cường sức khỏe và
phát triển toàn diện cơ thể. Từ thực tiễn cuộc sống, trãi qua hàng nghìn năm khi
tư duy ngơn ngữ phát triển thì mơn chạy cư li ngắn ra đời.
Chạy cự ly ngắn thuộc nhóm hoạt động có chu kỳ của điền kinh. Cho nên
chạy cự li ngắn không chỉ là môn có sức hấp dẫn mạnh mẽ nhất mà cịn là một
phương pháp tuyệt vời để phát triển sức mạnh, sức nhanh cho các vận động viên
các môn khác, kể cả chạy đà trong giậm nhảy.
Chính vì những lí do trên, chạy cự ly ngắn được xem là nội dung chủ yếu
của trương trình nội khóa, thành tích của chạy cự ly ngắn là sự phối hợp của
nhiều yếu tố: Trạng thái chức năng, mức độ phát triển của tố chất thể lực, kỹ
thuật. đặc điểm hình thái cơ thể… thơng qua thành tích chạy cự ly ngắn, người ta
có thể đánh giá được phần nào trình độ điền kinh nói riêng và trình độ thể dục
thể thao nói chung. Giảng dạy chạy cư ly ngắn không chỉ dạy về kỹ thuật động
tác mà còn phải phát triển sức mạnh, sức mạnh để nâng cao thành tích cho học
sinh. Vì thế có rất nhiều bài tập được vận dụng trong quá trình dạy mơn chạy cự
ly ngắn. Tuy nhiên để việc vận dụng hệ thống các bài tập thể lực chuyên mơn
cho học sinh một cách có hiệu quả phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường, chúng tôi đã mạnh dạn trong việc lựa chọn đề tài này: “ Nghiên cứu một
số bài tập nhằm nâng cao thành tích chạy 60m cho đội tuyển nam học sinh lớp 5
của trường Tiểu học Đại Ân 2C, Tú Điềm, Đại Ân 2, Trần Đề, Sóc Trăng.”
Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của đề tài là n ghiên cứu một số bài tập nhằm nâng
cao thành tích chạy 60m. Qua kết quả nghiên cứu sẽ lựa chọn được một số


3


bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích chạy 60m cho đội tuyển nam học
sinh lớp 5 trường Tiểu học Đại Ân 2 C, Tú Điềm, Đại Ân 2, Trần Đề, Sóc Trăng.
Đồng thời góp phần cải tiến chất lượng giảng dạy, nâng cao thành tích chạy 60m
cho học sinh nam của trường.
Mục tiêu nghiên cứu:
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu chúng tơi giải quyết những mục
tiêu sau:
Mục tiêu 1: Lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao thành tích chạy
60m cho đội tuyển nam học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đại Ân 2 C, Tú Điềm,
Đại Ân 2, Trần Đề, Sóc Trăng.
Mục tiêu 2: Ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số bài tập nhằm nâng
cao thành tích chạy 60m cho đội tuyển nam học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đại
Ân 2 C, Tú Điềm, Đại Ân 2, Trần Đề, Sóc Trăng.


4

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ BÁC HỒ VỀ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
Giáo dục thể chất là một quá trình giáo dục nhằm hoàn thiện về mặt giáo
dục thể chất và chức năng của cơ thể con người, nhằm hình thành và cũng cố
những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong đời sống cùng những
hiểu biết có liên quan đến kỹ năng, kỹ xảo đó.
Đảng ta đang ở giai đoạn tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, thì giáo dục và đào tạo
phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu trong việc nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong giáo dục thể chất phải là một bộ phận quan

trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Bác Hồ
vĩ đại của chúng ta từ lòng yêu thương quý trọng con người, từ ý chí suốt đời vì
nước vì dân đã hết sức quan tâm đến việc luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe.
Ngày 24/03/1946 Bác đã ra lời kêu gọi toàn dân tham gia tập thể dục: “Hỡi đồng
bào toàn quốc! Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì
cũng cần có sức khỏe mới thành cơng. Mỗi người dân yếu ớt thì làm cho cả nước
yếu ớt một phần, mỗi người dân khỏe mạnh thì làm cho cả nước khỏe mạnh. Vậy
nên tập thể dục bỗi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân u nước.
Việc đó khơng tốn kém khó khăn gì, gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng
làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy tập ít phút thể dục ngày nào cũng tập thì khí
huyết lưu thơng, tinh thần đầy đủ. Dân cường thì nước thịnh tôi mong đồng bào
ai cũng gắng tập thể dục, tự tôi ngày nào cũng tập”.


5

Ngày 31/03/1960 Bác viết: “Muốn lao động sản xuất tốt, cơng tác và học
tập tốt thì cần có sức khỏe, muốn có sức khỏe thì nên thường xun tập luyện thể
dục thể thao”.
Tinh thần đó được xuyên suốt trong cả quá trình lãnh đạo Cách mạng của
Đảng và Nhà nước. Cứ mỗi bước ngoặc cách mạng Đảng và Nhà nước điều có
những chỉ thị, Nghị quyết cần thiết, hướng dẫn tổ chức các hoạt động thể dục thể
thao cho phù hợp.
Ngay từ tháng 3/1941 trong chương trình cứu nước của Việt Minh, Đảng
ta đã xác định: “Cần phải khuyến khích và giúp đỡ nên thể thao quốc dân, làm
cho nòi giống càng thêm khỏe mạnh”.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng 08/1945 Đảng ta bước vào giai
đoạn cách mạng mới. Ngày 02/10/1958 ban Bí Thư TW Đảng đã ra chỉ thị số
106/CT – TW khẳng định: “Công tác thể dục thể thao là một phương tiện có hiệu
quả để tăng cường lực lượng lao động sản xuất, lực lượng quốc phịng, tăng

cường dũng khí và nghị lực của mỗi người dân. Hơn nữa vận động thể dục thể
thao là một trong những phương pháp tốt để giáo dục nhân dân về tính tổ chức
kỹ luật và đồn kết quần chúng đông đảo chung quanh Đảng và Nhà nước”.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước ta được hoàn toàn giải phóng
mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển thể dục thể thao. Liên Bộ ngành Giáo
Dục và Đào Tạo và Tổng Cục thể dục thể thao đã ra thông tư số 04/19931
GD&ĐT/TDTT ngày 17/4/1993 về việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo
dục thể chất trong học sinh, sinh viên. Đầu tư nâng cao sức khỏe con người là
vấn đề trọng tâm của mọi học thuyết tiên tiến, là cốt lỏi của mọi mơ hình phát
triển của các quốc gia. Với nhận thức sâu sắc rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
con người là vốn quý nhất, việc bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho con người là


6

một bộ phận quan trọng trong việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa toàn
diện. Thể dục thể thao là một biện pháp tích cực để bảo vệ và tăng cường sức
khỏe của con người. Ngày 24/03/1994 ban Bí Thư TW Đảng đã ra chỉ thị số
36/CT – TW: “Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho
việc tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học
sinh, sinh viên, thanh niên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, cán bộ công nhân
viên chức và một bộ phận nhân dân”. Phát triển rộng rãi phong trào thể dục thể
thao quần chúng với khẩu hiệu: “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đào tạo
học sinh trở thành người công dân tốt, người cán bộ tốt, người chiến sĩ tốt có
kiến thức tồn diện có sức khỏe và đủ phẩm chất, năng lực làm hành trang cho
thế hệ trẻ tương lai của đất nước hiện nay.
1.2. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT VÀ TÁC DỤNG TẬP LUYỆN MÔN CHẠY
CỰ LY NGẮN
1.2.1. Nguyên lý kỹ thuật chạy cự ly ngắn:
Môn chạy cự ly ngắn có các cự ly 60m, 100m, 200m, 400m là hoạt động

có tính chu kỳ, có cường độ tối đa, chủ yếu phát triển sức mạnh - bền tốc độ. Đặc
điểm chung của chạy cự ly ngắn là tốc độ cao nhất, cường độ lớn nhất, thời gian
ngắn nhất.
Một chu kỳ hoạt động trong chạy cự ly ngắn đều có 2 bước chạy, bao gồm
4 thời kỳ: chống tựa của một chân, bay, chống tựa của chân kia, bay. Mỗi thời kỳ
chống tựa đều có 2 giai đoạn:
Giai đoạn chống trước: từ khi chân lăng mới tiếp xúc xuống mặt đất tới
khi tổng trọng tâm thân thể dọi thẳng góc xuống chân chống tựa (thời điểm thẳng
đứng).


7

Giai đoạn chống sau: từ khi tổng trọng tâm thân thể dọi thẳng góc xuống
chân chống tựa (thời điểm thẳng đứng) tới chân chống tựa đạp sau rời khỏi mặt
đất. Bước chạy càng tích cực tốc độ chạy càng nhanh thì thời kỳ bay trên khơng
càng ngắn, hệ số tích cực của bước chạy càng nhỏ.
Như vậy muốn chạy nhanh phải giảm thời gian bay trên khơng, hay nói
cách khác trong giai đoạn chống sau, phải giảm tốc độ đạp sau và tăng lực đạp
sau, dẫn đến tăng thành phần nằm ngang của phản lực chống tựa để đưa cơ thể
chuyện động nhanh về phía trước. Ở giai đoạn chống sau, không những các cơ
duỗi chân chống tựa phải hoạt động rất tích cực theo chế độ khắc phục đạp thẳng
hết chân, mà các cơ chân kia (chủ yếu là cơ tứ đầu đùi) cũng phải hoạt động tích
cực, để phối hợp đánh đùi vế phái lên trên. Muốn đánh đùi của chân lăng tích
cực và nhanh, cẳng chân phải theo quán tính gập sát với đùi trên để rút ngắn bán
kính chuyển động, tăng tốc độ góc. Ngồi hoạt động của 2 chân không kể đến sự
phối hợp hiểu quả của các cơ tham gia đánh tay và các cơ tham gia giữ chân trên
ở vị trí hợp lý.
Giai đoạn chống sau có liên quan mật thiết hữu cơ với giai đoạn chống
trước, giai đoạn chống trước lại có quan hệ mật thiết với thời kỳ trước nó – thời

kỳ bay.
Trong khi chạy xuất phát thấp do thân người ngã nhiều vế phía trước, ở
các bước đầu chân chống tựa đặt phía sau điểm dọi của tổng trọng tâm cơ thể, có
khả năng khơng bị tác động bất lợi của thành phần lực nằm ngang của phản lực
chống tựa. Vậy khi chạy tổng trọng tâm thân thể không dao động lên xuống tối
thiểu 10cm. Trọng tâm thân thể cao nhất thời kỳ bay và thấp nhất ở thời kỳ
chống tựa. Muốn chạy càng nhanh thì tổng trọng tâm thân thể phải di động thấp
và cố gắng hạn chế độ dao động lên xuống.


8

Trong chạy cự ly ngắn, tốc độ chạy phụ thuộc vào tần số bước và độ dài
bước. Những cơng trình nghiên cứu từ trước tới nay vẫn chưa nhất trí khẳng định
rằng, tốc độ chạy trong môn chạy cự ly ngắn phụ thuộc chính vào tần số bước
hay độ dài bước. Tuy nhiên một số cơng trình nghiên cứu gần đây đã khẳng định
tốc độ chạy phụ thuộc chính vào tần số bước chạy với độ dài bước thích hợp, và
cần thấy rằng tăng tần số bước chạy dễ hơn tăng độ dài bước. Khi đó thì động tác
chạy phải hết sức thoải mái, không bị căng thẳng thừa và nhịp điệu bước chạy
kết hợp tốt với nhịp điệu hô hấp.
1.2.2. Tác dụng tập luyện môn chạy cự ly ngắn:
Chạy cự ly ngắn là hoạt động có tính chu kỳ, thông qua một số đặc điểm
nguyên lý của chạy cự ly ngắn đã gây ra những biến đổi khác nhau về chức năng
của các bộ phận trong cơ thể con người.
Đối với hệ thần kinh trung ương:
Trong quá trình tập luyện sẽ hình thành và cũng cố một định hình động
lực, nó là cơ sở của kỹ thuật chạy.
Để đạt được thành tích cao trong chạy cự ly ngắn, tính linh hoạt của q
trình thần kinh có một vai trị lớn. Vì chạy với tốc độ cao ý thức khơng kiểm tra
các động tác riêng lẻ của tay và chân cho nên trong khi chờ lệnh xuất phát thì

thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động là rất quan trọng để quyết định thành
tích.
Đối với hệ vận động:
Các cơ phải thích nghi với hoạt động chủ yếu trong điều kiện thiếu Oxy.
Qua một quá trình luyện tập khả năng hưng phấn và tính linh hoạt cơ năng của
các cơ tăng lên. Ở những người được huấn luyện tốt thì sau những buổi tập căng


9

thẳng, những biến đổi về trường lực của cơ (khi căng cơ có ý thức và khi thả
lỏng) so với lúc bình thường khơng xảy ra rõ rệt.
Tiêu hao năng lượng:
Năng lượng tiêu hao để chạy 1m đường đạt mức cao nhất khi chạy với
cường độ cực đại ở cự ly ngắn. Tuy nhiên năng lượng tiêu hao dao động trong
một phạm vi rộng tùy theo tốc độ chạy, trình độ thể lực kỹ thuật, điều kiện khí
hậu, sân bãi…
Đối với hệ hô hấp:
Năng lượng được dùng trong chạy cự ly ngằn hầu hết được tạo nên bởi
những phản ứng sinh hóa trong điều kiện thiếu Oxy. Do đó, lượng thơng khí phổi
lớn. Tổng nhu cầu Oxy cũng thấp vì thời gian hoạt động ngắn, trị số tuyệt đối
của nợ Oxy khơng lớn nhưng nếu tính tỷ số phần trăm co với nhu cầu thì nợ Oxy
có thể chiếm tới gần 100% cho nên tập chạy là một biện pháp có hiệu quả để
phát triển các cơ quan hơ hấp. Dung tích sống bình thường ở các vận động viên
chạy có thể lên tới 5 – 6 lít.
Đối với hệ tuần hồn:
Bình thường khi nghỉ, nhịp tim ở người thường xuyên tập chạy thường
chậm hơn so với người không tập luyện. Nhịp tim của vận động viên chạy không
vượt quá 60 lần/ phút. Điều đó nói lên được cơng suất hoạt động tốt của tim
người tích cực rèn luyện bằng phương pháp chạy.

Thời gian phục hồi của nhịp tim sau khi chạy phụ thuộc vào thời gian
chạy, cường độ vận động và trình độ kỹ thuật thể lực của mỗi người.
Huyết áp trong khi chạy ít thay đổi so với lúc nghỉ chỉ ngay sau khi vận
động huyết áp tối đa có thể lên tới 160 – 180 mmHg.
Chức năng bài tiết:


10

Sau khi chạy thì mồ hơi đã được bài tiết nhiều nên sự bài tiết nước tiểu
giảm, cự li ngắn do thời gian vận động ngắn nên sự bài tiết nước tiểu là không
đáng kể.
Thể trọng thân nhiệt:
Khi chạy cự ly ngắn thì thể trọng thân nhiệt ít giảm đi, nếu chạy dưới
trời nóng hoặc độ ẩm cao thì thân nhiệt có thể tăng tới 39 – 40 0C vì sự tỏa nhiệt
của cơ thể không đầy đủ.
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÀI TẬP THỂ LỰC CHUYÊN MÔN TRONG
CHẠY CỰ LY NGẮN
Trong thể dục thể thao nói chung và điền kinh nói riêng, các bài tập thể dục
thể thao được coi là phương tiện chủ yếu và chuyên biệt tác động đến đối tượng
tập luyện nhằm đạt được mục đích giáo dục thể chất.
Dựa theo các quan điểm khác nhau, các bài tập thể dục thể thao dùng trong
giảng dạy, huấn luyện được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Một trong
những cách phân loại phổ biến là phân thành các bài tập nhằm tạo điều kiện cho
việc nắm vững kỹ thuật động tác ( bài tập bổ trợ) và các bài tập thể lực chuyên
môn nhằm phát triển các tố chất thể lực: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo
và năng lực phối hợp vận động.
Mặc dù động tác chạy rất đơn giản và tự nhiên, song điều quan trọng là việc
phát triển và rèn luyện các tố chất thể lực cơ bản quan trọng nhất đối với vận
động viên chạy cự ly ngắn: sức mạnh, sức nhanh, sức bền… Trên thực tế các tố

chất này thể hiện dưới dạng tổng hợp gắn liền với nhau song ở chạy cự ly ngắn
thì sức mạnh tốc độ và sức mạnh thể hiện rõ ràng hơn. Để đạt được thành tích
cao trong cự ly ngắn cần phải phối hợp có hiệu quả và sử dụng các bài tập huấn


11

luyện về sức mạnh tốc độ, sức nhanh… phải được lựa chọn cho phù hợp với lứa
tuổi, giới tính và điều kiện cơ sở vật chất ở địa phương.
1.3.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM, SINH LÝ VÀ GIẢI PHẨU CỦA HỌC SINH
TIỂU HỌC LỨA TUỔI 10-11 TUỔI.
Đặc điểm tâm lý:
Những học sinh lứa tuổi 10 - 11 là những học sinh vui tươi, nghịch
ngợm nhất, đôi lúc làm giáo viên gặp nhiều khó khăn. Ở độ tuổi này các em
bước vào giai đoạn có tình cảm riêng tư, ln tỏ ra mình là người lớn, có hiểu
biết, đỏi hỏi mọi người chú ý tới mình nhiều hơn. Nhưng khi học động tác thì
bao giờ cũng dốc hết sức ra ngay từ đầu và khi hoạt động thì thường ít chú ý tới
hoạt động đầy đủ dễ tốn sức và thường xảy ra chấn thương. Cho nên người giáo
viên, huấn luyện viên đặc biệt chú ý tới điểm này để khắc phục. Các em ln
thích nắm bắt những cái mới mẻ, đồng thời do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế
hơn quá trình ức chế nên các em tiếp thu những cái mới nhanh hơn nhưng lại
chóng qn. Các em dễ bị mơi trường tác động vào tạo nên sự đánh giá cao về
mình khi thành cơng thì tỏ ra tự kiêu, trái lại dù thất bại tạm thời thì rụt rè dẫn
đến thiếu ý chí, quyết tâm. Vì vậy, điều quan trọng là giáo viên phải biết tạo
động lực học tập bên trong các em đó, ln khích lệ và chỉ ra những điều tốt cho
các em tham gia và hình thành các phẩm chất ý chí và đạo đức, từ đó giúp các
em có tinh thần vượt khó, khơng ngại gian nan, dũng cảm và có chí cầu tiến…
Do đặc điểm tâm lý đặc thù nên khi đánh giá, nhận xét một nhóm học sinh hay
một cá nhân nào đó, nếu khơng thận trọng thì sẽ dễ bị phá vỡ mối quan hệ giữa
thầy và trị, thậm chí có những học sinh có hành vi sai trái do tự ái cá nhân cao

song suy nghĩ lại chưa chín chắn. Ngồi ra các em rất có ý thức đạo đức và ln
có uy tín bản thân nên trong khi thi đấu các em thi đấu không chỉ cho bản thân


12

hứng thú mà đây còn là cơ hội để thể hiện uy tín của mình trước bạn bè và mang
lại danh dự cho tập thể.
Đặc điểm sinh lý:
Lứa tuổi 10 - 11, hệ thống thần kinh trung ương đã khá hồn thiện,
hoạt động phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn. Khả năng
hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động, vận động được nâng cao.
Ngay từ lứa tuổi này đã diễn ra q trình hồn thiện cơ quan phân tích và những
chức năng vận động quan trọng nhất, đặc biệt là cảm giác bản thể trong điều
khiển động tác. Khả năng phân biệt chính xác về khơng gian của nam đạt mức độ
cao nhất, cịn nữ thì tuổi này giảm do thiếu tập luyện vận động cần thiết, nếu tập
thì có thể tránh được.
Các em có thể thực hiện khá đầy đủ những bài tập đơn giản của giáo
viên, gần như dựa theo chỉ dẫn bằng lời nói, bước đầu biết xác định những khâu,
đoạn then chốt trong hoạt động phức tạp, chỉ ra được khá rõ những sai sót của
bản thân và đồng đội. Cần chú ý bồi dưỡng khả năng tự phân tích động tác, tự
đánh giá tình hình tập luyện của các em. Khi chạy động tác kỹ thuật cần khéo léo
vận dụng đúng mức những hiểu biết đã học về vật lý, sinh học … Ở trường,
khơng chỉ đóng khung trong các kiến thức trong sách giáo khoa mơn học mà có
thể bổ sung, mở rộng thêm theo yêu cầu và trình độ cho phép.
Lừa tuổi 10 – 11, q trình hưng phấn cịn phần nào chiếm ưu thế. Một
số em tỏ ra nặng nề, chậm chạp, kém dẻo dai… nếu tập các bài tập có hệ thống
rèn tính chính xác, phối hợp với khả năng thả lỏng có kết hợp với dùng sức mạnh
thì hiện tượng trên sẽ bớt dần. Cần cho các em tập chơi nhiều hơn về các mơn
bóng, thể dục và những bài tập phức tạp khác. Chức năng vận động ở nam, nữ

khác nhau, cần có sự phân biệt tính chất, cường độ, khối lượng vận động cũng


13

như rèn luyện thân thể sao cho hợp lý để có điều kiện cho cơ thể phát triển một
cách tồn diện và cân đối.
Ở lứa tuổi này, cơ thể các em đã phát triển tương đố hoàn chỉnh, các bộ
phận vẫn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dần, khả năng hoạt động của các cơ quan,
bộ phận của cơ thể cũng được nâng cao hơn. Ở bậc học này, cơ thể các em phát
triển theo chiều cao nhiều hơn nên các em nghĩ rằng mình đã là người lớn nên
muốn người khác tơn trọng mình và đã có những biểu hiện nhất định khả năng
phân tích tổng hợp hơn, muốn hiểu biết nhiều, ưa hoạt động, có nhiều hồi bão
nhưng cũng có nhiều nhược điểm như: thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống cũng
như trong giao tiếp… Vì vậy, việc giáo dục thể chất cho các em địi hỏi phải có
phương pháp sư phạm vì các tố chất thể lực phát triển đúng đắn ở lứa tuổi này sẽ
ảnh hưởng đến sức khỏe lâu dài và khả năng hoạt động sau này của các em.
Nếu được tập luyện đầy đủ, có hệ thống thì các em có thể tập được
các bài tập có khối lượng lớn, nên tránh tập với dụng cụ khó, trọng lượng quá
nặng và các hoạt động gây chấn động mạnh.
Đặc điểm giải phẫu:
Xương: Lứa tuổi 10 – 11 xương bắt đầu phát triển, sụn ở hai đầu
xương vẫn cịn dài, nhưng sụn chuyển thành xương thì ít. Mỗi năm nữ cao thêm
0.5 – 1 cm, nam cao thêm 1 – 3 cm. Nếu như không rèn luyện thân thể, tập
luyện thể dục thể thao, thì nữ sau 20 tuổi và nam sau 25 tuổi hầu như không cao
thêm nữa. Luyện tập thể dục thể thao làm cho xương phát triển thêm về chiều dài
và nhất là chiều ngang. Các xương nhỏ như xương cổ tay, bàn tay đã kết thành
cng nên các em có thể tập một số động tác trèo, chống, mang vật nặng nhưng
cần phải vừa sức không làm tổn thương hoặc đưa đến sự phát triển lệch lạc của
cơ thể. Cột sống vẫn chưa ổn định hình dáng và vẫn chưa cũng cố được hình



14

dáng nên dễ bị cong vẹo. Cho nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác trong
đi, chạy, nhảy, ngồi… là cần thiết và không thể xem nhẹ.
Cơ: Trong quá trình phát triển cơ thể, các tổ chức cơ phát triển muộn
hơn xương. Nói chung học sinh ở bậc học này là thời kỳ cơ bắp phát triển tốt
nhất. Đặc điểm lứa tuổi này cơ co vẫn còn tương đối yếu, các bắp cơ phát triển
tương đối nhanh (cơ đùi, cánh tay…) còn các cơ nhỏ như cơ bàn tay, ngón tay,
các cơ xoay ngồi, xoay trong phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớm hơn
các cơ duỗi.
Do những đặc điểm trên, ở lứa tuổi 10 – 11 cần tập những bài tập phát
triển sức mạnh, để góp phần phát triển các cơ. Như vậy vừa phát triển toàn diện
các cơ co, duỗi… vừa giảm nhẹ sức chịu đựng của các cơ khi tập liên tục trong
thời gian dài. Các bài tập phải có mức độ hợp với sức chịu đựng của cơ thể, bảo
đảm cho tất cả các cơ, từ cơ to đến cơ nhỏ ít hoạt động nhất như: cơ bàn tay, các
cơ xoay trong, xoay ngoài…điều được phát triển.
Hệ tuần hoàn: Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang phát triển và hoàn thiện,
trọng lượng và sức chứa của tim phát triển tương đối hoàn chỉnh. Nhịp tim
khoảng 70 – 80 lần/phút. Mỗi phút cung cấp số lượng máu gần tương đối với
tuổi trưởng thành. Ở lứa tuổi này phản ứng của hệ tuần hoàn trong vận động
tương đối rõ rệt, nhưng sau vận động mạch đập và huyết áp hồi phục tương đối
nhanh chóng.
Ngồi ra, tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng và tuyến yên hoạt động
mạnh, các chất nội tiết tiết ra nhiều sẽ làm rối loạn sự chi phối của hệ thần kinh
đối với nội tạng, dẫn đến hiện tượng cao huyết áp tạm thời của tuổi dậy thì. Vì
vậy trong khi bố trí bài tập phát triển sức bền cần phải hết sức thận trọng, nếu
không sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe.



15

Hệ hơ hấp: Vịng ngực trung bình lứa tuổi 10 – 11 từ 67,30 – 72,22
cm. dung lượng của phổi tăng lên nhanh chóng. Khả năng trao đổi chất của phổi
tăng lên nhanh rõ rệt. Ở lứa tuổi 10 – 11 thành phần khơng khí thở ra gồm 17,6%
khí oxy, 3,3% khí cacbonic… nên khả năng hấp thụ khí oxy và thải khí cacbonic
cịn thấp, tần số thở của lứa tuổi này cơ bản gần giống người lớn.
Tuy nhiên, cơ thể vẫn còn yếu, cho nên sức co giãn của lồng ngực ít.
Trong tập luyện cần chú ý thở sâu, chậm để tăng cường cơ năng cơ quan hô hấp.
Luyện tập các động tác phát triển cơ ngực, cơ lường, cơ mình, tập các mơn như:
bơi lội, chạy cự ly trung bình, chạy việt dã có tác dụng tốt đến cơ quan hô hấp.
Hệ thần kinh: các tổ chức thần kinh của lứa tuổi 10 – 12 đang phát triển
để đi đến hoàn thiện. Tuy tổng khối lượng của vỏ não không tăng mấy, chủ yếu
cấu tạo bên trong vỏ não phức tập hơn, khả năng tư duy nhất là khả năng phân
tích, tổng hợp, trừu tượng hóa phát triển, rất thuận lợi cho việc hình thành phản
xạ có điều kiện.
Ngoài ra, ở lứa tuổi này do sự hoạt động mạnh mẽ của các tuyến giáp
trạng, tuyến yên, tuyến sinh dục làm cho tính hưng phấn của thần kinh chiếm ưu
thế, giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng, làm ảnh hưởng đến hoạt động thể
dục, khả năng chịu đựng bị ảnh hưởng. Vì vậy cần bố trí các bài tập thích hợp,
chú ý quan sát phản ứng của cơ thể học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
1.3.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỂ LỰC CỦA
HỌC SINH TIỂU HỌC.
1.3.2.1 Chế độ dinh dưỡng:
Các chất bột:
- Cung cấp từ 55 – 60% tổng năng lượng hằng ngày.


16


- Bao gồm chủ yếu là các chất tinh bột, đường hấp thụ như: các loại
trái cây, khoai củ và các chất bột khác như: cơm, bánh mì, đậu…. các loại đường
hấp thụ chậm giữ vai trò “năng lượng dự trữ” khi cần gắng sức với cường độ
cao. Trong khi gắng sức kéo dài nếu nguồn nước và đường đều đặn mỗi 20 phút
sẽ giúp duy trì lượng đường huyết và giảm được sự huy động Glycogen từ các
cơ. Sau khi gắng sức, các loại đường hấp thụ chậm sẽ hiệu quả hơn các đường
đơn ( kẹo, mứt, mật ong…) để hồi phục lại lượng đường Glycogen dự trữ trong
gan và cơ.
- Đường Fructoza có trong một số thức ăn hay nước giải khát, có
nhiều lợi ích cho cơ thể.
Cách sử dụng đường trong giai đoạn hoạt động thể dục thể thao:
- Trước khi gắng sức các loại đường hấp thụ chậm từ 2 – 3 giờ trước.
- Sau khi gắng sức: các loại đường hấp thụ chậm 36 – 48 giờ.
Chất đạm: Hoạt động thể lực cần thêm một lượng đạm (để tổng hợp các
mô của cơ bắp, do tăng sự chuyển hóa và ra nhiều mơ hơi).
- Cung cấp từ 10 – 15% tổng năng lượng trong ngày.
- Nhu cầu: từ 1,2 – 1,5%kg/ ngày, có thể tăng lên trong các loại hình
thể thao nặng (đẩy tạ, cự tạ…).
- Nên có sự cân bằng giữa các chất đạm giữa động vật và các chất đạm
thực vật.
Các chất béo: Cung cấp từ 25 – 30% tổng năng lượng trong ngày.
Nhu cầu nước:
- Một ml/Kcal tiêu hao. Do đó nếu nhu cầu là 35 Kcal thì lượng nước
cần thiết phải là 3,5 lít (3/4 là nước uống, 1/4 là nước trong thức ăn).


17

- Nếu uống từng lượng nhỏ: 150ml, mỗi 15 – 30 phút trước, trong và

sau khi gắng sức, dưới dạng nước thiên nhiên có ít đường.
Các chất khống:
- Dinh dưỡng cân bằng sễ đáp ứng đủ nhu cầu về chất khống:
Sodium, Potasium, Cholre, Cancalcium. Vì trong mồi hơi chỉ chứa ít Sodium nên
với cường độ gắng sức trung bình khơng cần bổ sung các chất điện giải. Ngược
lại cần phải bù trong các cuộc thi đấu kéo dài môi trường nóng bức.
Các chất Vitamin và các chất dinh dưỡng:
- Nhu cầu các chất dinh dưỡng có tăng lên. Có nhiều nguyên nhân làm
tăng nhu cầu các Vitamin và các chất dinh dưỡng: chế độ ăn mất cân đối, ăn
nhiều chất bột, đường và chất đạm hơn giúp tăng cường sự phát triển của các
khối cơ…
- Có thể bổ sung bằng các viên Multivitamin. Nhưng cần phải giải
thích cho các em hiểu rõ việc bổ sung Vitamin khơng có nghĩa là thành tích thể
thao sễ tăng lên nếu các em khơng luyện tập.
- Chất sắt: Nhu cầu 15 – 20mg/ngày, hơi cao hơn các em không chơi
thể thao (10 – 12mg/ngày).
- Kẽm: 5mg/ ngày, trong 15 ngày.
- Selenium: 100mg/ngày, trong 15 ngày.
Tóm lại: Các em học sinh cần có một chế độ ăn cân bằng cả về chất lẫn về
lượng phân bổ một cách hợp lý trong ngày.
1.3.2.2 Tập luyện thể dục thể thao:
Tập luyện thể dục thể thao giúp chúng ta duy trì và phát triển thể
lực, phịng chống các loại bệnh khác nhau. Tập luyện thể dục thể thao phải dựa


18

trên những nguyên tắc về giáo dục nói chung và giáo dục thể dục thể thao nói
riêng. Tuy nhiên nên chú ý đến một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc hệ thống:

Tập luyện thường xuyên đúng mức bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt
so với luyện tập thất thường. Khi ngừng luyện tập trong một thời gian các mối
liên hệ phản xạ có điều kiện vừa xuất hiện sẽ bị dập tắt, mức độ phát triển các hệ
thống cơ quan và cơ bắp cũng giảm xuống. Trong điều kiện này tham gia tập
luyện trở lại người tập luyện thường xuyên cảm thấy khó khăn và dễ xảy ra chấn
thương hoặc mệt mõi quá sức do gắng sức. Tập luyện liên tục và có hệ thống sẽ
góp phần cũng cố các động tác cũ, phát triển và hoàn thiện các bài tập mới sẽ dễ
dàng hơn. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất đối với các em học sinh.
Không tuân thủ theo ngun tắc này sẽ khơng thể hình thành và cũng
cố chắc chắn các động tác cũng như phát triển các tố chất thể lực.
- Nguyên tác tập luyện tăng dần:
Giáo dục thể thao là một q trình ln ln vận động, trong q trình
vận động đó các tố chất thể lực được phát triển dần dần từ buổi tập này sang buổi
khác thông qua các bài tập được thực hiện từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp, từ nhẹ nhàng đến nặng. Tập luyện theo nguyên tác này nhằm mục đích để cơ
thể dần dần tiếp thu được các kỹ thuật và khối lượng, cường độ vận động.
- Nguyên tác tập luyện theo nguyên tắc cá nhân:
Thực hiện tốt và chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc này tạo ra những
tiền đề cần thiết cho từng cá nhân để thúc đẩy họ tập luyện theo khả năng nhằm
phát triển thể lực, nâng cao thành tích của bản thân. Để thực hiện tốt các nguyên
tắc này cần:
+ Căn cứ vào tình trạng sức khỏe người tập.


19

+ Căn cứ vào đặc điểm giới tính: lứa tuổi 10 – 11 về mặt sinh lý
giải phẩu có sự khác biệt rõ rệt, vì vậy trong tập luyện cần phải có các nội dung
phù hợp hơn.
+ Căn cứ vào tuổi tác: ở lứa tuổi thiếu niên cần áp dụng bài tập

phát triển toàn diện, thể lực, kỹ thuật, ý chí.
Tóm lại: Tập luyện thể dục thể thao thường xun và có khoa học sẽ
làm cho các bộ máy, các cơ quan trong cơ thể vững vàng hơn, từ đó chức năng
sinh lý của từng bộ phận trong cơ thể được nâng cao.
1.3.2.3 Yếu tố mơi trường:
Điều kiện khí hậu khắc nghiệt thường có những ảnh hưởng nhất
định đến hiệu quả tập luyện thể dục thể thao, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm
làm căng bộ máy điều hịa nhiệt của cơ thể. Do cường độ tạo nhiệt và thải nhiệt
lớn dẫn đến hoạt động căng thẳng của hệ thống tuần hồn. Sự phân bổ máu trong
cơ thể sẽ có thay đổi. Trong điều kiện này hệ thống tuần hoàn bị quá tải, cơ thể
mất nước và muối khoáng nhiều. Cần chú ý phải cho các em tiếp nước và muối
khống sau khi tập luyện.
Tập luyện trong điều kiện khí hậu lạnh thường là dể chịu hơn so với
nóng ẩm do hệ thống tạo nhiệt hoạt động mạnh và hiệu quả, quá trình điều nhiệt
diễn ra dễ dàng.
1.3.2.4 Sân bãi và dụng cụ tập luyện:
Sân bãi và dụng cụ tập luyện là phương tiện luyện tập của học sinh
tham gia hoạt động thể dục thể thao. Thể dục thể thao càng phát triển thì tính
hiện đại khoa học và sân bãi, dụng cụ càng phát triển và đa dạng.


20

Dụng cụ, sân bãi thể dục thể thao là yếu tố quan trọng góp phần nâng
cao hiệu quả tập luyện, nâng cao thành tích, mặt khác ảnh hưởng trực tiếp tới thể
lực học sinh góp phần nâng cao kết quả học tập
1.3.3. Đặc điểm các tố chất thể lực của học sinh lứa tuổi 10 - 11
Tố chất thể lực là những mặt riêng biệt về khả năng vận động của con
người. Tố chất thể lực càng tốt thì càng tiếp thu và vận dụng nhanh kỹ thuật,
ngược lại kỹ thuật càng tốt thì càng thể hiện được tốt trình độ thể lực. Tố chất thể

lực gồm có: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khéo léo và mềm dẽo. Việc phát triển
các tố chất ở lứa tuổi này khá thuận lợi và các cơ dễ biến đổi, hệ thần kinh điều
hòa tốt, khả năng co duỗi và khả năng thả lỏng cơ cao, các cơ quan vận động có
thể chịu đựng được những lượng vận động tĩnh, hoạt động khá lớn, sự phát triển
các tố chất thay đổi tuy theo lứa tuổi.
Sức mạnh:
Sức mạnh là năng lực chống đỡ hoặc khắc phục sức cản bên ngoài nhờ
những nổ lực của cơ bắp. Vì thế đáng giá sức mạnh có thể dựa trên 2 mặt: Sức
mạnh tối đa và sức mạnh trong khoảng thời gian ngắn nhất. Để phát triển sức
mạnh cần tập các bài tập đối kháng, khắc phục trọng lượng cơ thể như kéo co,
nhảy bậc, ném, chạy ngắn, nằm sấp chống đẩy, đứng lên ngồi xuống … Khi rèn
luyện sức mạnh cần chú ý đến các cơ bụng, lưng, hông và cách thở hợp lý lúc
gắng sức.
Sức nhanh:
Nhanh là năng lực thực hiện động tác với khoảng thời gian ngắn nhất.
Để phát triển sức nhanh cho học sinh ở lứa tuổi này cần sử dụng các bài tập nâng
cao sức nhanh, các động tác đòi hỏi phản ứng nhanh hoặc có tần số cao. Chú ý
phát triển các năng lực tốc độ cần thiết cho môn chạy cự ly ngắn, luân phiên tập



×