Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.77 MB, 120 trang )












LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm
Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp











Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người khác vẫn
giữ tín ngưỡng dân gian truyền thống, chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, ở nước ta đã có gần
1/3 dân số cả nước sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Tôn giáo trở thành nhu cầu tinh


thần của một bộ phận nhân dân. Trong tình hình đó, Đảng và Nhà nước xác định phải
tăng cường công tác tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa
kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích căn bản của nhân
dân. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo là vấn đề hết sức
quan trọng, nó phải được sự quan tâm của các ngành, các cấp và cần được tiến hành trên
cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta từng bước hoàn thiện chính sách tôn
giáo, tăng cường quản lý nhà nước đối với tôn giáo bằng pháp luật; hướng cho cán bộ,
đảng viên nhận thức đúng vai trò của các tôn giáo trong đời sống nhân dân; kiên quyết
uốn nắn nhận thức lệch lạc, những khuyết điểm nhằm thực hiện triệt để tinh thần đại
đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi với dân số khoảng một triệu người, nhưng có
tới 60% dân số theo Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài. Ngoài ra, một bộ phận
nhân dân còn theo tín ngưỡng truyền thống. Phần đông tín đồ các tôn giáo có trình độ
dân trí thấp, còn mê tín, thậm chí cuồng tín, nên dễ bị các thế lực tiêu cực kích động, lợi
dụng vào các mục đích chính trị xấu.
Hiện nay, tuy hoạt động của các tôn giáo có xu hướng đồng hành với dân tộc,
mang tính thuần túy tôn giáo, nhưng bên cạnh đó vẫn có tình trạng lúc này hay lúc khác

hoạt động của một số tôn giáo diễn ra không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền,
vi phạm một số quy định của Nhà nước về xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, in ấn, phát
tán kinh sách; lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để khuếch trương thanh thế. Hiện
tượng bói toán, mê tín còn diễn ra tràn lan. Một số chức sắc các tôn giáo ngấm ngầm
chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các dòng tu, hội đoàn và Gia
đình phật tử thông qua các hình thức sinh hoạt phong phú đã thu hút khá đông thanh,
thiếu niên tham gia sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động truyền đạo trái phép của một số tôn
giáo vào vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa ngày càng gia tăng. Việc các thế lực
phản động lợi dụng tôn giáo để kích động quần chúng chống đối chính quyền vẫn lẻ tẻ
diễn ra ở một số nơi.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã tăng cường chỉ đạo quản lý nhà nước đối với tôn
giáo, nên đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối
với tôn giáo còn có nhiều hạn chế: sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu tập trung và
đồng bộ; việc phân định chức năng quản lý của các cấp chính quyền không rõ ràng, còn
đùn đẩy cho nhau. Điều đó vô tình đã tạo ra những sơ hở, thiếu chặt chẽ; giải quyết
không đúng thẩm quyền. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo còn hạn chế. Do đó, một số cơ quan quản
lý nhà nước cũng vi phạm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Trước tình hình đó, việc tìm ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao
hiệu quả quản lý của cơ quan Nhà nước trên địa bàn nhằm vừa đảm bảo nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của quần chúng, vừa đảm bảo cho chính sách tôn giáo
không bị vi phạm, vừa đấu tranh có hiệu quả chống địch lợi dụng tôn giáo là việc làm
cần thiết.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm
Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp" trở thành vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn ở Lâm Đồng hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với tôn giáo nói riêng là một
trong những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Cho nên, từ khi có Nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị, việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương, chính sách tôn giáo ngày
càng được nhiều nhà lý luận - chính trị quan tâm hơn. Từ đó, nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này đã được công bố. Chẳng hạn, "Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo
trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" của Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và
Tôn giáo thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; "Tôn giáo tín
ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết" của Trung tâm Thông tin -
Tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995; "Đổi mới quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam" của Trần Minh
Thư, năm 1999 Song, các công trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập công tác tôn giáo nói

chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
ở Lâm Đồng cũng đã có một số công trình nghiên cứu về tôn giáo và quản lý
nhà nước về tôn giáo. Thí dụ, "Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo tỉnh Lâm Đồng và
công tác tôn giáo trong tình hình mới từ năm 1995 đến năm 2000", năm 1995; "Lịch sử
hình thành phát triển của các tôn giáo ở Lâm Đồng", năm 1997; "Đạo Tin lành trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng" năm 1997 của Ban tôn giáo tỉnh Lâm
Đồng; "Đổi mới những vấn đề cơ bản về công tác tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay", năm
2000 của Trần Mai
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu các tôn giáo trên
địa bàn của tỉnh, từ đó, bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu để quản lý các tôn
giáo đó. Các công trình này chưa đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn
giáo và làm rõ vấn đề đặt ra hiện nay trên lĩnh vực quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở
Lâm Đồng. Do vậy, một số giải pháp được đưa ra còn thiếu sát hợp và đồng bộ. Đề tài
này góp phần hoàn thiện thêm công tác nghiên cứu đó.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng với
tất cả các mặt mạnh và yếu của nó, luận văn góp phần đề xuất một số phương hướng và
giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong
thời gian trước mắt.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những đặc điểm của tôn giáo ở Lâm Đồng.
- Làm rõ những thành tựu và hạn chế trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở
Lâm Đồng trong những năm gần đây, nguyên nhân của chúng.
- Nêu lên một số vấn đề cấp bách đang đặt ra hiện nay có liên quan tới quản lý
nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng trong tình hình mới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đề tài này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu quản lý nhà nước đối với tôn
giáo ở Lâm Đồng hiện nay trên một số phương diện đang trong tình huống có vấn đề
phức tạp nhất.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước đối với
tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm
Đồng thời gian qua.
- Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp lôgic và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng phương pháp của xã hội học
nhằm đạt mục đích và hoàn thành những nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu phát hiện ra được một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý
nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng.
- Đưa ra được một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay.
6. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo và vận dụng vào thực tiễn của Lâm
Đồng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Tôn giáo học

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1

điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của
Lâm Đồng và đặc điểm của tôn giáo trên địa bàn tỉnh
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi ở Nam Tây Nguyên, nằm giữa tọa độ 11 - 13
0

Bắc và 107 - 109
0
kinh Đông, cách bờ biển phía Đông 110 km; phía Đông và Nam giáp
các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; phía Tây và Bắc giáp các tỉnh Đồng Nai,
Bình Phước, Đắc Lắc. Trong số các đơn vị hành chính cấp tỉnh hiện nay, từ đồng bằng
Thanh - Nghệ trở vào đồng bằng sông Cửu Long, Lâm Đồng là tỉnh duy nhất có lãnh
thổ nằm trọn trong miền nội địa của đất nước, không có đường biên giới quốc gia,
không có bờ biển [46, tr. 5].
Vị trí địa lý như vậy đã tạo cho Lâm Đồng có vị trí chiến lược quan trọng: là
điểm nối tiếp giữa Nam Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn bằng đường
quốc lộ 20, đường số 8 và đường xe lửa Đà Lạt - Tháp Chàm. Vì thế, trước đây thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ đã xây dựng Lâm Đồng trong thế chiến lược liên hoàn nhằm bảo
vệ từ xa cơ quan đầu não của chúng ở Sài Gòn, đồng thời, làm bàn đạp để đánh phá
phong trào cách mạng các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên [1, tr. 6].
Tỉnh Lâm Đồng có diện tích tự nhiên là 976.274 ha, chiếm trên 3% diện tích cả
nước, trong đó, đất rừng chiếm 70%. Trữ lượng gỗ các loại trên 30 triệu m
3
, có trên
130.000 ha rừng thông thuần chủng, trên 150.000 ha rừng tre nứa. Đây là vùng nguyên

liệu quan trọng cho ngành công nghiệp địa phương và khu vực. Đất có khả năng làm
nông nghiệp trên 200.000 ha, chủ yếu là đất đỏ bazan và hơn 50.000 ha đất phù sa bồi
tụ, thích hợp cho việc phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, sản xuất lương

thực, thực phẩm và chăn nuôi gia súc [54, tr. 14].
Ngoài tiềm năng để phát triển thủy điện rất đáng kể, Lâm Đồng còn là vùng
giàu tài nguyên khoáng sản (như bô xít, thiếc, cao lanh, than, đá quý, vàng ).
Sự tác động cộng hưởng của bức xạ mặt trời, hoàn lưu khí quyển và vị trí địa lý
cùng địa hình đã hình thành ở Lâm Đồng một kiểu khí hậu đặc biệt: nhiệt đới gió mùa
vùng sơn cao nguyên. Khí hậu ở Lâm Đồng có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình từ 16
0
C đến
23
0
C; lượng mưa từ 1.600 mm đến 3.000 mm/năm [53, tr. 21-22].
Lâm Đồng có hệ thống giao thông tương đối thuận tiện, các quốc lộ 8, 20, 21,
27 nối liền với các tỉnh duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và
Thành phố Hồ Chí Minh. Đường ô tô đã đến trung tâm các huyện và nhiều xã trong
tỉnh. Tuy nhiên, ở một số xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, việc đi lại của
đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong mùa mưa.
Nhờ vị trí địa lý, địa hình, cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và khí hậu ôn hòa, dịu
mát quanh năm mà Lâm Đồng - Đà Lạt đã sớm trở thành một trung tâm du lịch, nghỉ
dưỡng của cả nước và quốc tế. Bên cạnh đó, Lâm Đồng còn có tầm quan trọng cả về
chính trị, kinh tế và an ninh - quốc phòng.
Để hình thành địa giới hành chính của một tỉnh như hiện nay, Lâm Đồng đã trải
qua một quá trình lịch sử đầy biến động, nhiều thay đổi, tách, nhập ở từng thời kỳ khác
nhau.Trước năm 1899, vùng đất Lâm Đồng ngày nay thuộc hai tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận. Ngày 1-1-1899, Toàn quyền Paul Doumer ký quyết định thành lập tỉnh Đồng

Nai Thượng và hai trạm hành chính: Tánh Linh, cao nguyên Lang Bian. Năm 1905, tỉnh
Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ, vùng đất này lại trực thuộc tỉnh Bình Thuận.
Ngày 6-1- 1916 Toàn quyền E. Roume ký quyết định thành lập tỉnh Lang Bian.
Ngày 24- 4-1916, Hội đồng nhiếp chính vua Duy Tân ra dụ thành lập tại vùng Lang

Bian trung tâm đô thị Đà Lạt.
Năm 1920, tỉnh Đồng Nai Thượng lại được tái lập gồm ba quận: Djiring (Di
Linh), Blao, Dran. Tỉnh lỵ đóng tại Djiring. Thị xã Đà Lạt, nơi nghỉ mát của người
Pháp, được thành lập. Cũng trong năm đó, Bảo Đại lập khu tự trị Lâm Viên (bao gồm cả
Đà Lạt).
Năm 1941, tỉnh Lâm Viên được thành lập, Đà Lạt được chọn làm tỉnh lỵ. Ngày
23-8-1945, nhân dân Lâm Viên khởi nghĩa giành chính quyền. ủy ban nhân dân cách
mạng lâm thời và ủy ban Việt Minh tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng được
thành lập. Để thống nhất sự chỉ đạo đối với các tỉnh cực Nam Trung Bộ, theo đề nghị
của ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ, ngày 22-2-1951, Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị định số 73-TTg hợp nhất hai tỉnh Lâm Viên
và Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng [46, tr. 25].
Năm 1958, Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh Lâm Đồng (gồm quận Di Linh, Blao)
và tỉnh Tuyên Đức (gồm thị xã Đà Lạt và ba quận: Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc
Dương). Năm 1966, Đà Lạt được tách khỏi tỉnh Tuyên Đức, trực thuộc chính quyền
Trung ương.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/
TW ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ-
TW ngày 20-12-1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh, hợp nhất một số tỉnh ở miền
Nam; tháng 12-1976, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị

định về việc giải thể khu hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo Nghị định này, ở
miền Nam có 21 đơn vị hành chính, trong đó Lâm Đồng và Tuyên Đức hợp nhất lại và
lấy tên là tỉnh Lâm Đồng [44, tr. 143].
Hiện nay, tỉnh Lâm Đồng chia thành 11 đơn vị hành chính gồm các huyện Đức
Trọng, Di Linh, Lâm Hà, Lạc Dương, Đạ Hoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Bảo Lâm, Đơn
Dương, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Thành phố Đà Lạt - tỉnh lỵ Lâm Đồng là
thành phố du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng của Việt Nam và là trung tâm chính trị, văn hóa
của tỉnh.
Về dân số, theo điều tra đầu năm 1999, toàn tỉnh Lâm Đồng có 996.745 người,

trong đó, dân tộc thiểu số là 233.424 người; số người theo các tôn giáo là 591.701 người
[56, tr. 1].
1.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội
1.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Nền kinh tế cổ truyền của các dân tộc thiểu số dựa vào thiên nhiên và mang tính
chất tự nhiên, tự cấp, tự túc. Phương thức canh tác phổ biến là phát rẫy, chọc, tỉa. Sau
vài ba năm, đất cằn cỗi, họ bỏ hoang, đi phát nương nơi đất mới. Hình thái kinh tế
chiếm đoạt gắn với săn bắn và hái lượm vẫn có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế
gia đình. Ngoài ra, các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng còn có nghề dệt vải, thổ cẩm, đan
lát đồ mây, tre, cói; rèn nông cụ, vũ khí truyền thống.
Bảo tồn và phát huy truyền thống canh tác của cư dân nông nghiệp lâu đời. Khi
di cư đến Lâm Đồng, cộng đồng người Kinh tiếp tục trồng lúa nước, thâm canh hoa
màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, rau ôn đới, trồng hoa, dâu tằm và cây
dược liệu. Đây là nguồn thu nhập chính của cư dân người Kinh. Cùng với trồng trọt, các

nghề thủ công nghiệp nhỏ (như nghề mộc, rèn, thêu, đan); thương nghiệp - dịch vụ du
lịch ở Đà Lạt và thị xã Bảo Lộc cũng phát triển.
Sau ngày giải phóng, nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã thu được những thành tựu nhất định. Về nông nghiệp: đã thực hiện chủ trương
khôi phục các ngành sản xuất chính, như: chè, rau, mở rộng diện tích cây lương thực,
thực phẩm; tiến hành khai hoang, phục hóa; các phong trào làm thủy lợi, trồng rừng,
định canh, định cư cho đồng bào dân tộc được phát động. Về công nghiệp: khôi phục
các ngành công nghiệp quan trọng như sản xuất nấm, tơ tằm, chè, cà phê
Bước sang thời kỳ đổi mới, Lâm Đồng có nhiều bước tiến đáng kể trong phát
triển kinh tế. Thời kỳ 1990 - 1995, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng gần 13% [46, tr.
25]. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực; các tiềm năng, thế mạnh
được khai thác. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển, xuất - nhập khẩu
được khuyến khích, đẩy mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện trên cơ sở phát huy thế mạnh về cây
công nghiệp dài ngày, rau, hoa quả đặc sản theo hướng đầu tư thâm canh; đất đai được

sử dụng có hiệu quả, hình thành nhiều vùng chuyên canh. Bộ mặt nông thôn thay đổi,
số hộ giàu và trung bình chiếm tỷ lệ trên 80%. Vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc được
quan tâm đầu tư phát triển.
Lâm nghiệp được phát triển trên cơ sở bảo vệ tài nguyên và phát triển vốn rừng;
công tác trồng, chăm sóc rừng được ưu tiên. Quản lý bảo vệ rừng, định canh, định cư
cho đồng bào dân tộc được thực hiện.
Công nghiệp tăng với tốc độ cao, sản phẩm đa dạng. Nhiều sản phẩm mới được
sản xuất (như lụa, hàng đan len, cà phê, nhân hạt điều, thiếc tinh, nấm ). Chất lượng
các sản phẩm được nâng lên và tìm được thị trường tiêu thụ khá ổn định, như chè xuất

khẩu, tơ tằm Giá trị xuất khẩu từ công nghiệp chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Cơ sở vật chất kỹ - thuật hạ tầng được tập trung xây dựng, đáp ứng phần lớn
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Mạng lưới điện đã đến được 80% số xã; đường giao
thông mở đến tất cả các khu dân cư. Nước sạch được cấp cho trên 50% số dân; mạng
lưới bưu chính viễn thông phủ kín đến tất cả các xã trong tỉnh và được đầu tư ngày càng
hiện đại. Các công trình thủy lợi tại các vùng nông nghiệp trọng điểm được xây dựng và
phát huy có hiệu quả [46, tr. 84].
Trên bước đường xây dựng kinh tế, tỉnh Lâm Đồng gặp không ít trở ngại. Cơ sở
hạ tầng, kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa chưa được phát triển. Riêng 27 xã đồng bào
dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn; nạn đói giáp hạt vẫn còn xảy ra ở một số nơi.
Một số nơi đồng bào trở về buôn làng cũ trong rừng sâu, sống chủ yếu bằng phát rừng
làm rẫy; đời sống hết sức bấp bênh; bệnh tật, ốm đau xảy ra triền miên. Vào mùa mưa,
việc đi lại vào vùng đồng bào dân tộc rất khó.
2.1.2.2. Đặc điểm xã hội
Như một bức tranh thu nhỏ của đất nước, hiện nay, ở Lâm Đồng cũng song
song tồn tại hai thành phần dân cư - người Kinh và các dân tộc thiểu số.
- Cộng đồng người Kinh: năm 1979, dân số người Kinh là 299.969 nhân khẩu
và phân bố trong cả 7 huyện, thị của Lâm Đồng. Hiện nay, dân số người Kinh là
762.795 nhân khẩu, phân bố ở 9 huyện, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Cư dân
người Kinh đang đóng vai trò là động lực chủ yếu trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và

văn hóa trên xứ sở này.
Trong nửa đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình khai thác cao nguyên, thực dân
Pháp đã đưa lên một số công nhân, viên chức người Kinh để phục vụ cho bộ máy cai trị

và lao động trong các đồn điền trồng cây công nghiệp của tư bản. Trước năm 1945, một
số nhóm lao động ở miền Bắc di dân đến Lâm Đồng lập nghiệp, xây dựng vùng quê
mới. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ở cả vùng kháng chiến và vùng bị
tạm chiến, số người Kinh ở Lâm Đồng tăng lên một cách đáng kể.
Đến nay, trong tổng số 135 đơn vị hành chính cơ sở của Lâm Đồng, có 32 xã,
phường toàn là người Kinh, 30 xã người Kinh sống xen cư với các buôn dân tộc.
Mặc dù có cùng nguồn gốc là những cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng
miền Trung, song do các điều kiện lịch sử chi phối, nên trên thực tế, trong cộng đồng
người Kinh ở Tây nguyên nói chung, ở Lâm Đồng nói riêng lại bao gồm hai bộ phận di
dân: bộ phận di dân trong các giai đoạn của trước ngày giải phóng và bộ phận di dân sau
năm 1975.
Trước ngày giải phóng, người Kinh lẻ tẻ đến sinh cơ lập nghiệp ở Lâm Đồng từ
những thập niên đầu thế kỷ XX. Tới năm trước Cách mạng tháng Tám, tỷ lệ dân số
người Kinh ngang bằng với đồng bào dân tộc tại chỗ. Trước năm 1945, bộ phận di dân
chủ yếu là người từ các tỉnh miền Bắc (phía Bắc vĩ tuyến 17) vào Lâm Đồng. Địa bàn
phân bố chủ yếu của dân cư này là thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc và các huyện lỵ,
thị trấn. Thực dân Pháp thuê những người này mở mang đường xá, xây dựng cơ sở hạ
tầng: điện, nước, công sở nhà nước, chợ, bưu điện, bệnh viện, trường học Nổi bật
trong đợt di dân này là Nhà nước tổ chức di chuyển một số người Nghệ Tĩnh, Hà Đông
vào. Số còn lại chủ yếu là người lao động miền Trung tự vào kiếm việc làm. Lúc đầu là
thời vụ, sau là định cư lập nghiệp lâu dài. Ngoài ra, trong thành phần dân cư này còn có
một số ít là công chức nhà nước.
Đến năm 1945, người Kinh tập trung nhiều ở vùng Đà Lạt, DRan (Đơn Dương),
một ít ở Bảo Lộc, Di Linh, ven quốc lộ 20; một số ở ven quốc lộ 18 đi Đắc Lắc hoặc
từng cụm nhỏ trên đường Di Linh - Kim Đa. Từ


1945 - 1954, sự di dân đến Lâm Đồng bị hạn chế.
Trong giai đoạn 1954 - 1975 đã diễn ra một đợt di dân ồ ạt đến Lâm Đồng. Chủ
yếu là người có gốc Bắc (ở các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa và một ít ở Cao Bằng,
Lạng Sơn). Phần lớn trong số họ là giáo dân, gia đình quân nhân được chính quyền Việt
Nam Cộng hòa tổ chức di dân tập thể. Họ đến ở những địa bàn được chuẩn bị trước và
hình thành nên những vùng tập trung người Kinh mới, như: Thanh Bình (Đức Trọng),
Kim Phát (Bảo Lộc). Các năm tiếp theo là sự di dân tự do, chủ yếu là người ven biển
miền Trung từ Quảng Trị trở vào. Số đông là người bốn tỉnh: Nam, Nghĩa, Bình, Phú.
Một số trong những người này là lánh nạn, một số khác mưu cầu một cuộc sống đảm
bảo hơn. Cuộc di dân tự do trong giai đoạn này sôi động và liên tục, đã góp phần làm
thay đổi thành phần dân cư và để lại nhiều kết quả tích cực lẫn tiêu cực trên lãnh thổ
này.
Bộ phận di dân sau năm 1975 chủ yếu là những gia đình cán bộ, quân đội, công
nhân, viên chức do yêu cầu của công tác, do muốn gia đình đoàn tụ nên đã di chuyển
đến Lâm Đồng để sinh sống lâu dài. Phần đông những người này cư trú tại các thành
thị, vùng ven thị, các huyện lỵ, thị trấn, các cơ sở kinh tế quốc doanh, các đơn vị hành
chính và khu gia đình của một số doanh trại quân đội.
Cư dân kinh tế mới được di chuyển theo con đường tổ chức của Nhà nước thông
qua chính quyền địa phương nơi dân đi và nơi dân đến. Dân kinh tế mới tại Lâm Đồng chủ
yếu là những nhóm lao động thuộc các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ (như Nam Hà, Nam
Định, Ninh Bình, Hà Tây, Hòa Bình và Thủ đô Hà Nội). Qua 12 năm (1976 - 1988), dân
kinh tế mới ở Lâm Đồng có khoảng 100.000 nhân khẩu. Họ phân bố tại 16 điểm kinh tế
mới thuộc các huyện Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lộc, Đạ Hoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên [56, tr. 50].
Sự di cư quy mô lớn của người Kinh diễn ra từ đầu thế kỷ XX đến nay đã đưa
số lượng người Kinh vượt hẳn tổng số dân tộc bản địa, nó cũng làm đảo lộn đời sống

người bản địa. Trên lãnh thổ Lâm Đồng đang diễn ra một cuộc chung sống chưa từng có
trong lịch sử giữa người dân tộc bản địa và người Kinh theo tình anh em, nhằm cùng
nhau khai thác, xây dựng lãnh thổ này thành một địa phương giàu mạnh, một cuộc sống
hạnh phúc lâu dài.

- Cộng đồng dân tộc thiểu số di cư đến
Nếu tính cả những nhóm dân tộc có số lượng vài chục người thì tại Lâm Đồng
hiện diện 7 nhóm: người Hoa, Nùng, Tày, Thái, Giáy, Mường, Dao [54, tr. 40]. Đó là
những bộ phận nhỏ thuộc các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc di cư vào Nam và
được điều động đến Lâm Đồng. Dưới thời Ngô Đình Diệm có hơn 20.000 người. Sau 25
năm lập nghiệp trên địa bàn này, dân số tăng lên 1/4.
Các nhóm tộc người này phân bố chủ yếu ở ven quốc lộ 20 và 21, thuộc về
những vùng kinh tế - xã hội đang phát triển. Đặc biệt ở xã Tùng Nghĩa, bên cạnh quốc
lộ 20 thuộc huyện Đức Trọng là nơi có 11.873 nhân khẩu của các nhóm dân tộc di cư từ
miền Bắc đến, chiếm 78,1% dân số chung toàn xã (15.207 nhân khẩu). Riêng người Hoa
chiếm 39,2% dân số và là nơi tập trung đông nhất của cộng đồng này [56, tr. 51].
- Các dân tộc thiểu số tại chỗ
Năm 1979, tại Lâm Đồng có 9 tộc người và nhóm tộc người cư trú lâu đời ở
miền Nam Việt Nam. Nếu tính cả những nhóm tộc người có số dân vài chục người thì
thời điểm đó có trên 92.339 nhân khẩu và phân bố ở 9 huyện, thị xã Bảo Lộc, và Thành
phố Đà Lạt.
Trong 20 năm qua, dân số các tộc người tại chỗ của Lâm Đồng đã tăng lên, chủ
yếu là tăng tự nhiên, một phần là tăng cơ học. Theo điều tra dân số năm 1999, dân số
Cơ Ho là 112.737 người, Chu Ru là 14.000 người, Mạ là 25.298 người, Mnông là 9.679

người [54, tr. 12]. Địa bàn phân bố các dân tộc thiểu số rải rác trên mọi vùng của tỉnh.
Song, nhiều nơi dân số tập trung đều xa những tụ điểm kinh tế - văn hóa, xa các quốc lộ
và đường giao thông liên tỉnh.
Cả tỉnh có 24/135 đơn vị xã, phường toàn là người dân tộc thiểu số; trong đó có
4 xã nằm bên quốc lộ 20 là Tân Châu, Liên Đầm, Gung Ré (Di Linh) và Đạ Mri (Đạ
Hoai), 2 xã nằm bên quốc lộ 21 là Đạ Đờng (Lâm Hà) và N'Thol Hạ (Đức Trọng). Còn
lại đều là ở vùng núi xa hẻo lánh, như các tụ điểm cư dân Cơ Ho ở Đạ Long, Đạ Tông
(Lạc Dương), Sơn Điền (Di Linh), Lộc Nam (Bảo Lộc) [41, tr. 44].
2.1.2.3. Đặc điểm văn hóa
Ngoài người Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số từ miền Bắc di cư đến, hiện

nay, ở Lâm Đồng chủ yếu có bốn dân tộc người bản địa Tây Nguyên. Đó là các dân tộc:
Mạ, Cơ Ho, Chu Ru và Mnông. Người Mạ, Cơ Ho và Mnông thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn Khơ me (Nam á), còn người Chu Ru thuộc ngôn ngữ Pôlynêdi (Nam Đảo). Do dân
di cư từ cả ba miền về Lâm Đồng nên đã có sự giao lưu, hội nhập phong tục, tập quán
của các cư dân; từ đó, tạo nên sự đa dạng của văn hóa các dân tộc ở Lâm Đồng.
Đồng bào các dân tộc tỉnh Lâm Đồng có một kho tàng văn hóa dân gian hết sức
phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và mang phong cách chung của văn hóa
Trường Sơn - Tây Nguyên. Bản sắc văn hóa đó được thể hiện ở tín ngưỡng đa thần
nguyên thủy. Tín ngưỡng dân gian này chi phối khá mạnh nền văn hóa nghệ thuật của
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong kho tàng văn hóa dân gian còn chứa đựng một kho
tàng văn học rất phong phú, trong đó có tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca Nói đến
văn hóa cổ truyền của dân tộc thiểu số Lâm Đồng không thể không nói đến nghệ thuật
biểu diễn và kiến trúc trang trí. Qua nghệ thuật trang trí, kiến trúc và biểu diễn, người
dân tộc thiểu số thể hiện quan niệm sơ khai về vũ trụ, về nhân sinh, về tín ngưỡng và
lịch sử.

Ngoài ra, các dân tộc ít người ở Lâm Đồng còn lưu giữ được nhiều hình thức
sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống phản ánh quan niệm về thế giới tự nhiên và tín
ngưỡng của họ. Đó là các lễ nghi nông nghiệp, lễ hội cồng chiêng và lễ hội đâm trâu.
Văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng có một sức hút mãnh liệt đối với các nhà
nghiên cứu, khách tham quan du lịch. Nhưng lâu nay, không ít người đã nhìn nhận các
lễ hội này là một hành vi mê tín, dị đoan và gây lãng phí sức người sức của. Do bị chi
phối bởi những nhận thức phiến diện đó, một số nơi đã ngăn cấm các lễ hội, làm cho
cuộc sống trở nên trần trụi, đoạn tuyệt với lịch sử các dân tộc, xâm phạm đến chủ quyền
văn hóa của người dân [54, tr. 450-452].
Trình độ văn hóa của cư dân Lâm Đồng từ năm 1979 đến nay được nâng cao rõ
rệt; số người có trình độ cao đẳng, đại học cũng tăng lên nhanh, (từ 1,52% lên 4,43%).
Mặc dù vậy, vẫn cần thấy rằng số người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên vẫn còn
thấp so với dân số. Riêng trình độ văn hóa của người dân tộc thiểu số quá thấp so với
người Kinh và vùng nông thôn thấp hơn so với thành thị [46, tr. 104].

1.2. Tôn giáo tỉnh Lâm Đồng và một số đặc điểm cơ bản của nó
1.2.1. Bức tranh khái quát tình hình tôn giáo ở Lâm Đồng
Tôn giáo của Lâm Đồng là một bức tranh đa sắc. Điều đó biểu hiện ở chỗ, trong
bức tranh tôn giáo đó có mặt gần như tất cả các mảng màu tôn giáo lớn ở Việt Nam. Đó là
màu vàng của Phật giáo, màu đen của Công giáo và Tin lành, màu trắng của Cao Đài và
một mảng màu lớn rực rỡ, nguyên sơ của các tôn giáo nguyên thủy đang được các dân tộc
thiểu số và người Kinh tin và sống theo, như vật linh giáo, tô tem giáo, thờ cúng tổ tiên.
1.2.1.1. Đạo Công giáo
Năm 1917, Linh mục quản lý Hội thừa sai Paris tại Viễn Đông là Nicolas

Couveur đã đến Đà Lạt với mục đích tìm nơi an dưỡng cho các giáo sĩ nên đã xây dựng
một dưỡng viện giáo đồ. Tháng 4 năm 1920 thành lập giáo sở Đà Lạt [19, tr. 25]. Ngày
27/11/1960, theo sắc chỉ của Tòa thánh, Giáo phận Đà Lạt được thành lập trên cơ sở sát
nhập bốn tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, Phước Long và Quảng Đức.
Sau hơn 80 năm đạo Công giáo du nhập và phát triển, hiện nay, toàn tỉnh có
245.000 tín đồ. Riêng ở Đà Lạt, Bảo Lộc và Đơn Dương số lượng tín đồ khá đông
(thành phố Đà Lạt có 60.000 tín đồ, thị xã Bảo Lộc có 70.000 tín đồ, Đơn Dương
30.000), các huyện còn lại nơi nào cũng có từ 2000 đến 10.000 tín đồ. Trong số 135 xã,
phường, thị trấn thì 61 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào theo đạo Công giáo với tỷ
lệ 30% dân số trở lên; 30 xã, phường, thị trấn khác là những địa bàn trọng điểm về tôn
giáo; trong đó, 10 xã, phường theo đạo Công giáo toàn tòng. Đa số tín đồ theo đạo Công
giáo là giáo dân ở các tỉnh phía Bắc di cư vào năm 1954. Giáo phận Đà Lạt được chia
thành 5 giáo hạt: Hạt Đà Lạt (bao gồm thành phố Đà Lạt, huyện Lạc Dương); hạt Đức
Trọng (gồm Đức Trọng và Lâm Hà); hạt Đơn Dương; hạt Di Linh; hạt Bảo Lộc (bao
gồm Bảo Lộc, Đạ Hoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên). Toàn tỉnh có 59 giáo xứ, 39 giáo họ [20,
tr. 4].
Đội ngũ chức sắc có 01 Giám mục, 133 Linh mục (Linh mục Triều: 88, Linh mục
Dòng: 45), trong đó có 85 Linh mục hoạt động tại các xứ đạo và 42 Linh mục sinh hoạt
theo cộng đoàn. Nói chung, những Linh mục được đào tạo cơ bản, có trình độ học vấn
cao, không chỉ hiểu biết về thần học mà còn am hiểu về nhiều lĩnh vực khoa học nên dễ

gần gũi và thu hút được quần chúng.
Về cơ sở vật chất, có 01 tòa giám mục, 59 nhà thờ, 20 nhà nguyện, 19 tu viện
(có 12 tu viện nữ), 10 đền thánh, 10 nhà thờ họ [54, tr. 3]. Về dòng tu, trước năm 1975,
Giáo phận Đà Lạt có 32 dòng tu nam và nữ. Trong đó có cả dòng quốc tế và dòng địa
phận. Dòng tu nam là 13, dòng tu nữ là 19 với tổng số nam, nữ tu sĩ là 1.368 người. Đến
nay, cả giáo phận Đà Lạt chỉ còn 30 dòng tu, trong đó có 15 dòng tu quốc tế. Trong 9
dòng tu nam thì có 7 dòng tu quốc tế và 2 dòng tu địa phận, có 1 tu hội với 48 Linh mục

và 104 tu sĩ, trong đó có 15 người đã tốt nghiệp Đại chủng viện. Có
21 dòng tu nữ (12 dòng địa phận và 9 dòng quốc tế) với 471 nữ tu.
Hiện nay, đạo Công giáo ở Lâm Đồng có 21 hội đoàn được phân thành 3 loại:
hội đoàn hoạt động thuần túy tôn giáo, hội đoàn hoạt động từ thiện - xã hội và hội đoàn
tập hợp quần chúng rộng rãi [17, tr. 4].
Hầu hết các xứ đạo, nhà thờ Công giáo đều được chính quyền Pháp và Ngô
Đình Diệm xây dựng ở những vị trí chiến lược quan trọng, như dọc quốc lộ 20, 27 và
vành đai phía Tây, Tây Bắc Đà Lạt. Điểm đặc biệt là các xứ đạo ở Lâm Đồng đều mang
tên các xứ đạo ở quê hương của giáo dân ở phía Bắc (Du Sinh, Thánh Mẫu, Hà
Đông ). Trong thời Mỹ - Ngụy, Ngô Đình Diệm đã đưa 30.000 giáo dân và 100 Linh
mục từ các tỉnh phía Bắc đến Lâm Đồng với mục đích làm hậu thuẫn cho chúng. Chúng
đã xây dựng đồn bốt xen lẫn với nhà thờ và tập trung giáo dân xung quanh nhà thờ;
chiếm lĩnh dọc trên các tuyến đường quan trọng như đường 20, 14, 21. Trong giai đoạn
này, Giáo hội Công giáo ở Lâm Đồng cũng ra sức thành lập các đảng phái chính trị
phản động, đồng thời hoàn chỉnh về mặt tổ chức (như lập Hội đồng Linh mục, Hội
tương tế). Mặt khác, Giáo hội cũng chủ trương dùng những tín đồ ngoan đạo và thông
qua các tổ chức hội đoàn để chống phá cách mạng.
Tuy nhiên, những năm gần đây, nhất là từ khi có Nghị định 69/HĐBT (nay là
Chính phủ) quy định về các hoạt động tôn giáo, nhìn chung, đồng bào Công giáo thật sự
tin tưởng, ủng hộ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, có những đóng góp tích
cực trong công cuộc đổi mới về kinh tế, văn hóa - xã hội.
1.2.1.2. Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo có đông tín đồ nhất của tỉnh. Theo thống kê đầu năm

1999, toàn tỉnh có 300.000 tín đồ, chiếm 30% dân số của tỉnh. Nhưng mật độ phân bố
tín đồ không đồng đều, tập trung chủ yếu ở thành phố Đà Lạt và thị xã Bảo Lộc. Phật
giáo Lâm Đồng có hai hệ phái chính: Phật giáo đại thừa (Bắc Tông) và Phật giáo tiểu
thừa (Nam Tông). Giáo hội Phật giáo của tỉnh gồm 01 Ban trị sự với 30 thành viên, 09
Ban đại diện Phật giáo ở các huyện, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Đội ngũ chức
sắc có 3 hòa thượng, 01 Ni sư trưởng, 19 Thượng tọa, 121 Đại đức, 17 Ni sư và 608 Ni
cô. Ngoài ra, còn có 250 tăng, ni sinh khóa I và II trường cơ bản Phật học vừa mới ra
trường và hàng trăm nam, nữ tu sĩ khác [20, tr. 5].
Về cơ sở thờ tự, có 80 chùa, 18 tịnh xá, 15 niệm phật đường, 01 thiền viện, 01
trường cơ bản Phật học và một số cơ sở Phật sự khác. ở Lâm Đồng, tổ chức Gia đình
phật tử được thành lập từ năm 1948 do Lê Văn Vinh làm trưởng Ban. Cho đến năm
1975, cả tỉnh có 3.000 đoàn sinh, 500 huynh trưởng, trong đó có 01 cấp dũng, 08 cấp
tấn, 16 cấp tín, 71 cấp tập và 403 huynh trưởng không cấp. Từ năm 1975 đến năm 1986,
vì nhiều lý do khác nhau, tổ chức Gia đình phật tử Lâm Đồng không còn hoạt động. Từ
năm 1987 đến nay, lợi dụng chính sách đổi mới của Nhà nước, một số huynh trưởng cũ
đã tập hợp thanh, thiếu niên trong các Gia đình phật tử trước đây trở lại sinh hoạt. Hiện
nay, ở Lâm Đồng có 46 Gia đình phật tử, 500 huynh trưởng mới và cũ, trên 3000 đoàn
sinh đang hoạt động [55, tr. 4].
Để đáp ứng những nhu cầu chính đáng của thanh, thiếu niên phật tử, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam đã đề nghị Nhà nước cho phép Gia đình phật tử hoạt động dưới sự
quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương cho phép Gia đình phật tử hoạt động trở lại. Hiện nay, toàn tỉnh đã tổ chức ra
mắt 28 Gia đình phật tử với 1.573 đoàn sinh, 189 huynh trưởng [55, tr. 3].
Với phương châm "Đạo pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội", đa số tăng, ni, và
đồng bào phật tử yên tâm lo việc đạo, việc đời; gắn bó với cộng đồng; thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo đã phát huy
được vai trò trách nhiệm của mình, chỉ đạo những hoạt động phật sự theo đường hướng


"xây dựng nền đạo trong nền dân tộc". Nhìn chung Giáo hội thể hiện sự thống nhất,
đoàn kết, tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của địa phương.
Ngoài những hoạt động đúng đắn và tích cực trên, Giáo hội Phật giáo vẫn còn
những nhược điểm nhất định. Hệ thống tổ chức và công tác quản lý của Giáo hội thiếu
chặt chẽ và đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở. Một số chức sắc có những quan điểm không rõ
ràng, đã để cho các huynh trưởng Gia đình phật tử cũ tiếp tục hoạt động bất hợp pháp.
Sau khi bầu Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử tại hồ Than Thở - Đà Lạt, nhóm cực đoan
do Nguyễn Châu, Nguyễn Hữu Thạnh cầm đầu đã sử dụng một số chùa để mở các lớp
A Dục, Huyền Trang ; in ấn hàng trăm tập giáo lý không xin phép và phong cấp nhiều
lần cho hàng trăm huynh trưởng mới.
Dưới danh nghĩa lễ nghi tôn giáo, một số chùa đã có hiện tượng xin xăm, bói
toán, biến những nơi này thành nơi cúng bái, mê tín dị đoan. Gần đây, nhiều am, cốc,
tượng phật dựng lên không xin phép; tình trạng cư trú bất hợp pháp ngày càng tăng.
1.2.1.3. Tin lành
Năm 1932, đạo Tin lành đã truyền vào Tây Nguyên. ở Lâm Đồng, vợ chồng
giáo sĩ Hajackson thuộc hệ phái Tin lành "Hội liên hiệp phúc âm và truyền giáo"
(CMA) trực tiếp truyền đạo. Đến năm 1975, đạo Tin lành ở Lâm Đồng có 17.000 tín đồ
người dân tộc thiểu số và người Kinh, 24 mục sư, 52 truyền đạo, 76 nhà thờ, 4 trung
tâm truyền giáo với 03 hệ phái: Hội liên hiệp phúc âm và truyền giáo, Cơ đốc phục lâm
và Bắp tít.
Hiện nay, cả tỉnh có 9 hệ phái (6 hệ phái mới du nhập vào sau năm 1975) với
55.270 tín đồ, trong đó, tín đồ người dân tộc thiểu số là 52.481. Riêng phái CMA có
49.371 tín đồ. Cả tỉnh có 126 chức sắc, trong đó có

32 Mục sư, 94 thầy giảng. Về cơ sở thờ tự, có 47 nhà thờ (phái Chính thống có
36, Cơ đốc phục lâm: 11). Trong số 47 cơ sở thờ tự, Nhà nước cho 9 cơ sở được mở cửa
để hành lễ (6 cơ sở của dân tộc thiểu số, 3 cơ sở của người Kinh) [11, tr. 34].
Sau ngày miền Nam giải phóng, đạo Tin lành ở Lâm Đồng tiếp tục bị các thế
lực phản động lợi dụng. Một số mục sư, thầy giảng và tín đồ tham gia tổ chức Fulrô để
chống phá cách mạng. ở nhiều nơi trong tỉnh, nhà thờ trở thành nơi tụ họp của bọn phản

động Fulrô. Tuy nhiên, qua công tác vận động quần chúng và đấu tranh vũ trang, về cơ
bản, tổ chức Fulrô đã bị đập tan. Phần lớn các chức sắc, tín đồ đã nhận thức được âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, họ đã tự nguyện không tiếp tay cho Fulrô
và đóng cửa nhà thờ.
Mặc dù hiện nay Nhà nước chưa công nhận tư cách pháp nhân cho đạo Tin lành
ở Lâm Đồng, nhưng xét nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng, chính quyền địa
phương đã cho phép một số nhà thờ trong tỉnh được mở cửa để tín đồ làm lễ vào những
ngày lễ trọng. Vì thế, đa số chức sắc và tín đồ tỏ ra phấn khởi, tin tưởng vào chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, gần đây, lợi dụng sự đổi mới chủ trương chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước, đạo Tin lành tiếp tục củng cố, lôi kéo, phát triển tín đồ ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Có nơi đạo Tin lành dùng tiền, hàng để dụ dỗ mua chuộc người
vào đạo. Trước 1975, mục sư Trương Văn Tốt là cố vấn Nam thượng hạt ở Lâm Đồng
chạy ra nước ngoài. Trong những năm gần đây ông ta đã móc nối với mục sư, truyền
đạo trong tỉnh; trang bị máy radio cho các mục sư, những kẻ truyền đạo là người dân tộc
để nghe giảng kinh thánh của đài Manila (Philippin) bằng tiếng Cơ Ho.
1.2.1.4. Đạo Cao đài
Tại Lâm Đồng có 4 hệ phái: Cao đài Tây Ninh, Cao đài truyền giáo miền

Trung, Cao đài Ban chỉnh đạo và Cao đài Cầu Kho. Tổng số tín đồ là 13.000. Về chức
sắc có 2 Giáo sư, 2 Giáo hữu, 34 Lễ sanh sinh hoạt trong 15 thánh thất, điện thờ phật
mẫu. Tín đồ đạo Cao đài ở Lâm Đồng không nhiều so với các tôn giáo khác. Phần đông
họ là những người dân thật thà, chất phát, có quan hệ tốt với cách mạng. Bên cạnh đó,
cũng còn một số phần tử cực đoan, xúi giục tín đồ làm đơn đòi xóa bỏ đạo lệnh 01 của
Tòa thánh Tây Ninh, đòi lại cơ sở thờ tự. Chúng tìm cách kích động, gây chia rẽ nội bộ
Cao đài Ban chỉnh đạo [56, tr. 4-6].
1.2.1.5. Các hiện tượng tôn giáo khác
Hiện nay ở Lâm Đồng, các "hiện tượng tôn giáo mới" đang hoạt động khá mạnh
mẽ. Trong đó, đạo Thanh Hải Vô thượng sư đang phát triển mạnh ở thị xã Bảo Lộc, đã
lôi kéo 20 hộ với 40 nhân khẩu tham gia sinh hoạt tôn giáo. Đạo này đã tán phát kinh

sách và băng thu hình, tuyên truyền cho việc ngộ đạo có thể diễn ra ngay tức thì mà
không cần một thời gian dài tu luyện; đồng thời, cũng kêu gọi tín đồ trong nước và thế
giới chống Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, có 2 người đã vượt biên sang
Campuchia để thọ tâm ấn của Thanh Hải Vô thượng sư.
Bên cạnh đạo Thanh Hải Vô thượng sư còn có đạo Tâm Linh, Tổ Tiên chính
giáo, Thánh Mẫu, Ngũ tuần đang ngấm ngầm hoạt động ở Đà Lạt, Đức Trọng, Lâm Hà.
Các đạo này tuyên truyền, lôi kéo tín đồ và lén lút nhóm họp để truyền bá đức tin, gây
ảnh hưởng không tốt đến tình hình an ninh trật tự và tâm lý quần chúng ở địa phương.
1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của tôn giáo ở Lâm Đồng
1.2.2.1. Tôn giáo ở Lâm Đồng chủ yếu được hình thành từ các cuộc di dân
Cùng với quá trình khai thác cao nguyên, xây dựng Đà Lạt thành một khu nghỉ
dưỡng, thực dân Pháp đã chiêu mộ người dân bản xứ lên Đà Lạt để xây dựng cơ sở hạ

tầng, như đường xá, bưu điện, chợ Mặt khác, thực dân Pháp còn cần người lao động
để khai khẩn các đồn điền trồng chè, rau, hoa phục vụ tại chỗ và bán ra bên ngoài. Có
thể nói chính nhu cầu khai khẩn nhiều mặt là động lực chính thúc đẩy người dân từ
miền Bắc cho tới miền Trung vào đây lao động. Đa số cư dân đến đây đều có tôn giáo
và khá ngoan đạo. Người Nam, Ngãi, Bình, Phú là những người theo đạo Phật và Cao
đài. Để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và nhớ về cố hương, họ đã tự nguyện
góp sức lập các am thờ bằng gỗ. Sau đó, nhờ kinh tế, phát triển, họ đã xây dựng nên
những ngôi chùa và những thánh thất cao đài.
Đi đôi với chính sách "tố cộng", Mỹ - Diệm đã đưa hơn 30.000 đồng bào Công
giáo từ miền Bắc vào Lâm Đồng. Chúng bố trí ở các điểm dân cư nhằm bảo vệ các tiểu
khu, chi khu và dọc các đường giao thông quan trọng như Tân Thanh, Tân Phát, Tân
Bùi (Bảo Lộc); Phú Hiệp, Tân Xuân, Tân Lập (Di Linh); Bình Thạnh (trên đường liên
tỉnh 18 còn gọi là đường 21 kéo dài); Lạc Lâm (trên quốc lộ 21A); các ấp nội ô và vùng
ven phía Tây Bắc Đà Lạt.
Ngoài ra, năm 1954, dưới sự hướng dẫn của Linh mục Mạnh Trọng Bích,
khoảng 400 giáo dân của làng Nghị Yên, Cầu Khống thuộc huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh vào
định cư ở Đà Lạt. Năm 1957, Linh mục Mai Đức Thạc đưa 600 hộ giáo dân ở Phát Diệm

vào vùng Cầu đất lập nghiệp [53, tr. 223].
Sau ngày giải phóng, nhân dân lao động từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung
tiếp tục di cư vào và định cư dọc theo các quốc lộ giao thông quan trọng. ở đây, họ đã
xây dựng nhiều cơ sở thờ tự. Một điều nổi bật nhất là nơi nào có đông đồng bào miền
Bắc thì nơi đó có nhiều nhà thờ, còn nơi nào có đông đồng bào miền Trung thì có nhiều
chùa và thánh thất Cao đài.
1.2.2.2. ở một mức độ nhất định, một số tôn giáo ở Lâm Đồng có ảnh hưởng
lớn đối với tôn giáo ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ

×