Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Skkn kinh nghiệm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu cho học sinh bằng xây dựng trò chơi “tích truyện dân gian” trong dạy học tiếng việt lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.15 KB, 14 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mơn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng có nhiệm vụ hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học
Tiếng Việt, học sinh được rèn luyện các thao tác tư duy, có những hiểu biết sơ
giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngồi. Từ đó bồi dưỡng cho các em tình u tiếng Việt và hình thành thói quen
giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, việc dạy và học phân mơn Luyện từ và
câu ở lớp 4 nói riêng và ở Tiểu học nói chung cịn gặp khơng ít khó khăn, nhất là
chưa thực sự chú trọng đến việc rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu cho các em,
chưa giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của ngơn ngữ trong lời nói, giao tiếp và nhất
là trong văn phong Tiếng Việt. Đồng thời, việc dạy học bộ môn này chưa tạo
được niềm đam mê học tập thực sự cho trẻ. Dẫn đến các em còn thụ động trong
học tập, chưa tích cực và tự giác học tập tiến bộ. Điều đó đồng nghĩa với việc
khơng ít giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc tìm ra những phương pháp dạy
học hiệu quả để giải quyết những vấn đề cịn tồn đọng trong dạy học bộ mơn này.
Ngồi ra, việc sử dụng “trò chơi học tập”, đặc biệt là trị chơi “Tích truyện
dân gian” trong dạy học Tiếng Việt của phần đa giáo viên chưa nhiều, vẫn còn
đơn điệu về hình thức và cách tổ chức, chưa tạo được hưng phấn cho học sinh
trong mỗi tiết học. Điều này dẫn đến việc hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, câu và
việc sử dụng vốn từ trong đặt câu, viết đoạn, bài văn của học sinh cịn gặp nhiều
khó khăn.
Việc đổi mới triệt để phương pháp dạy học nhằm tạo cho học sinh tích cực,
chủ động và sáng tạo trong học tập là vấn đề đang được nhiều người quan tâm.
Chính vì lẽ đó, trong q trình dạy học, tơi ln chủ động, tìm tịi và học hỏi đồng
nghiệp, lãnh đạo nhà trường trong việc đổi mới phương pháp dạy học để mỗi tiết
1/32



học của các em thực sự cuốn hút và hiệu quả bằng việc mạnh dạn áp dụng: “Kinh
nghiệm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu cho học sinh bằng xây dựng trị
chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy học Tiếng Việt lớp 4”. Từ đó có thể giải
quyết phần nào những vấn đề còn vướng mắc và tồn đọng trong dạy học phân
môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn việc áp dụng “Rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu cho học
sinh bằng xây dựng trị chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy học Tiếng Việt lớp
4” thì mục đích chính là tháo gỡ những khó khăn về hiểu nghĩa từ, cấu tạo từ, các
kiểu câu và sử dụng vốn từ và câu trong đặt câu, viết đoạn, bài văn. Qua đó, tạo
sự tự tin, tích cực, chủ động và hứng thú học tập cho các em để mỗi tiết học thực
sự lí thú và hiệu quả. Từ đó, giúp học sinh lớp tơi phụ trách nói riêng và học sinh
lớp 4 trường tiểu học Nga Vịnh nói chung phát triển tồn diện các kĩ năng, năng
lực, phẩm chất và tư duy trong học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu
Việc lựa chọn kiến thức, nội dung của phân môn Luyện từ và câu trong
chương trình Tiếng Việt lớp 4 để xây dựng những trị chơi “Tích truyện dân gian”
mới mẻ, lí thú nhưng khơng xa lạ mà gần gũi với tâm sinh lí và trình độ nhận thức
của học sinh lớp 4B trường Tiểu học Nga Vịnh, Nga Sơn, Thanh Hóa chính là đối
tượng nghiên cứu của đề tài mà tôi áp dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện áp dụng “Kinh nghiệm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu
cho học sinh bằng xây dựng trị chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy học Tiếng
Việt lớp 4”, tôi đã sử dụng một số phương pháp chính như: phương pháp nghiên
cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập
thông tin; phương pháp thống kê, xử lí số liệu, cụ thể như sau:
a. Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết
2/32



Là phương pháp nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vốn từ, các kiểu
câu, cách cung cấp vốn từ, câu và các trò chơi, cách tổ chức trò chơi “Tích truyện
dân gian” gần gũi, phù hợp với nội dung kiến thức tiếp nhận của học sinh.
b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
Đây là phương pháp điều tra nghiên cứu thực tế việc tổ chức dạy và học về
sử dụng vốn từ, câu bằng trò chơi học tập và trị chơi “Tích truyện dân gian”
trong mơn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Vịnh nói riêng
(dạy học theo mơ hình trường học mới Việt Nam - VNEN) và một số trường tiểu
học nói chung trên địa bàn huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
c. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
Sau khi áp dụng giải pháp này vào thực tiễn dạy học tại lớp 4B, trường tiểu
học Nga Vịnh kết hợp thu thập các tài liệu, dữ liệu phục vụ cho đề tài, tơi đã tiến
hành phân tích, tổng hợp các số liệu minh chứng cụ thể qua các thời điểm kiểm
tra của giáo viên, tổ chuyên môn và Nhà trường từng thời điểm cụ thể. Từ đó rút
ra kết luận và hiệu quả về việc áp dụng “Kinh nghiệm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ
và câu cho học sinh bằng xây dựng trị chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy học
Tiếng Việt lớp 4”.

3/32


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
(ngày 26/1/2016) định hướng đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực đã nêu rõ: “Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm
cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm
tiến bộ, trưởng thành….Giáo dục cần phải tập trung phát triển mạnh năng lực và
phẩm chất người học, đảm bảo hài hòa đức, trí, thể, mỹ, thực hiện tốt phương

châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy
nghề).” Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy và học tập trung rèn kĩ năng, bồi
dưỡng năng lực và phẩm chất người học là nhiệm vụ cần được chú trọng trong
giáo dục đào tạo. Các Nhà trường đã triển khai và chỉ đạo tới toàn thể cán bộ giáo
viên, nhân viên trong mỗi nhà trường, đặc biệt là các trường đang thực hiện dạy
học theo mơ hình Trường học mới Việt Nam (VNEN)- trong đó có trường Tiểu
học Nga Vịnh, Nga Sơn, Thanh Hóa.
Việc giúp học sinh rèn kĩ năng sử dụng vốn từ, viết câu có vai trị đặc biệt
quan trọng trong hệ thống ngơn ngữ vì nó chính là đang giúp cho các em nắm
vững ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp phù hợp với từng đối tượng và hồn
cảnh cụ thể trong các tình huống phức tạp và đa dạng của cuộc sống. Giúp các em
hiểu về thế giới xung quanh việc học tập ở trường, ở nhà cũng như tình cảm gia
đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người một cách chủ động, tích cực và
sáng tạo. Từ đó gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu
tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động.
Dạy học mơn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạy học phân mơn Luyện
từ và câu ở lớp 4 nói riêng thì cần phải chú ý đến trình độ, đến tâm sinh lí lứa tuổi
của từng đối tượng học sinh tiểu học là thích khám phá, sáng tạo, thích chinh
phục, làm chủ bản thân và hứng thú với những điều mới mẻ. Đồng thời, người
4/32


giáo viên phải nắm được năng lực sử dụng tiếng Việt của các em. Từ đó để điều
chỉnh nội dung, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp làm sao cho trong mỗi
tiết học, học sinh ở các trình độ khác nhau đều được quan tâm, được làm việc và
được phát triển. Như vậy, người giáo viên phải không ngừng học hỏi, đổi mới
phương pháp dạy học một cách triệt để trong mỗi giờ học giúp các em chủ động
hoạt động và tự học một cách sáng tạo như đánh giá của Thứ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai: “Phải biến quá trình dạy học thành quá trình hoạt
động và tự học của học sinh… Giáo viên phải tiếp xúc với trẻ, giúp trẻ hoạt động

và đạt kết quả học tập tốt hơn.”
Những điều nói trên đồng nghĩa với việc người giáo viên cần mạnh dạn
nghiên cứu, xây dựng và thực hiện các trị chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy
học Tiếng Việt nhằm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và các kiểu câu cho học sinh lớp
4. Qua đó giúp các em phát triển những kĩ năng, năng lực và phẩm chất cần thiết.
Muốn tổ chức trị chơi học tập Tiếng Việt “Tích truyện dân gian” hiệu quả trước
hết phải hiểu về trò chơi học tập Tiếng Việt “Tích truyện dân gian” là những trị
chơi được sử dụng trong giờ Tiếng Việt, giúp học sinh nắm bắt tri thức ngôn ngữ
và rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt thêm hứng thú, hiệu quả. Thông qua các câu
chuyện cổ dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,…) như: Tấm Cám; Sơn
Tinh, Thủy Tinh; Thạch Sanh; Cây tre trăm đốt; Cây khế; Sự tích quả dưa hấu,...
giáo viên tổ chức các trị chơi “Tích truyện dân gian” để giúp học sinh củng cố,
rèn kĩ năng về cấu tạo âm tiết, phân biệt về cấu tạo của từ (danh từ, động từ, tính
từ; từ đơn, từ ghép, từ láy), phân biệt, đặt đúng các kiểu câu (câu kể Ai là gì? Ai
làm gì? Ai thế nào?; câu hỏi, câu khiến, câu cảm) hay kĩ năng ghi nhớ các thành
ngữ, tục ngữ, giải câu đố chính tả,…Với trị chơi học tập tiếng Việt dựa theo tích
truyện dân gian sẽ làm tăng tính giả định của trị chơi học tập (mỗi học sinh tham
gia trò chơi sẽ nhập vai vào một nhân vật trong câu truyện cổ dân gian như anh
nông dân nghèo, chàng Sơn Tinh, Thạch Sanh,…hay cả những chú chim sẻ đáng
yêu,… ), nâng cao hứng thú học tập, sự sáng tạo cho học sinh. Nó khơng những
giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng vốn từ và câu tiếng Việt mà
5/32


cịn giúp giáo viên khơng ngừng tìm tịi, sáng tạo trong đổi mới phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế cho thấy, hầu hết việc dạy và học ở các trường tiểu học nói chung
và ở các trường đang dạy học theo Mơ hình trường học mới Việt Nam (VNEN)
nói riêng, việc đổi mới phương pháp dạy học trong môn Tiếng Việt lớp 4, đâu đó

ở một bộ phận khơng nhỏ giáo viên chưa thực sự triệt để. Việc sử dụng trò chơi
học tập tiếng Việt, nhất là trò chơi học tập “Tích truyện dân gian” trong dạy học
Tiếng Việt lớp 4 còn hạn chế và chưa hiệu quả. Học sinh còn lúng túng trong hiểu
nghĩa từ, cấu tạo từ; phân biệt và đặt các kiểu câu hay việc sử dụng vốn từ để đặt
câu, viết đoạn, bài văn chưa hợp lí, chưa hay. Dẫn đến trong mỗi giờ học, các em
chưa hứng thú, chưa tích cực học tập và việc hoạt động hợp tác của học sinh chưa
cao.
Đối với học sinh trường Tiểu học Nga Vịnh, nhất là học sinh lớp 4B tơi
được chủ nhiệm trong năm học ……, thì vốn từ vựng, câu của các em để sử dụng
vào cuộc sống khi diễn đạt, trình bày ý kiến, tư tưởng hay tình cảm của mình cịn
nhiều hạn chế. Các em thường gặp khó khăn trong hiểu nghĩa của từ, phân biệt
các loại từ (từ đơn, từ ghép, từ láy) và từ loại (danh từ, động từ, tính từ); phân biệt
các kiểu câu hay sử dụng vốn từ, kiểu câu trong đặt câu, viết đoạn, bài văn cho
đúng và có hình ảnh cịn nhiều lúng túng. Vì thế mà các câu văn các em viết còn
nghèo ý và từ; diễn đạt còn lủng củng, chưa rõ nghĩa hay nghĩa chưa sáng. Cụ thể,
đầu năm kết quả làm bài khảo sát môn Tiếng Việt phần sử dụng vốn từ và câu của
23 học sinh lớp 4B tôi phụ trách như sau:
Kết quả
Sĩ số

23

Hoàn thành

Hoàn thành

xuất sắc

tốt


Hoàn thành

Chưa
hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

2

8,6

4

17,4

16


69,7

1

4,3

6/32


Từ kết quả thực trạng trên cho thấy vốn từ và khả năng sử dụng vốn từ và
câu của học sinh lớp tơi nói riêng và học sinh trường Tiểu học Nga Vịnh nói
chung cịn nhiều hạn chế. Dẫn đến mỗi tiết học về sử dụng vốn từ và câu hiệu quả
chưa cao; học sinh cịn rụt rè, thiếu tích cực và chủ động trong học tập, hoạt động
nhóm. Vì vậy mà ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của mơn Tiếng Việt nói
riêng và các mơn học khác trong nhà trường nói chung. Như thế là chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới của nền giáo dục Tiểu học ở Việt Nam hiện nay.
3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu tiếng Việt
cho học sinh lớp 4
Từ thực trạng trong dạy học Tiếng Việt lớp 4 như đã nói, tơi mạnh dạn đưa
ra những giải pháp trong thực tiễn giảng dạy và công tác để giải quyết những băn
khoăn, vướng mắc và những vấn đề còn tồn đọng trong dạy học và giáo dục học
sinh với mong muốn góp phần giúp cho học sinh lớp tơi phụ trách có kĩ năng sử
dụng vốn từ và câu thật tốt; được chủ động, tích cực và sáng tạo trong học tập, để
mỗi giờ học nặng nề trước đây biến thành những giờ học lí thú và hiệu quả. Từ đó
sẽ tạo được mơi trường học tập có ích, giúp học sinh phát triển tồn diện; giúp
giáo viên tiến bộ, trưởng thành, khơng ngừng trau dồi, nâng cao tay nghề. Để thực
hiện điều đó, tơi đã tiến hành một số giải pháp sau:
3.1. Nghiên cứu nội dung, lựa chọn kiến thức, tìm hiểu và tổ chức trị chơi
“Tích truyện dân gian” nhằm tạo hứng thú, nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng

Việt lớp 4
Chương trình mơn Tiếng Việt lớp 4 phần kiến thức tiếng Việt và văn học sẽ
giúp học sinh trước hết nắm về từ vựng: Học thêm khoảng 700 từ, thành ngữ, tục
ngữ đi theo chủ điểm. Nắm được nghĩa của một số yếu tố Hán Việt, một số thành
ngữ, tục ngữ thơng dụng, nắm được nghĩa bóng của một số từ trong tác phẩm văn
học; Nắm được cấu tạo của tiếng (âm đầu, vần, thanh) và cấu tạo của từ (từ đơn
và từ phức, từ ghép và từ láy). Thứ hai là nắm về ngữ pháp và ngữ pháp văn bản:
Nắm được các khái niệm danh từ, động từ, tính từ; Nắm được các kiểu câu đơn và
thành phần câu đơn (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ), các kiểu câu phục vụ cho mục
7/32


đích nói chun biệt như câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến; Nắm được kết cấu
ba phần của văn bản (mở bài, thân bài, kết bài). Thứ ba là về văn học: Làm quen
với một số tác phẩm hoặc trích đoạn tác phẩm văn học dân gian, truyện, thơ, kịch,
văn miêu tả của các tác giả trong và ngoài nước.
Để thực hiện được mục tiêu “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt” nhất là rèn kĩ năng sử dụng vốn từ và câu cho các em
hiệu quả thì cần chú trọng việc dạy học tích cực hóa cá thể học sinh, phát huy và
tăng cường năng lực hoạt động nhóm cho học sinh trên quan điểm lấy nguyên tắc
dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản. Vì hoạt động giao tiếp sẽ giúp các em chủ
động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,...nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết
hoặc sự cộng tác,… giữa các thành viên trong nhóm, lớp, cộng đồng. Điều này
chỉ được thực hiện một cách hiệu quả nhất thơng qua việc tạo ra mơi trường, tình
huống cho trẻ được hoạt động tích cực, hợp tác và hăng say trong khi tham gia trò
chơi học tập, nhất là trị chơi “Tích truyện dân gian”
Khi sử dụng trị chơi “Tích truyện dân gian” trong dạy học Tiếng Việt ở
lớp 4, giáo viên cần lựa chọn những câu truyện cổ dân gian có trong bài Tập đọc,
Kể chuyện,…hoặc những câu chuyện quá quen thuộc mà học sinh đã được nghe
từ ông bà, cha mẹ để tạo nên trò chơi học tập được sử dụng trong các tiết học

như: Tấm Cám, Sơn Tinh Thủy Tinh, Thạch Sanh, Cây Khế, Sự tích quả dưa
hấu,…. Vì điều này sẽ có tác dụng tích hợp rất tự nhiên, hiệu quả giữa hình thành
kiến thức, rèn kĩ năng; giữa phân môn Luyện từ và câu với Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả và Tập làm văn. Nói cách khác là sự tích hợp giữa kiến thức – kĩ năng
tiếng Việt với hiểu biết thực tế của học sinh. Trị chơi “Tích truyện dân gian” phải
đảm bảo các tiêu chuẩn: dễ chơi (có luật chơi rõ ràng, dễ hiểu), phục vụ cho mục
tiêu của bài học, có tính giáo dục cao, phù hợp với khơng gian lớp học, phù hợp
với điều kiện cơ sở vật chất hiện có. Để tăng tính khả thi và hiệu quả, trị chơi học
tập Tiếng Việt phải mang ý nghĩa giáo dục trí tuệ, phù hợp tâm lí lứa tuổi học
sinh, phù hợp với điều kiện thời gian, điều kiện vật chất của trường, lớp và hấp
dẫn học sinh. Trị chơi “Tích truyện dân gian”có thể sử dụng với nhiều mục đích
8/32


khác nhau: tái hiện kiến thức của bài; hình thành kiến thức mới; củng cố kiến
thức, rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
Tuy nhiên, việc tổ chức cho học sinh chơi trị chơi “Tích truyện dân gian”
để củng cố, rèn kĩ năng sử dụng vốn từ, câu cho học sinh lớp 4 như thế nào để
mang lại hiệu quả giờ học, để tạo hứng thú, sự sáng tạo cho các em mới là quan
trọng.
Để đạt được những điều nói trên thì tơi đã tiến hành tìm hiểu và nắm rõ quy
trình tổ chức thực hiện một trị chơi “Tích truyện dân gian” bao gồm các bước
sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trị chơi
Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
+ Tổ chức thành lập những người tham gia trò chơi: Số người tham gia trò
chơi, số đội chơi, quản trò, trọng tài.
+ Các dụng cụ dùng để chơi: Giấy khổ to, bút dạ, giấy màu, phấn màu, thẻ
chữ, tên đội, hoa số, cờ, …
+ Cách chơi: Giáo viên nêu tên trò chơi, luật chơi, từng việc làm cụ thể của

người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm.
+ Cách xác nhận kết quả hay cách tính đội chiến thắng hoặc giải của cuộc
chơi(nếu có)
Bước 3: Thực hiện trò chơi
Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
+ Giáo viên (có thể kết hợp với các Trưởng ban) làm trọng tài nhận xét về
thái độ tham gia chơi của từng đội, những việc làm của các đội chưa tốt để rút
kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
cho đội chiến thắng.
+ Một số học sinh nêu kiến thức, kĩ năng trong bài học mà trò chơi đã thực
hiện.
9/32


Một số lưu ý khi xây dựng và tổ chức trị chơi “Tích truyện dân gian” trong
dạy học tiếng Việt nhằm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ, câu cho học sinh lớp 4 là:
+ Mục đích của trị chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần
của chương trình.
+ Hình thức chơi đa dạng giúp học sinh được thay đổi các hoạt động học
tập trên lớp, giúp học sinh phối hợp được các hoạt động trí tuệ và hoạt động vận
động.
+ Luật chơi đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra cách
chơi có nhiều học sinh tham gia để tăng cường kĩ năng học tập hợp tác.
+ Các dụng cụ chơi cần dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ.
+ Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học
sinh thích thú vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung vào các nội dung khác
của bài học một cách có hiệu quả.
+ Trị chơi cần tạo sự mới mẻ về cách tổ chức, khen thưởng để học sinh
hứng thú, tích cực và sáng tạo khi chơi nhằm rèn kĩ năng sử dụng vốn từ,câu hiệu

quả nhất cho học sinh.
Có thể nói, dạng bài tập tiếng Việt nào cũng có thể trở thành trị chơi học
tập dựa theo tích truyện dân gian nếu giáo viên chủ động và triệt để đổi mới
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; biết nắm bắt đúng các thao tác giải
bài tập, xác định đúng “cái đích” của bài tập và khéo léo chuyển thao tác đó,
“đích” đó vào cách chơi, cách tính kết quả cuộc chơi. Cái khéo léo một phần lớn
có được nhờ tìm ra yếu tố giả định của trò chơi. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều
thật (từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là thầy,…), trò chơi sẽ
bớt phần hấp dẫn. Với lứa tuổi Tiểu học, nhất là học sinh lớp 4B tôi phụ trách,
nếu tên gọi của trị chơi, nhân vật, tình huống, kết quả,…của trị chơi tiếng Việt
được giả định từ nhân vật, tình huống, kết thúc,… của các văn bản truyện cổ dân
gian Việt Nam (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,…) thì trị chơi lại trở nên hấp
dẫn các em vơ cùng. Cịn gì thú vị hơn khi mỗi học sinh được giả định là một
nhân vật tốt bụng, tài giỏi trong truyện dân gian (như cô Tấm, chàng Sơn Tinh,
10/32


chàng Thạch Sanh, người em út, Mai An Tiêm,… hay thậm chí là những chú
chim sẻ đáng u.,...) và ln gặp một cái kết “có hậu” như đã diễn ra trong
truyện cổ. Việc giả định mới mẻ và thú vị này sẽ kích thích tính hiếu kì, giúp các
em chủ động tìm ra kiến thức về từ vựng, về kiểu câu trong từng nội dung bài
học, từng hoạt động cụ thể. Đồng thời giúp các em củng cố và rèn kĩ năng sử
dụng vốn từ và câu tiếng Việt đã học một cách hiệu quả.
3.2. Rèn kĩ năng hiểu nghĩa từ vựng cho học sinh bằng xây dựng trò chơi Tích
truyện dân gian “Khắc nhập”, “Khắc xuất”; “Dâng núi chống lụt” trong các
tiết chính khóa và thiết kế các dạng bài tập ở buổi 2.
Từ tiếng Việt có khá nhiều nhân tố liên quan tới việc hình thành nghĩa của
từ như hình thức ngữ âm của từ, sự vật hiện tượng được gọi tên, khái niệm được
từ biểu thị hay những yếu tố thuộc hệ thống ngôn ngữ chi phối, liên quan đến
nghĩa của từ như tình cảm, thái độ, ý thức, tư tưởng, cách cảm nghĩ của người sử

dụng ngơn ngữ, văn cảnh mà từ xuất hiện. Vì vậy mà việc hiểu nghĩa từ tiếng
Việt đối với học sinh lớp 4 nói chung và học sinh lớp 4B tơi phụ trách nói riêng
gặp rất nhiều khó khăn do vốn sống và vốn hiểu biết của các em còn nhiều hạn
chế. Dẫn đến việc học sinh sử dụng từ ngữ trong đặt câu chưa phù hợp, nghĩa
chưa sáng, chưa hay. Vậy làm thế nào để giúp các em củng cố và rèn kĩ năng hiểu
nghĩa từ vựng?, tôi đã lấy chính cái “khó” trong việc dạy - học này để biến thành
cái “dễ” giúp học sinh hứng thú, chủ động tìm hiểu nghĩa từ vựng, từ đó mà rèn
cho các em kĩ năng hiểu nghĩa từ và sử dụng nghĩa từ phù hợp, linh hoạt, bằng
việc xây dựng trò chơi “Khắc nhập”, “Khắc xuất” thơng qua câu chuyện cổ tích
“Cây tre trăm đốt” và “Dâng núi chống lụt” thông qua truyền thuyết “Sơn
Tinh, Thủy Tình” trong dạy học giải nghĩa từ ở một số bài Tập đọc như: Truyện
cổ nước mình (Bài 2B: Cha ơng nhân hậu tuyệt vời), Một người chính trực (Bài
4A: Làm người chính trực), Người tìm đường lên các vì sao (Bài 13A: Vượt lên
thử thách),…Ngồi ra, việc sử dụng trò chơi này còn phù hợp trong dạy học một
số hoạt động trong giờ Chính tả, giờ Luyện từ và câu (Mở rộng vốn từ) như:Bài
11/32


12A: Những con người giàu nghị lực (Tiết 2) - Tập 1B, Bài 19C: Tài năng của
con người (Tiết 1)- Tập 2A,…cụ thể như sau:
3.2.1. Minh họa cách tổ chức trò chơi “Khắc nhập” nhằm giúp học sinh phát
triển kĩ năng hiểu nghĩa từ qua dạy Bài 4A: Làm người chính trực (Tiết 1, tập
1A-trang 56)
Trong khi dạy bài Tập đọc: “Một người chính trực”, ngồi việc giúp học
sinh hiểu về một nhân vật lịch sử Việt Nam đại diện cho những con người chính
trực bao giờ cũng đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích riêng là ông Tô Hiến
Thành – làm quan dưới triều Lý (phò tá vua Lý Cao Tông sau khi vua Lý Anh
Tông mất), thì việc giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ ngữ Hán Việt của bài đọc
là rất quan trọng. Vì vậy tơi đã tổ chức thực hiện trị chơi: “Khắc nhập” ở hoạt
động 3 (trang 58) như sau:

Mục đích chơi: giúp học sinh nắm một cách chắc chắn nghĩa một số từ ngữ
Hán Việt của bài: chính trực, di chiếu, thái tử, thái hậu, phị tá, tham tri chính sự,
gián nghị đại phu, tiến cử. Tạo sự thích thú, hợp tác nhóm tích cực.
Chuẩn bị: Thành lập đội chơi: 6 nhóm, mỗi nhóm 8 thẻ từ và phiếu học tập
ghi lời giải nghĩa như nội dung hoạt động. Mỗi thành viên trong nhóm là một anh
Khoai (anh nơng dân nghèo, tốt bụng trong câu chuyện).
+ Thẻ số, thẻ đỏ, số tên nhóm, các bơng hoa đủ màu, cờ thi đua, bảng phụ.
Cách tiến hành:
+ Giáo viên nêu tên trò chơi: “Khắc nhập”
+ Giáo viên phổ biến hình thức chơi, luật chơi, cách chơi, thời gian chơi: Học
sinh thực hiện chơi trong nhóm, mỗi bạn được xem là một anh Khoai, các thẻ từ
và lời giải nghĩa được xem là những đốt tre mà ông Bụt tặng cho anh Khoai. Khi
giáo viên hô “Khắc nhập”, các đội chơi sẽ phải ghép các thẻ chữ phù hợp với
nghĩa đã ghi trong phiếu học tập. Sau khi ghép xong, trưởng nhóm sẽ giơ thật
nhanh thẻ đỏ lên. Thứ tự các đội sẽ được gắn theo số từ 1 đến 6. Mỗi thẻ từ và lời
giải nghĩa đúng tương ứng sẽ nhận được một đốt tre. Sau thời gian 3 phút chơi,
đội nào chưa ghép xong thì bị trừ đi một đốt tre. Đội nào ghép nhanh nhất, nhận
12/32


được nhiều đốt tre nhất là đội chiến thắng. Phần thưởng cho đội chiến thắng là
được ông Bụt trao cho lá cờ vinh quang cắm vào “Cờ thi đua” của nhóm.
+ Giáo viên tổ chức trị chơi và nhận xét trò chơi:
- Các đội thực hiện chơi trong thời gian 3 phút quy định
- Các đội chơi giơ thẻ đỏ báo cáo hồn thành trị chơi
- Giáo viên gắn thẻ số cho các đội chơi trên bảng
- Kiểm tra kết quả các nhóm qua đáp án đúng: a - 4, b - 3, c - 1, d -2,
e - 6, g - 5, h - 8, i - 7.
- Tuyên dương, khen ngợi đội chiến thắng: Trong thời gian quy định, 3 đội
về số 1 là đội: Hoa Ban, Hoa Mai, Hoa Sen đã dành được phần thưởng chiến

thắng của ông Bụt.
- Đại diện nhóm nêu lại từ và lời giải nghĩa đúng để khắc sâu nghĩa từ.
Tôi đã thực hiện tổ chức trò chơi “Khắc nhập” trong giờ Tập đọc, kết quả
cho thấy tất cả học sinh rất phấn khích, hào hứng tham gia chơi, các đội chơi đều
ghép thẻ chữ với lời giải nghĩa đúng rất tốt.
Ngoài ra, để rèn kĩ năng hiểu nghĩa từ, trong các tiết luyện Tiếng Việt buổi
2, tôi thường xuyên sưu tầm, thiết kế các dạng bài tập phù hợp với các trò chơi
nói trên áp dụng trong dạy học củng cố kiến thức và rèn kĩ năng về hiểu nghĩa từ
vựng cho học sinh lớp tôi. Và hiệu quả mỗi tiết luyện tập cho thấy rất tốt, ví dụ
như tổ chức trị chơi “Khắc Nhập” trong bài tập: Nối từ với lời giải nghĩa đúng:
Chân thành

Trong lịng nghĩ như thế nào thì bày tỏ ra bên ngoài như thế

Chân thực

Thật thà, mộc mạc, bộc lộ bản chất tốt đẹp một cách tự nhiên

Chân chất

Hết sức thành thật, xuất phát tự đáy lòng

3.2.2.Minh họa cách tổ chức trò chơi “Khắc xuất” nhằm nâng cao khả năng hiểu
nghĩa từ qua dạy Bài 19C: Tài năng của con người (Tiết 1) – tập 2A, trang 16
13/32


THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh nghiệm
mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team

Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!

14/32



×