TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
1. QUAN ĐIỂM MACXIT VỀ TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG.
C.Mác khẳng định con người sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo chứ không phải chỉ sáng tạo
ra biểu tượng của tín ngưỡng tôn giáo. Như các nhà duy vật trước Mác đã thừa nhận, tín
ngưỡng tôn giáo về bản chất là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế
- xã hội, chính trị, văn hoá cụ thể nào đó. Tín ngưỡng tôn giáo thuộc đời sống tinh thần của
xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chính con người đã
thần thánh hoá, khoác cho thần thành những sức mạnh siêu nhiên.
Vì vậy Mác cho rằng, cần phải xuất phát từ con người tỏng hành động hiện thực của họ mà
chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng của quá trình ấy [33, 37-38].
VI.Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nẩy sinh niềm tin tôn
giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm: Nguồn gốc xã hội, nguồn
gốc nhận thức, và nguồn gốc tâm lý.
1.1. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo:
Tôn giáo học Macxit cho rằng sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên
là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Như chúng ta biết, mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên được thực hiện và thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con
người có.
Những phương tiện công cụ kém phát triển bao nhiều thì con người càng yếu đuối bấy
nhiêu trước tự nhiên, và những lực lượng tự nhiên càng thống trị con người bấy nhiêu.
Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan hệ đặc thù của
con người với giới tự nhiên, do trình dodọ sản xuất quy định. Đây chính là nguồn gốc xã
hội của tôn giáo. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo bao hàm cả mối quan hệ con người với
con người, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã
hội và ách áp bức giai cấp cùng chế dodọ người bóc lột người.
Khi nêu lên đặc trưng của nguồn gốc xã hội của tôn giáo trong xã hội tư bản, V.I.Lênin
viết “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì quần chúng nhân dân
không thể đoán trước được nó, là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản,
tiểu chủ cũng đe doạ đem lại cho họ sự phá sản đột ngột bất ngờ, ngẫu nhiên, làm cho họ
phải diệt vong biến họ thành người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào
cảnh chết đói. Đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại mà người duy vật phải chú ý
tới trước hết và trên hết nếu người ấy không muốn là một người duy vật sơ đẳng”.
[19.515-516].
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột người là một
nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Người nô lệ, người nông dân, người vô sản mất
tự do không phải chỉ là sự tác dodọng của lực lượng xã hội mù quáng mà họ không thể
kiểm soát dưdợc, mà họ còn bị bần cùng cả về mặt kinh tế, áp bức về chính trị, bị tước đoạt
những phương tiện và khả năng phát triển tinh thanà. Quần chúng bị áp bức không thể tìm
ra lối thoát hiện thực của ách áp bức trên trái đất, nưhng họ đã tìm ra lối thoát ở trên trời, ở
thế giới bên kia. Tôn giáo, VI.Lênin viết “là một trong những hình thức áp bức về tinh
thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải
suốt đời lao động cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô dodọc. Sự bất
lực của giai cấp bị bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới
bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên
nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu...” [18. 169-170].
1.2. Nguồn gốc nhận thức của sự ra đời tôn giáo:
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận thức và đặc
điểm của quá trình nhận thức dẫn tới hình thành quan niệm tôn giáo.
Tôn giáo chri ra đời khi con người đã đạt tới một trình dodọ nhận thức nhất định. Thần
thành, cái siêu nhiên, thế giới bên kia. Là sản phẩm của những biểu tượng, của sự trừu
tượng hoá, sự khái quát dưới dạng phản ánh hư ảo. Do vậy tôn giáo chỉ ra đời khi đạt trình
dodọ nhận thức nhất định.
Thực chất của nguồn gốc nhận thức tôn giáo cũng như mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt
đối hoá cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người biến nó thành cái không còn nội
dung khách quan, không còn cơ sở thế gian, nghĩa là cái siêu nhiên thần thánh.
1.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Các nhà duy vật thời cổ đại nghiên cứu đưa ra luận điểm truyền thống của các nhà tư
tưởng cổ đại. Đặc biệt ở Phoi-ơ-bắc, đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu nguồn
gốc tâm lý của tôn giáo, theo ông nguồn gốc đó không khỉ bao gồm những tình cảm tiêu
cực mà những tình cảm tích cực. Không chỉ những tình cảm mà còn có cả những mong
muốn ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo.
Nghiên cứu nguồn gốc tâm lý tôn giáo có ý nghĩa thực tiễn to lớn nó cắt nghĩa vì sao trong
dk của chủ nghĩa xã hội, khi những nguồn gốc chủ yếu của tôn giáo đã được khắc phục về
căn bản, thậm chí có nơi có lúc còn phát triển và tôn giáo vẫn đang tồn tại. Nghiên cứu tâm
lý tôn giáo giúp hiểu rõ hơn điều này.
1.2. CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO.
Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nguồn gốc của nó là ở trong
những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội. Trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất
định, sự bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nhu cầu
khắc phục những mâu thuẫn thực tế trong ý thức, trong tưởng tượng nhu cầu đền bù sự hạn
chế của các mối quan hệ hiện thực, quan hệ trần gian, ở thế giới bên kia, thế giới siêu trần
gian vì thế chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù của tôn giáo. Ngoài ra
còn có các chức năng khác.
1.2.1. Chức năng đền bù hư ảo.
Luận điểm nổi tiếng của Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức
năng đền bù hư ảo của tôn giáo giống như thuốc phienẹ, tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài
của sự làm nhẹ, tạm thời nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những mất mát, những thiếu
hụt hiện thực của đời sống con người, đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con
người khi tạo ra cho họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm cho họ
những quan niệm phản khoa học.
Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, tôn giáo cũng có thể là chỗ dựa tinh thanà cho những
ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức, phục vụ cho lợi ích của họ. Nhưng ở đây
nó vẫn không mất chức năng đền bù hư ảo, chức năng thuốc phiện. Vì hạt nhân cơ bản của
tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên luon gây tác động kìm hãm đối với tính tích cực của
quần chúng, chuyển hướng niềm tin và sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo.
Chính vì vậy V.I.Lênin đã nhấn mạnh “Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân - câu nói
của Mác là hòn đá tảng của toàn bộ của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo” [18.511].
Cũng cần nhấn mạnh rằng chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng chủ yếu và đặc
thù mà còn là chức năng phổ biến của tôn giáo, ở đâu có tôn giáo thì ở đó có chức năng
đền bù hư ảo.
Tôn giáo là hiện tượng phức tạp của xã hội, vì vậy nó không chỉ thực hiện một mà thực
hiện một hệ thống các chức năng xã hội. Sự phân tích khoa học đòi hỏi phải nghiên cứu
các chức năng xã hội của tôn giáo trong sự thống nhất và tác động qua lại giữa chúng, bên
cạnh chức năng đền bù hư ảo tôn giáo còn các chức năng khác chức năng thế giới quan,
chức năng điều chỉnh.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người hội tụ tinh hoa của truyền thống dân tộc Việt Nam, một
đất nước hội nhapạ của văn hoá phương Đông, phương Tây và tôn giáo nội sinh. Người
nhận rõ tính đặc thù của tôn giáo Việt Nam, các tôn giáo có lịch sử đoàn kết, tôn trọng
nhau và luôn đồng hành cùng dân tộc trong dựng nưcớ và giữ nước.
1.3.1 Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần trân trọng và triệt
để.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Nhưng chủ
nghĩa Mác - Lênin không phải là cái gì bất biến và khô cứng, phải hiểu nó trên môi trường
thực tiễn ở Việt Nam. Với đặc điểm truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc Á Đông,
Bác đã viết “Mác xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhận định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu âu. Mà Châu âu là gì? Đó chưa phải là toàn bộ nhân
loại... Xem xét lại lịch sử của Mác về cơ sở lịch sử của nó củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các nàh Xô Viết đảm nhiệm”.
Đối với người học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác -
Lênin, học tập lập trường, quan didểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng lập trường quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Kế thừa những thành tựu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đồng tình với
nhận thức về nguồn gốc tôn giáo. Tôn giáo do con người sản sinh ra, con người qua lăng
kính của quá trình hoạt động sống trong xã hội đã dần dần xây dựng lên biểu tượng tôn
giáo. Chính sự kết hợp giữa nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội tạo thành thần bí
của tôn giáo, nhưng nguồn gốc về mặt xã hội thường đóng vai trò quan trọng trực tiếp tới
quá trình vận động phát triển của một dân tộc - một quốc gia và thế giới.
Sự giải quyết tận gốc vấn đề tôn giáo cần xây dựng xã hội mới, con người mới, một xã hội
tiến bộ với con người có đầy đủ tri thức.
Người chỉ rõ “tô ngiáo không hề đối lập với chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề là phải có chính
sách động viên thu hút đồng bào theo tôn giáo hoà nhập cuộc sống ích đạo lợi đời. Nhà
nước chăm lo chu đáo tới nhu cầu của đồng bào theo đạo. “Phần xác no ấm, phần hồn
thong dong”. Phải tổ chức cho đồng bào theo tôn giáo tham gia tích cực hoạt động sản xuất
và công cuộc đấu tranh cải tạo xã hội, sinh hoạt tôn giáo không cản trở tới sản xuất mà
ngược lại động viên nhân dân sản xuất tích cực hơn hiệu quả hơn.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào môi trường lịch sử và văn hoá của Việt Nam.
Hồ Chí Minh là sự kết tinh những tinh hoa tốt đẹp nhất của truyền thống và của bản sắc
dân tộc Việt Nam. Bản tính nhân văn Á Đông - từ cội nguồn đã ăn sâu trong dòng huyết
thống của người.
Hun đúc ý chí quyết tâm cứu dân cứu nước - “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Người
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một tất yếu của lịch sử, cái tinh tuý triết lý phương
Đôgn tiềm tàng trong nội lực của người như được khai mở, hoà kết cùng khoa học duy vật
lịch sử và duy vật biện chứng như một phương tiện vạn năng. Người đưa cách mạng Việt
Nam mở ra chân trời tươi sáng, tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành một phần trên cơ sở nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, ngược lại cũng bổ xung và hoàn thiện học thuyết Mác - Lênin
đối với cách mạng Việt Nam và các nước Châu Á.
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, một nhận thức mới chủ nghĩa Mác - Lênin
về lực lượng cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra lực lượng chính của cách mạng là liên minh giai cấp giữa
công nhân với nông dân. Nhưng với đặc didểm ở các nước phương Đông, xử lý đúng mối
quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Người thấy có sức mạnh
tiềm ẩn cần tôn trọng đúng mực, bởi không phải vô lý mà tôn giáo tồn tại qua hàng ngàn
năm.
Số lượng người theo tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao và có xu hướng gia tăng, đặc biệt tu tại
gia. Tôn giáo phương Đông ăn sâu vào phong tục Việt Nam. Những người theo tôn giáo
Việt Nam có bản tính thật thà, một tâm hồn cao thượng, đạo đức khiêm nhường với một
tinh thần dân tộc tự cường mạnh mẽ. Từ đó Hồ Chí Minh bổ sung cho học thuyết Mác-
Lênin về dân tộc phương Đông, về cách nhìn chức sắc tín đồ tôn giáo là lực lượng quần
chúng cách mạng to lớn. Người đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam với phương
pháp đúng đắn đảm bảo đi đến thắng lợi.
1.3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo phân bổ xung quan trọng cho học
thuyết Mác - Lênin và là phần sáng tạo nhất của người.
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp Macxit, di sản tư tưởng Mác, Ăngghen, Lênin về
vấn đề tôn giáo để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với môi trường
lịch sử - văn hoá và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không chép lại từng câu, từng chữ mà tự tìm ra cách nói cách làm của mình,
với nhiều điểm khác biệt, có khi tưởng chừng như ngược lại với những nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin nhưng ẩn chứa sau sự khác biệt đó là sự thống nhất giữa Mác, Ăngghen,
Lênin, Hồ Chí Minh về phép biện chứng duy vật Macxit.
Để lại cho đời sau những trang sách quý báu là điều có ý nghĩa lớn, nhưng quan trọng nhất,
quyết định nhất là sự thành công chính sách đoàn kết lương, giáo trong chính sách đại đoàn
kết dân tộc mà Hồ Chí Minh là tổng công trình sư, là linh hồn.
Thành công đó chứng tỏ rằng tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng đắn. Sự đúng
đắn đó nó cũng chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác, của phép biện chứng duy
vật Macxit đã được Hồ Chí Minh hiểu và vận dụng một cách độc lập, sáng tạo, chính sách
tôn giáo là một trong những lĩnh vực mà phong cách tư duy độc lập, sáng tạo, dũng cảm
của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất. Tư tưởng đoàn kết luôn bao trùm rộng lớn và
có ý nghĩa quyết định thành công trong cuộc đời sự nghiệp của Người. Đối với tôn giáo
cần có đoàn kết thực lòng và bền vững. Người luôn nhấn mạnh: “Đoàn kết của ta không
những đoàn kết rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài, qua đoàn kết là để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc. Ta phải đoàn kết để xây dựng nước nhà, ai có sức, có đức, có
lòng phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết họ”.
Vượt lên các nàh cách mạng phương Tây, Người nhận thức sâu sắc và toàn diện về ý nghĩa
quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân trong đó có việc đoàn kết các đồng bào các tôn
giáo là nhiệm vụ xuyên suốt của công tác tôn giáo. Sức mạnh đoàn kết là nguyên nhân của
mọi thành công, phải đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, phải đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế.