Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Xây dựng xã hội học tập ở nước ta (36 trang).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.09 KB, 35 trang )

Xay dung xa hoi hoc tap o nuoc ta
Xây dựng xã hội học tập ở nước ta
ND - Xây dựng xã hội học tập (XHHT) vừa là
một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu chiến lược, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của
nền giáo dục nước nhà, quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HÐH ở nước ta, của
quá trình đưa nền kinh tế Việt Nam thành một nền kinh tế tri thức, đưa dân tộc Việt
Nam trở thành một dân tộc thông thái như Bác Hồ hằng mong muốn, đưa xã hội Việt
Nam thành một xã hội trí tuệ, hiện đại, hội nhập kinh tế thế giới.
Nhiệm vụ trung tâm của xây dựng XHHT ở nước ta
Nhiệm vụ trọng tâm của XHHT là làm cho mọi người từ trẻ đến già đều thấy cần phải học, và học
suốt đời, xem học tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc, tạo môi trường học
tập đáp ứng cao nhất nhu cầu học tập ban đầu và học suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân, mọi
lứa tuổi và cả người cao tuổi, mọi ngành nghề, mọi trình độ, trong đó đặc biệt chú ý nhu cầu học
tập của người cao tuổi, người bị khuyết tật, người bị thiệt thòi về giáo dục và có thể học ở mọi
nơi (tại trường, tại nơi làm việc, tại nhà...), mọi lúc, học bằng nhiều cách: trên lớp, học từ xa
qua phát thanh, truyền hình, học trên máy tính, trên mạng in-tơ-nét, hội nghị, hội thảo, trò
chơi... theo nguyên tắc tự học là chính.
Bản chất XHHT là một môi trường giáo dục, trong đó mọi người đều được cung cấp cơ hội học
tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng điều kiện học của từng người, từng
cơ quan, đơn vị... một môi trường trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội đều tự giác
học hành và tích cực tạo ra các cơ hội, điều kiện học hành cho xã hội sao cho cả xã hội trở thành
một trường học lớn, mỗi người dân là một học trò, nhu cầu học luôn được đáp ứng và là nơi đào
tạo nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng với nhiều trình độ, nhiều năng lực khác nhau đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế trong một thị trường lao động luôn biến động
dưới sự tác động tiến bộ của khoa học và công nghệ.
Trong XHHT, quan niệm về học được mở rộng. Học không chỉ là học văn hóa mà còn phải học
các kiến thức khác để làm việc, để sáng tạo, để làm người, để sống tốt hơn, thích ứng sự thay
đổi của xã hội. Và, học không chỉ học trong nhà trường, học tập trung theo niên chế mà còn học
trong cuộc sống xã hội, tập thể, gia đình, bạn bè,... Học được ý thức là con đường làm tăng
trưởng trí tuệ, giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, thẩm mỹ,... cho con người. XHHT là một xã
hội cung cấp cho con người đầy đủ các điều kiện, các cơ hội để học tập, phát triển, bảo đảm cho


con người luôn có được các phẩm chất: trí tuệ, kỹ năng, thái độ thích ứng đòi hỏi của một xã hội
luôn biến đổi.
Học là quá trình thu thập và xử lý thông tin để tự biến đổi mình, "phù sa" tri thức, làm phong
phú cho bản thân. Trong điều kiện ngày nay, thông tin là tài nguyên của sự học; con người trong
XHHT là con người có kỹ năng thu thập, xử lý sử dụng thông tin bằng các phương tiện truyền
thông hiện đại. Giáo dục và việc học hành của con người trong xã hội hiện đại không thể chỉ dựa
vào nguồn tri thức của người thầy ở trường như trước đây, mà phải mở ra toàn không gian sống
của con người trong xã hội thông tin. Do vậy, XHHT chỉ hình thành và phát triển được dựa trên
nền công nghệ thông tin phát triển, trong đó, truyền thông đa phương tiện phục vụ người học
rộng rãi trong cả nước là quan trọng hàng đầu.
XHHT ở Việt Nam được xây dựng trên quan điểm nào? XHHT phải là một thiết chế giáo dục mở,
một môi trường giáo dục thỏa mãn nhu cầu học tập của mọi người trong xã hội, ở mọi lứa tuổi,
mọi ngành nghề, mọi trình độ với các hình thức học tập đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt: học ở nhà
trường tập trung theo niên chế, tự học, học có hướng dẫn, bổ túc văn hóa (BTVH), tại chức, học
từ xa theo triết lý tự học và học suốt đời.
Theo quan niệm trên, mô hình hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT phải cơ cấu lại căn bản.
XHHT yêu cầu một cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức một cách khoa học, bảo đảm
việc học tập của con người được diễn ra liên tục, dễ dàng, tiện lợi suốt đời người từ bé đến lúc
chết. Bên cạnh hay song song với giáo dục trong nhà trường truyền thống, hay giáo dục ban đầu
(GDBÐ) cho lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, được tổ chức học tập trung theo niên chế, chủ yếu
cung cấp các kiến thức văn hóa phổ thông, tạo nguồn cho hoạt động đào tạo nghề và cán bộ
khoa học chuyên môn ở giai đoạn tiếp theo, ắt phải có hệ thống giáo dục tiếp tục (GDTT) dành
cho những người đã nhận được chương trình GDBÐ ở phổ thông hoặc đại học, đang làm việc
trong lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau và những người không có điều kiện nhận được chương
trình giáo dục ban đầu (do bỏ học, nghèo túng, xa cách địa lý, tâm lý xã hội...) có nhu cầu học
tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, năng lực làm việc, tìm kiếm việc làm hoặc thay đổi công
việc, nâng cao chất lượng cuộc sống... mà không cần hoặc không có điều kiện đi học tập trung,
theo niên chế.
Hệ thống giáo dục tiếp tục phải là một thiết chế độc lập (tương đối) mở, có mục tiêu đào tạo,
cách tổ chức dạy - học, tài liệu dạy - học riêng, khác với hệ thống giáo dục ban đầu như: không

học tập trung, không theo niên chế, không học "giáp mặt", học từ xa bằng các dạng học liệu
riêng được cung cấp qua hệ thống truyền thông đa phương tiện với hình thức học tập chủ đạo là
tự học.
Hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục là hai hợp phần của một chính thể là hệ
thống giáo dục quốc dân, có mối liên hệ qua lại rất mật thiết, bổ trợ cho nhau, mang tính liên
thông đan xen dọc - ngang nhịp nhàng và làm tiền đề cho nhau tồn tại, phát triển, thay đổi. Luật
Giáo dục sửa đổi bổ sung ban hành năm 2005 đã ghi: "Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo
dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa
làm, học liên tục, học suốt đời...". Hệ thống giáo dục ban đầu có chức năng tổ chức dạy - học
cho thế hệ trẻ (khoảng 22 - 23 triệu).
Hệ thống giáo dục tiếp tục có chức năng tổ chức dạy - học chủ yếu cho người lớn và cao tuổi
(khoảng 60 triệu). Nếu hệ thống giáo dục chính quy (giáo dục trong nhà trường) có cả một hệ
thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh, một bộ máy tổ chức điều hành, quản lý chặt chẽ từ trung ương
đến địa phương, có đội ngũ hơn một triệu giáo viên được đào tạo qua trường lớp chính quy và
với chương trình sách giáo khoa được biên soạn và quản lý ở cấp quốc gia và được Nhà nước cấp
ngân sách thì hệ thống giáo dục không chính quy (giáo dục tiếp tục) với nhiệm vụ tổ chức giáo
dục cho gần 60 triệu người lớn trong cả nước nhất thiết cũng phải có các điều kiện cần và đủ mới
vận hành có hiệu quả. Và, việc xây dựng XHHT, môi trường học tập thuận lợi cho mọi người mới
thành công.
Hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục có đối tượng, mục tiêu, phương pháp
dạy - học, tài liệu dạy - học, hình thức dạy - học riêng và cung cấp cho xã hội các sản phẩm giáo
dục hướng theo các yêu cầu khác nhau. Vì vậy, cần tiến hành nghiên cứu các cơ sở lý luận, nhất
là lý luận về giáo dục học người lớn, tâm lý học lứa tuổi, cũng như những kinh nghiệm làm
chương trình, tài liệu học tập, cách thức đánh giá chất lượng học tập, v.v... ở trong và ngoài
nước để làm căn cứ khoa học cho việc tổ chức và triển khai các mảng công việc trong quá trình
xây dựng XHHT.
Phác thảo cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT
Hệ thống giáo dục quốc dân trong xã hội học tập gồm hai tiểu hệ thống: Hệ thống giáo dục ban
đầu được tổ chức theo các cấp học, bậc học, từ thấp lên cao: Nhà trẻ - mẫu giáo, mầm non, tiểu
học, THCS, THPT, ÐH-CÐ, sau ÐH và học tập trung, "mặt giáp mặt", học theo niên chế. Hệ thống

này đã có từ lâu, đã vận hành hơn một thế kỷ nay mang tính khép kín, khoa cử, cứng nhắc,
thiếu tính liên thông, ít gắn với nhu cầu xã hội, cần phải thay đổi nhiều về tổ chức, quản lý nội
dung, chương trình, tài liệu học tập, đặc biệt là phương pháp dạy và học để thích ứng hệ thống
giáo dục trong XHHT, bên cạnh hệ thống giáo dục tiếp tục.
Hệ thống giáo dục tiếp tục có mô hình tổ chức linh hoạt, mềm dẻo; chương trình, nội dung dạy -
học theo nhu cầu của người học, lấy tự học, học từ xa làm hình thức học tập chủ đạo; việc dạy -
học được tiến hành trong các cơ sở giáo dục tổ chức theo các mục đích, yêu cầu của người học
gồm các lớp xóa mù chữ, trường hay lớp bổ túc văn hóa, khoa hay lớp tại chức, trung tâm giáo
dục thường xuyên trường hay TT dạy nghề, trung tâm học tập cộng đồng, lớp học gia đình, lớp
học dòng họ...
Trên đây là một vài suy nghĩ bước đầu về vấn đề xây dựng XHHT, một vấn đề quá mới và quá
khó. Chúng tôi mong bạn đọc tham gia trao đổi ý kiến về vấn đề này để dần đi đến một quan
niệm chung, cùng góp sức xây dựng mô hình XHHT ở nước ta.
(Có thể hình dung mô hình hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT theo sơ đồ dưới đây).
NGUYỄN MẠNH CẦM
Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam
Xay dung xa hoi hoc tap la tam nguyen cua vbac
Xây dựng xã hội học tập chính là thực hiện ý nguyện của Bác
(Dân trí) - Có rất nhiều bài học về tấm gương đạo đức Bác Hồ mà chúng ta cần
phải học tập, trong đó có tấm gương về học tập suốt đời đã hình thành "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về học tập suốt đời".
Học mọi lúc, mọi nơi
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống hiếu học, Bác Hồ đã được học
hành từ thuở niên thiếu ở quê hương và sau đó là những năm tháng theo gia đình vào kinh
đô Huế. Năm 1911, Bác trở thành thầy giáo Nguyễn Tất Thành daỵ học ở trường Dục
Thanh, Phan Thiết, lúc hai mươi mốt tuổi. Trong những năm tháng ra đi tìm đường cứu
nước, Bác Hồ đã học ở nhiều trường đại học cuộc đời. Bác đã học ở nhiều nơi trên thế
giới từ châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á, học ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là học nghiên
cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, học ngoại ngữ, học cách viết báo, làm báo.
Bác đã học ở mọi nơi, mọi lúc. Học trong hầm tàu thuỷ viễn dương, học khi làm phụ bếp,

học trong nhà tù của đế quốc, học ở thư viện, học ở giảng đường... trong suốt ba mươi
năm xa Tổ quốc. Trong điều kiện không có sự đùm bọc chăm sóc của gia đình, không có
học bổng, không có cơ quan, tổ chức tài trợ, luôn bị đế quốc săn lùng, ám hại, song Bác
vẫn học được và tìm ra được con đường cứu nước, con đường làm cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai sắc lệnh về sự học được ký cùng ngày
Bác Hồ đã học tập suốt đời nên càng thấm thía cảnh lầm than, thất học của nhân dân các
dân tộc thuộc địa. Khi còn hoạt động ở hải ngoại, năm 1919 Bác đã gửi đến Hội nghị
Versailles bản yêu sách gồm tám điểm, trong đó điểm thứ sáu là: "Tự học tập và mở các
trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh".
Khi trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Bác chỉ có ham muốn và ham muốn tột bậc là
nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Điều mong muốn của Bác đã được thể hiện ở
những chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước ta, trong các lời dạy của Người.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã coi việc diệt giặc dốt quan trọng
và cấp bách như diệt giặc đói, giặc ngoại xâm. Bác đã nhận ra trên 90% số dân ta mù chữ,
thất học, đó là một quốc nạn. Bác còn cảnh báo: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Bác động viên khích lệ đồng bào: "Đi học là yêu nước". Ngày 8/9/1945 Hồ Chủ tịch đã
ký hai sắc lệnh về thanh toán nạn mù chữ và thành lập Nha Bình dân học vụ. Đây là sắc
lệnh đầu tiên về giáo dục của Nhà nước non trẻ vừa giành được độc lập.
Mối quan hệ kinh tế - giáo dục
Tiếp đó ngày 15/11/1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định mở lại Trường Đại học
Đông Dương và đổi tên thành Trường Đại học Quốc gia Việt Nam, giảng dạy hoàn toàn
bằng tiếng Việt. Bác Hồ đã đến dự lễ khai giảng đại học đầu tiên của nước Việt Nam độc
lập. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà năm 1945 của Bác có đoạn viết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em".
Và sau này Bác lại nêu lên một triết lý sâu sắc thông qua một sự việc cụ thể, đơn giản, dễ
nhớ là: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng

người". Bác nêu ra nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành"; Bác coi việc phát triển kinh
tế và phát triển giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau: Không có kinh tế thì không có
giáo dục, nhưng không có giáo dục thì cũng không có kinh tế.
Học tập suốt đời là làm theo tấm gương của Bác
Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời đã bắt gặp xu thế của thời đại khi trên thế giới
giáo dục và đào tạo đã trở thành yếu tốt quyết định tương lai của mỗi dân tộc, của mỗi
quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá. Trong thời đại ngày nay Đảng ta cũng đã khẳng
định: "Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu".
Đại hội Đảng lần thứ IX, X đã khẳng định mục tiêu: "Xây dựng cả nước trở thành một xã
hội học tập" nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế của đất nước. Xuất phát từ các nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh về học tập suốt đười, Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 50 - CT/TW ngày 24/8/1999 và
chỉ thị số 11- CT/TW ngày 13/4/2007 về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập và các chỉ thị, nghị quyết về công tác giáo dục, để thực hiện việc xây dựng xã
hội học tập ở Việt Nam.
Chúng ta đã và đang phấn đấu để đưa nghị quyết của Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
học tập suốt đời vào cuộc sống, nhằm xây dựng thành công xã hội học tập. Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, mỗi người dù ở cương vị nào, ngành nghề gì
cũng cần phải học thường xuyên, học suốt đời, học để biết, để làm việc, để làm người, để
chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội
học tập.
Đặng Văn Cao
(Hội Khuyến học tỉnh Thái Bình)
Xay dung xa hoi hoc tap den nam 2010
Xây dựng xã hội học tập từ nay đến năm 2010
(HCM CityWeb) - Xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người được học
tập thường xuyên, liên tục và huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục. Phó Chủ tịch
Thường trực UBND.TPHCM Nguyễn Thành Tài đã chỉ đạo như trên tại cuộc họp Ban chỉ đạo xây
dựng xã hội học tập TP.
UBND.TP chủ trương thành lập các Trung tâm học tập ở các xã huyện ngoại thành, phường ở

vùng ven; các phường trong nội thành cần tham khảo mô hình tổ chức Trung tâm học tập cộng
đồng ở quận Tân Bình và 12 để xây dựng mô hình phù hợp.
Việc thành lập Trung tâm học tập cộng đồng phải có kế hoạch, nội dung, chương trình hoạt động
cụ thể; phường cần phối hợp tổ chức và tạo mọi điều kiện cho mọi người, mọi giới tham gia tích
cực việc học; phổ biến kịp thời các thông tin liên quan đến phát triển nghề nghiệp và kinh nghiệm
sản xuất. Trung tâm giáo dục cộng đồng phường - xã không nhất thiết phải có trụ sở riêng, nên sử
dụng có hiệu quả các cơ sở giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao tại địa phương cho hoạt động của
Trung tâm.
Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006 - 2010 của TP cần đánh giá thực trạng học tập của
người dân TP; so sánh kết quả thực hiện với các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đề án xây dựng xã hội
học tập của Chính phủ để xây dựng các chỉ tiêu phù hợp. Đề án cần xác định rõ lộ trình thực hiện
trong giai đoạn 2007 - 2010; trong đó chú trọng xây dựng giải pháp về tổ chức bộ máy, cơ chế vận
hành, nội dung hoạt động và nhân rộng các mô hình thích hợp đã triển khai.
Giám đốc các sở - ngành, Thủ trưởng các cơ quan đơn vị, Chủ tịch UBND quận - huyện, phường -
xã, thị trấn phải đề ra kế hoạch học tập nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công chức, có
kế hoạch triển khai chương trình xây dựng xã hội học tập tại địa phương từ nay đến cuối năm
2010
De xay dung mot xa hoi hoc tap
Để xây dựng một xã hội học tập

03:51' PM -
Thứ ba,
18/11/2003
Mới đây, Hội Khuyến học Việt Nam cùng với Bộ Giáo dục – Đào tạo và một
số ngành liên quan đã có đề nghị lên Chính phủ về việc triển khai cuộc vận
động "Toàn dân xây dựng cả nước trở thành một XHHT". Sau khi đã xem xét,
ngày 27/10/2003, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã có ý kiến chỉ đạo
về đề án "Xây dựng XHHT ở Việt Nam". Theo đó Thủ tướng nhấn mạnh: Việc
xây dựng XHHT là hết sức cần thiết. Bộ GD-ĐT chủ trì cùng Hội Khuyến học
và các bộ, ngành có liên quan xây dựng đề án về xây dựng XHHT trình Chính

phủ trước ngày 30/12/2003.
Để rộng đường dư luận, góp phần vào sự nghiệp lớn lao và cao quí này, Diễn
đàn Hànội mới Điện tử mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc
gần xa, các nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo và tất cả những ai quan tâm đến
cuộc vận động “Toàn dân xây dựng cả nước trở thành một XHHT”.
Mở đầu, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Tất Dong,
Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Khoa giáo
Trung ương.

Để mỗi người là một chủ thể sáng tạo trong một xã hội văn hóa và văn
minh.
GS. TS Phạm Tất Dong.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm thay đổi căn bản kỹ
thuật và công nghệ sản xuất, giúp cho loài người tạo ra một lượng của cải vật
chất công nghiệp từ năm 1970 trở lại đây bằng lượng của cải công nghiệp đạt
được trong suốt 270 năm trước đó. Chính cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ này đã tạo ra những điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đồng thời
nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy kinh tế và tư duy kỹ thuật của thời đại.

Để sống với thế giới hiện đại, sánh vai với các nước phát triển, các quốc gia
đều phải xây dựng cho mình một kho tàng trí tuệ đồ sộ và phong phú, phải có
được nguồn nhân lưc chất lượng cao, có đủ năng lực nội sinh về khoa học và
công nghệ, phải có đội ngũ lao động tri thức thích ứng cao độ với thế giới
công nghệ hiện đại. Muốn vậy, mỗi con người trong xã hội phải lấy sự học hỏi
làm lẽ sống của mình. XHHT hình thành từ những lý do đó. Trong XHHT,
mỗi con người đều phải được giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập
suốt đời. Khẩu hiệu “Đào tạo một lần cho một đời người” được thay đổi bằng
khẩu hiệu “Đào tạo liên tục trong suốt đời người”.

Trong XHHT, mỗi người đều có nhiều cơ hội học tập: Học tập ở nhà trường,

học tập trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa. Do đó, hệ thống giáo dục
không chỉ bó hẹp trong các loại hình nhà trường, mà còn trong các hình thức
học ngoài nhà trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của
các ngành học, hình thức học, về những kênh liên thông giữa các loại hình
khác nhau.

Có thể nói, XHHT là một hiện tượng có tính qui luật của sự phát triển, là vấn
đề chung của thời đại. Song mỗi nước lại có chiến lược xây dựng XHHT của
riêng mình. Ở nước ta, theo quan điểm của tôi, khi xây dựng XHHT phải chú ý
đến mấy điểm sau:

Giai đoạn phát triển đầu tiên của XHHT phải gắn liền với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã
hội. Phát triển học tập là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Để làm được điều đó thì phải dựa vào khoa học và công nghệ, dựa vào một
nền sản xuất bền vững.

Bảo đảm sự tăng trưởng nhất thời đã là một việc khó, còn phải đảm bảo tăng
trưởng bền vững lại càng khó hơn. Đối với bài toán tăng trưởng, dữ kiện quan
trọng nhất là trí tuệ của dân tọc. Không ít quốc gia chủ trương khai thác triệt
để môi sinh tăng trưởng. Tất nhiên tăng trưởng kinh tế chưa hẳn đã mang lại
sự phát triển xã hội, bởi thu nhập tăng nhưng xã hội thiếu công bằng, thiếu dân
chủ, văn minh... thì chỉ là xã hội lạc hậu. Mà xã hội phát triển phải là xã hội
có nhiều khả năng lựa chọn đối đối với người dân trong đời sống hàng ngày
của họ. Chúng ta cũng cần phải hiểu cho đúng khái niệm giảm nghèo, trên cả 3
phương diện: giảm nghèo về tri thức, giảm nghèo về sức khỏe và giảm nghèo
về cơ sở vật chất.

Giai đoạn thứ hai của việc xây dựng XHHT là phát triển kinh tế tri thức dựa
trên trên nguồn nhân lực chất lượng cao, trên cơ sở đầu tư vào một số vấn đề:

Nhanh chóng phát triển hệ thống giáo dục sau trung học trong cộng đồng để trí
thức hóa công, nông, tạo đội ngũ lao động tri thức. Đại chúng hóa giáo dục sau
trung học phải được coi là một hướng phát triển giáo dục quan trọng; tăng đầu
tư cho giáo dục để tăng tư bản con người (vốn con người). Muốn làm được
điều này thì ngay từ bây giờ phải đổi mới tư duy giáo dục, xóa quan niệm chi
phí cho giáo dục là chi phí tiêu dùng, thay vào đó là quan niệm về chi phí cho
giáo dục mang tính sản xuất.

Tư bản con người là tổng hợp các khả năng của người lao động và đồng thời là
các khoản chí phí của Nhà nước, của doanh nghiệp và của mỗi người cho việc
hình thành và thường xuyên hoàn thiện những khả năng đó; phải có đội ngũ
nhân tài đông đảo về các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học, công nghệ,
quân sự, quản lý kinh tế và quản lý xã hội, có đủ năng lực sáng tạo ra những
công nghệ mới, làm chủ những công nghệ cao, bình đẳng với các quốc gia
trong vấn đề trao đổi, chuyển giao công nghệ, phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm động lực cho sự phát triển xã hội học tập, xây
dựng con người Việt Nam hiện đại; thực hiện nền giáo dục 100% dân cư với
yêu cầu phát triển hết mọi năng lực sẵn có trong mỗi con người như Chủ tịch
Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Đó là nền giáo dục phát triển mạnh mẽ các
tính con người, phát huy năng lực con người, làm cho mỗi người là một chủ
thể sáng tạo trong một xã hội văn hóa và văn minh.
Tóm lại, để xây dựng và hình thành được một XHHT, phải tập trung thực hiện
4 thay đổi lớn:
Thứ nhất: Phải chuyển từ nhà trường dạy kiến thức sang dạy tri thức. Tạo
điều kiện để học sinh chuyển từ học để hiểu được sang học để làm được, biến
kiến thức thành tri thức của mình. Thay đổi tình trạng học sinh, sinh viên nước
ta hiện nay vẫn thiên về lý thuyết mà kém khả năng thực hành.

Thứ hai: Chuyển từ nền giáo dục chính quy, chỉ chú ý đến việc học của trẻ em
mà coi nhẹ việc học tập của người lớn sang nền giáo dục chăm lo việc học tập

cho mọi người thuộc mọi lứa tuổi. Nền giáo dục đó bao gồm: hệ thống giáo
dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Nhà nước phải tạo điều kiện
cho người dân được đăng ký học phi chính quy, học tập ngoài nhà trường, học
bất cứ cái gì mà người dân cần.

Thứ ba: Chuyển từ nền giáo dục thuần túy chạy theo văn bằng như hiện nay
sang nền giáo dục coi trọng việc hình thành và phát triển nhân cách, không
chạy theo bằng cấp. Nếu không người học chỉ cần đạt đến mục tiêu có bằng
cấp là thôi, không còn động lực học tập để có tri thức, để làm việc.

Thứ tư: Chuyển từ khẩu hiệu "Giáo dục cho mọi người" sang khẩu hiệu "Cả
nước là một xã hội học tập". Nghĩa là chuyển từ cơ chế chỉ có nhà nước phải
có trách nhiệm tạo điều kiện học tập cho người dân sang cơ chế mọi người dân
đều phải có trách nhiệm học tập, học tập để khỏi bị thất nghiệp, bị xã hội đào
thải, để không bị lạc hậu và theo kịp các bước tiến của khoa học và công nghệ
Kiến tạo một xã hội học tập ở Việt Nam - những hạn chế
từ lịch sử
Trần Ngọc Vương
Tạp chí Tia Sáng

07:02' PM -
Chủ nhật,
20/08/2006
Nền kinh tế tri thức ở quy mô toàn xã hội tự nhiên đòi hỏi mọi thành viên của
xã hội ấy đồng thời là những người năng sản bằng trí tuệ. Kiến tạo một xã hội
học tập, không nghi ngờ gì nữa, là một con đường tất yếu mà Việt Nam phải
khẩn trương hướng tới. Bài viết này xuất phát từ một góc nhìn cụ thể, là góc
nhìn về logic - lịch sử sự vận động của đối tượng, lại chỉ muốn đề cập chủ yếu
tới những hạn chế, những khía cạnh không thuận, nói khác, những khó khăn
trong việc xây dựng một xã hội như thế, ở ta.

1. Giới tri thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam – những đặc điểm có thể
thành chướng ngại cho việc xây dựng một xã hội học tập.
Những người được coi là thuộc giới tri thức sớm nhất ở Việt Nam mà tên tuổi
còn lưu lại, còn có thể khảo chứng được đa số lại là người Hán hoặc gốc Hán.
Lý do thật đơn giản: cho đến nay một khi chưa có bằng chứng đầy đủ để
khẳng định một thứ văn tự trước Hán và khác Hán từng tồn tại trong quá khứ ở
Việt Nam thì đội ngũ những người dùng chữ viết sớm nhất là những người
dùng chữ Hán (sử dụng "công cụ lao động" là chữ viết tuy không phải là tiêu
chí duy nhất, nhưng chắc chắn là tiêu chí quan trọng nhất để xác định thành
phần cho người tri thức. Có thể có những trường hợp đặc thù, ít hay thậm chí
không dùng đến chữ viết để "hành” vẫn có thể là tri thức, nhưng đó chỉ là cái
cá biệt làm sáng tỏ hơn quy luật). Nếu bắt đầu sự khảo sát của chúng ta về lịch
sử tầng lớp trí thức Việt Nam từ sau khi Ngô Quyền giành lại độc lập, thì giới
trí thức đầu tiên góp mặt đông đảo nhất đến từ đội ngũ các võ tướng và các
nhà sư, rồi dàn nhà nho có số lượng áp đảo. (Tuy đã thuộc về một thời đại lịch
sử xa xôi, giai đoạn Lý - Trần rất đáng được nghiền ngẫm trở lại bởi theo cảm
nhận của tôi, đó là một giai đoạn còn tiềm tàng nhiều bài học cho cả thời nay).
Như đã rõ, trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình tri
thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là
nhà nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm
chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt tổng thể, nền văn hóa Việt
Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý
đến "đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay" là sự phát triển
bỏ qua (hay ít nhất cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất
một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế xã hội
TBCN, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học rằng Vệt Nam đi từ Nho giáo
lên chủ nghĩa cộng sản. Trước khi có nền học vấn Âu hoá của thời hiện đại và
cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền
học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước của lịch sử một cách mạnh mẽ,
khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. Cái chết đang túm lấy cái sống. Sự "túm

lấy" này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng nhũng tác động
tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.
Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ ttrí thức nhà nho ở Việt Nam đã dần dần
thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền
học vấn kiểu nhà nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa.
Nhưng khác với giới trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà nho Trung
Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà nho Việt Nam thực sự có thực sự độc
lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có
thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá tinh
thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình. Lý luận Nho giáo không
được khái quát lên từ thực tế Việt Nam mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể
vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, do
quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí quá dài.
Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng phật giáo ở Việt Nam thật thịnh
trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng
tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh
danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên
trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.
Nhìn vào nhũng sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cầu trúc đồng đại
hóa, sẽ thấy trong đội ngũ tri thức nhà nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm
trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần
Văn Giàu, Trần Định Hươu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt
áy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những
người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có nhũng thế kỷ hầu như
không thể tìm thấy được. Điều đáng cảm thán không chỉ là "ôi thương sao
những thế kỷ vắng anh hùng" như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “ôi
thương sao những thế kỷ vắng thiên tài"! Nhận xét tương đối tỉ mỉ hơn cả về
điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu.
a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm,
tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Nhũng người mà ta phải tính là các nhà tư

tưởng như Nguyên Trãi, Nguyên Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... đều là như vậy.
Loại hình chính là những nhà hoạt động Nhà nước, những người làm văn học,
học thuật (chủ yếu là sử học) và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay
nghệ thuật của mình mà đề cập những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi
giảng kinh, sử cũng bàn những vần đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông
thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không
sửa chữa chút ít.
b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tác động tương hỗ giữa khoa học kỹ
thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển
theo sự phát triển của khoa học... Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt
từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống...
Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Nhũng vấn đề nhận thức, logic,
phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn
nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở
trong nhiều phạm vi là một cái lý - lẽ phải thông thường. Triết học không tách
khỏi tôn giáo, học thuật. Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi
đến nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa,
học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa chưa gây ra tác động
sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng.
Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rút cuộc ở lớp trên cùng chỉ để ra
được nhà nho - ông quan (đường quan hay học quan, vũ quan có học hay văn
quan, kể cả loại "văn võ kiêm bị" đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan).
Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng
lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học ( hay tác giả) , nhà nghệ
sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng - nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mờ nhạt,
loại thì hoàn toàn vắng bóng học giả lừng danh nhất trong lịch sử việt Nam
trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng
kính trọng cũng không thể gắn cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay
nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, có lẽ

danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện
đại là nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải
nói lên điều này.
Bộ phận hiền nho - các nhà nho hữu danh và thành đạt cũng hầu như không có
ai đủ can đảm để chỉ "đi đến cùng một con đường đã chọn”, có lẽ trừ Hải
Thượng Lãn ông. Ngay Hải Thượng Lãn ông cũng chọn con đường trở thành
một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác.
Nói tổng quát, màu tri thức nhà nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và
không trở nên đội ngũ chuyên gia thực thụ, hầu như bất cứ bình diện nào của
lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có
thành tựu nổi bạt, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử
văn học dân tộc là Nguyễn Du cũng không trở thành nhà thơ "chuyên nghiệp".
Một khi hoạt động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn
hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ
thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công,
nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với
hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm
thuần túy mang tính thương mại. "Công tượng", gọi nôm na là thợ, xếp loại ba,
sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ,
tức thương nhân, tầng lớp dưới đáy, bị gọi là miệt thị là loại “con buôn”, ý coi
ngang ngang như các loại người bị coi là con... gì gì khác. Việc cất giữ các bí
mật nghề nghiệp thành tâm lý phổ biến không đơn thuần chỉ để giữ gìn
phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm
trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về hững phẩm
tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.
Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn
bi đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh
nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại,
với tính nhược tiểu thể hiện khá "hoàn hào", giới trí thức Việt Nam khi trở
thành "tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vầy

vò, ép ướp, hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc
nô có chủ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vố số bằng chứng cả trực tiếp, cả gián tiếp
chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách tri thức thuộc địa này của thực
dân Pháp.
Từ sau cách mạng tháng tám, thân phận con người, thân phận công dân của
người tri thức được đổi thay về chất. Đại đa số những tri thức trong xã hội cũ
vì thế hăng hái tham gai bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội
mới. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn
khách quan, một thế hệ tri thức mới đã xã hội, trưởng thành trong thời chống
Pháp. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng đặc biệt có
chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và
nghệ thuật thời gian qua của ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này.
Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920 - 1932. Không phải
ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này, cho đến khi cách mạng tháng Tám nổ ra,
hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một "lưng vốn" tri
thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và
tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành
danh trước cách mạng, mà những người sinh sau 1932 thì “không kịp” có điều
kiện như vừ tính tới.
Nhưng cũng từ sau cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30
năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi những hoàn cảnh thời
chiến. Trừ một hai lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện
dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó
khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực
tiếp tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hàng đầu đối với lao động
của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo tri
thức, những tên tuổi lớn theo líii hàng loạt trong điều kiện như vậy.
Mặt khác, kề từ sau cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam
nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước XHCN có nền khoa học
tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng rồi

giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Tiếp theo đó là đại
cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu
là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng
của biến cố này. Trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 - 1970 nhiều
nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, mặc dù thế
một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc,
kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí
Minh hay giải thưởng Nhà nước.
Có thể nói cho đến nay, ở ta mới có những người trí thức lớn - không đông
lắm mà nói thực thì cũng chưa được "lớn" lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có
giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào tri thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm
na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến "tầm" trí tuệ Việt Nam, tuy đó là
điều kiện không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.
2. Từ chuyện người có học đến chuyện kiến tạo một xã hội học tập
Việc kiến tạo một xã hội học tập trong đó mọi thành viên đều được học tập lại
là điệu tuyệt đối không dễ dàng. Bên cạnh đòi hỏi về một nguồn ngân sách
Nhà nước khổng lồ, một nguồn tài chính từ trong nhân dân hừng hậu, còn cần
tạo ra được một cương lĩnh, một chương trình giáo dục vừa phải ưu việt vừa
phải mang tính khả thi. Một xã hội học tập lại cũng là một xã hội đòi hỏi một
đội ngũ cực đông đảo những người giáo dục và quản lý giáo dục có chất
lượng, dù yêu cầu tự học có tăng lên đến mức tối đa chăng nữa.
Một hệ vấn đề tưởng như đã cũ nhưng do việc tìm lời giải đáp cho đến nay còn
mơ hồ nên hóa ra lại thành hệ vấn đề thời sự đó là đáp án đúng cho những câu
hỏi nền tảng: ai là người cần học, học cái gì, học ở đâu, học đến đâu, học để
làm gì? Điều lạ lùng là, theo tôi, đối với tất cả các câu hỏi này, tìm từ trong
lịch sử, đều chỉ thu về được những lời đáp đáng thất vọng trên thực tế.
Trong những phẩm chất mà nhiều người muốn đề lên thành phẩm chất dân tộc,
liên quan đến chuyện học hành, có đức tính hiếu học, và vì thế, truyền thống
tôn sư trọng đạo. Thật đáng ngạc nhiên, người ta có thể gán một phẩm chất
cho một chủ thể không có khả năng thực tế để thực hiện phẩm chất đó. Ít nhất,

từ cách mạng tháng 8 trở về trước, căn cứ vào các con số điều tra và thống kê,
tuy có sai khác, nhưng dao động trong khoảng từ 95% - 99% người Việt Nam
mù chữ. Một cộng đồng với tuyệt đại đa số người không được học, không đi
học, không biết chữ, làm sao xác định rằng cộng đồng đó hiếu học hay không?
Tôi nêu lại vấn đề này không phải vì hiểu sự hay thích gây sự, mà nhằm tìm
kiếm câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên đã nêu ở trên: ai cần học?
Nhu cầu học tập là một loại nhu cầu thứ sinh, không phải là nhu cầu mang tính
tự nhiên như những nhu cầu mà Marx đã đề cập ở con người trước khi nó xây
dựng nên những cộng đồng xã hội như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái…
Loại nhu cầu có tính tự giác, duy lý mang tính định hướng mục tiêu này chỉ
được thỏa mãn thật sự khi mục tiêu thật sự rõ ràng.
Như đã rõ, tuy nói rằng nhà nho từng tự đòi hỏi phải tinh thông "lục nghệ" (lễ,
nhạc, xạ, ngự, thư, số), và với những người được ca ngợi là thông minh cái
thế, thì "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng nền giáo dục Nho giáo,
căn cứ vào việc khảo sát các loại đề thi ở cấp cao nhất là Đình thí hay Điện thí,
yêu cầu chủ yếu đối với người đỗ Tiến sĩ (kể cả đệ nhất giáp, tức đỗ đến Trạng
nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), cũng chỉ tập trung vào 2 nội dung chủ yếu:
văn chương và đạo lý. Nho giáo khởi đầu là một học thuyết đạo đức và cốt lõi
của nó cho đến cùng vẫn là những nội dung đạo đức, nên giáo dục mà nó triển
khai trong hàng vài nghìn năm bi trói buộc chặt chẽ vào những yêu cầu hiểu và
thực hành trước hết là những nội dung đạo đức. Quanh quẩn với những "tu, tề
trị, bình", với những "hành, tàng, xuất, xử", cả hai nội dung lớn mà một nền
giáo dục lành mạnh bất kỳ nào cũng phải hướng tới là tri thức và kỹ năng lại
đã chỉ được nền giáo dục Nho giáo đáp ứng một cách cực tiểu, tối thiểu. Đói
diện với chủ nghĩa thực dân, dù vững tin vào đạo lý, vào chính nghĩa của
mình, nhà Nho đã phải nhanh chóng cay đắng thừa nhận “gươm nhân giáo
nghĩa” không trụ nổi với “giáp bền gươm sắc", càng không thể đương đầu có
hiệu quả với "tàu thiếc tàu đồng, ngư lôi đại bác". Sự tỉnh thức của chính các
nhà nho Duy tân đầu thế kỷ XX là một tình huống thời sự kéo dài, cho đến nay
lại càng thêm cấp bách.

Những tri thức, kỹ năng toàn diện và ở trình độ cao, có được là nhờ nhũng nỗ
lực cá nhân to lớn và những chi phí còn to lớn hơn, lại là điều quá xa xỉ trong
một xa hội nông nghiệp sản xuất nhỏ. Không hình thành nổi nhu cầu học tập
mạnh mẽ và đích thực một khi không/ hay chưa có chỗ ứng dụng những tri
thức và kỹ năng học tập được ấy. Chưa bao giờ giáo dục ở ta được hạch toán
như là đầu vào (imput) của một chu trình liên tục trong nền kinh tế quốc dân,
như là một tham số hữu cơ của nền kinh tế mà chỉ mới được quan niệm như là
một vấn đề thuộc phúc lợi xã hội. Những năm gần đây, khi vỡ lẽ ra (chẳng lẽ
mãi mà không vỡ lẽ ra cái điều tối thiểu ấy?) rằng giáo dục là động lực để cải
tạo nền kinh tế, các quyết sách về giáo dục văn chỉ mới chuyển động ở cầp vi
mô: không ai giải thích với chúng ta, từ ông Bộ truởng Bộ Giáo dục, cho đến
câc ông Hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, các Bộ chuyên ngành rằng tại
sao năm nay, thời gian này, từng trường một lại cần và có thể tuyển số lượng
sinh viên là như thế, mà không phải là những con số khác. Các giám đốc Sở
giáo dục không thuyết trình rõtại sao tỉnh này cần đến ngần này loại trường,
ngầnnày loại lớp... Cho đến nay, kể cả ở các truờng Đại học lớn, vốn được
tiếng, hay nói theo ngôn ngữ hành chính là đảm nhiệm chức năng "máy cái",
vẫn có lượng sinh viên tại chức đông hon chính quy, trong khi tỷ lệ mà báo chí
nêu, có đến 70 - 80% sinh viên chính quy tốt nghiệp không có việc hay làm
việc không đúng chuyên môn được đào tạo.
Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng cãc trường Đại học, cần hình thành
cho được hệ thống các trường dạy nghề đa dạng, phong phú, số lượng lớn, vừa
kế thừa và phát huy được những thứ nghề truyền thống, vừa đón bắt nhu cầu
của các loại ngành nghề mới của công nghiệp, dịch vụ hiện đại, khiến cho
tuyệt đại đa số người lao động còn có khả năng lao động hay lớp trẻ khi nhìn
vào tương lai có được sự bình thản khi nghĩ tới chỗ làm, nghĩ tới "đầu ra", phải
chăng một sự tiên lượng về những việc phải làm trong quỹ đạo này, từ trưóc
tới nay, vốn là bất khả và từ giờ trở đi, vẫn cứ là "chưa phải lúc"? Theo ý tôi,
cái xã hội học tập mà ta mong muốn kiến tạo, cần trước hết tập trung vào đối
tượng này.

Nguồn: Tạp chí Tia

×