Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Chính sách ngoại thương của việt nam nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 99 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
  



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM NHẰM
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ




Họ và tên sinh viên
Lớp
Khoá
Giáo viên hướng dẫn
: Vò CÈm H»ng
: NhËt 1
: 44 E
: TS. Ph¹m ThÞ Hång YÕn










Hà Nội, tháng 5 năm 2009



DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ


Bảng/ hình vẽ
Nội dung
Trang
Hình 1
Tác động bảo hộ sản xuất thay thế nhập khẩu của thuế
nhập khẩu.
9
Bảng 1
Tổng kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Mỹ
22
Bảng 2
Tổng kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Mỹ

Bảng 3
Năm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường
Mỹ ba tháng đầu năm 2009
24

Bảng 4
Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ
giai đoạn 2000 - 2004
29
Bảng 5
Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu
(Ban hành kèm theo Nghị định 12/2006/NĐ-CP
Ngày 23/1/2006 của Chính phủ)
38
Bảng 6
Danh mục hàng hóa quản lý bằng hạn ngạch thuế
quan
42
Bảng 7
Mức thuế suất tuyệt đối đối với mặt hàng gạo
57
Bảng 8
Mục tiêu tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam
tới năm 2020
62
Bảng 9
Cơ cấu thị trường xuất khẩu Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2010
76



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Anh
Tiếng Việt
BTA
U.S -Vietnam Bilateral Trade
Agreement
Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
SCM
Agreement on Subsidies and
Conntervailing Measures
Hiệp định về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng.
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
USD
United State Dollar
Đô la Mỹ
OFAC
Office of Foreign Assets
Control
Cơ quan tài sản ở nước ngoài
của Mỹ
MFN
Most Favoured Nation
Tối huệ quốc
Non MFN

Non Most Favoured Nation
Phi tối huệ quốc
GSP
General System of
Preferences
Quy chế ưu đãi thuế quan phổ
cập
CEPT
Common Effective
Preferential Tariff
Ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
AHNT
ASEAN Harmonised Tariff
Nomenclature
Danh mục biểu thuế hài hòa
ASEAN
ASEAN
Association of Southeast Asia
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam A
VFA
Vietnam Food Association
Hiệp hội lương thực Việt Nam
GDP

gross domestic product
Tổng sản phẩm quốc nội
EU
Europe
Châu Âu
ODA
Official Development
Hỗ trợ phát triển chính thức


Assistance
NT
National Treatment
Chế độ đãi ngộ quốc gia.
OECD
Organization for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế.
ISO
International organization for
Standardization
Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
WB
Word Bank

HACCP
Hazard Analysis Critical
Control Point
Phân tích nguy cơ và kiểm soát

các khâu trọng yếu
XNK

Xuất nhập khẩu
ĐVT

Đơn vị tính
KHH

Kế hoạch hóa
MS

Mã số
TNDD

Thu nhập doanh nghiệp
VNĐ

Việt Nam Đồng
XHCN

Xã hội chủ nghĩa
TMQT

Thương mại quốc tê.
CNH,HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa



Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 1 Nhật 1 K44E

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, không một quốc gia nào có thể phủ
nhận vai trò to lớn của hội nhập kinh tế thế giới. Thực tế cũng chứng minh
rằng không một dân tộc nào có thể phát triển kinh tế theo hình thức tự cung tự
cấp, cô lập với bên ngoài. Điều đó giải thích tại sao trong chính sách kinh tế
của mỗi quốc gia, phát triển kinh tế đối ngoại bao giờ cũng là vấn đề then
chốt và được ưu tiên hàng đầu.
Đối với Việt Nam, tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại được thể hiện
rất rõ trong Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Nếu Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) nhận định : “Đặt nền tảng của
chiến lược kinh tế đối ngoại vào sự gắn bó với cộng đồng xã hội chủ nghĩa,
trước hết với Liên Xô, đồng thời chúng ta phấn đấu để có những quan hệ ngày
càng năng động hơn về kinh tế và khoa học kỹ thuật với các khu vực khác
trên thế giới. Ngoài hoạt động xuất, nhập khẩu, với những chính sách và thể
chế mới, chúng ta sẽ mở thêm quan hệ hợp tác với nhiều nước đang phát triển,
với một số nước hoặc tổ chức tư nhân trong thế giới tư bản chủ nghĩa ”. Thì
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ( năm 2006) lại nêu rõ định
hướng : “ Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị
trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị
trường quen thuộc, tranh thủ mọi thời cơ mở thị trường mới”. Có nghĩa là
quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay không chỉ bó gọn trong
phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa, mà vươn ra tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt thể chế chính trị, Việt Nam muốn trở thành bạn của tất cả các
nước, ngay cả với các quốc gia trước kia đã từng là kẻ thù. Và chúng ta không
thể không nhắc tới Mỹ - Một trong những nền kinh tế sôi động bậc nhất, một

Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 2 Nhật 1 K44E

thị trường đầy tiềm năng và vô cùng hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Việt
Nam.
Năm 2000, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA) được ký kết. Năm
2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương
mại quốc tế WTO…Cùng với rất nhiều chuyến công du của nguyên thủ quốc
gia hai nước, những sự kiện trên đang chứng minh cho một mối quan hệ
thương mại Việt Mỹ ngày càng được mở rộng và phát triển. Nhận thức được
tính cấp thiết của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “ Chính sách ngoại
thương của Việt Nam nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Mỹ” làm
đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp này là:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách ngoại
thương.
- Đánh giá thực trạng chính sách ngoại thương của Việt Nam trong mối
quan hệ thương mại với Mỹ, đánh giá các cơ hội và thách thức cho các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quan hệ thương mại Việt Mỹ từ
năm 1994 đến nay cùng với những nhân tố tác động tới mối quan hệ này, và
các chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo, thủy sản và dệt may
của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Khóa luận được hình thành dựa trên phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp diễn giải - quy nạp, phương pháp Logic và mô tả khái quát.
5. Bố cục của khóa luận

Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 3 Nhật 1 K44E

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của khóa luận được chia thành
ba chương:
Chương I: Tổng quan về chính sách ngoại thương của Việt Nam và mối
quan hệ thương mại Việt Mỹ.
Chương II: Thực trạng chính sách ngoại thương Việt Nam đối với một
số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Chương III. Giải pháp hoàn thiện chính sách ngoại thương nhằm thúc
đẩy xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS.Phạm Thị Hồng
Yến đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Đồng thời, em cũng
xin cảm ơn các thầy cô giáo đã dạy dỗ chúng em trong những năm học qua,
cám ơn Thư viện trường Đại học Ngoại thương đã giúp đỡ và cung cấp tài
liệu cho em trong quá trình thực hiện khóa luận.















Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 4 Nhật 1 K44E

CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI THƢƠNG VIỆT
NAM VÀ MỐI QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT MỸ

I. CHÍNH SÁCH NGOẠI THƢƠNG
1. Khái niệm
Trong lịch sử phát triển loài người, hoạt động trao đổi buôn bán giữa
các quốc gia xuất hiện từ rất sớm cùng với sự ra đời của Nhà nước và kinh tế
hàng hóa tiền tệ. Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, do nền
kinh tế tự nhiên giữ địa vị thống trị nên ngoại thương chỉ phát triển với quy
mô nhỏ bé, chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu của giai cấp thống trị. Tới khi chế
độ tư bản chủ nghĩa ra đời, kéo theo sự xuất hiện của phân công lao động
quốc tế thì ngoại thương đã có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ. Và cho tới
ngày nay, ngoại thương đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối
với sự phát triển kinh tế và sự phồn vinh của mỗi một quốc gia.
Tuy nhiên, nếu để ngoại thương tự vận động theo các quy luật kinh tế
thì sẽ gặp phải những hậu quả như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, mỗi một
quốc gia sẽ không phát huy được hết tiềm năng của mình trong mối quan hệ
thương mại với các nước khác, sự vận động của ngoại thương không tuân
theo đường lối chính trị… Chính vì vậy mà mỗi một quốc gia, trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế thế giới đều xây dựng cho mình một hệ thống chính
sách ngoại thương phù hợp với mục tiêu và điều kiện phát triển của mình.
Việc sử dụng các chính sách thương mại một mặt khuyến khích xuất khẩu,
đẩy mạnh việc bành trướng ra thị trường nước ngoài nhưng mặt khác lại hạn
chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước và giúp cho nền kinh tế trong
nước phát triển nhanh, bền vững.
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Cẩm Hằng 5 Nhật 1 K44E

“Chính sách ngoại thương hay còn gọi là chính sách thương mại là
một hệ thống là một hệ thống bao gồm các nguyên tắc, luật lệ quy định, các
biện pháp hành chính, kinh tế… liên quan đến hoạt động thương mại mà Nhà
nước áp dụng để thực hiện đường lối, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của một đất nước từng thời kỳ nhất định”
1

2. Vai trò của chính sách ngoại thƣơng.
1.1. Thu hút các nguồn vốn quan trọng cho phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Muốn đưa tốc độ phát triển kinh tế tăng ở mức cao, cần phải huy động
các nguồn vốn với khối lượng lớn nhằm đầu tư trang thiết bị, máy móc, công
nghệ tiên tiến, hiện đại, cũng như nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, cung cấp đủ
đầu vào cho sản xuất. Nguồn vốn có thể được hình thành từ trong nước (vốn
ngoại tệ thu được từ xuất khẩu hàng hóa, vốn của tư nhân) và từ nước ngoài
như thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, vay nợ, viện trợ
Thông qua chính sách thương mại thông thoáng, phù hợp với xu
hướng phát triển chung của thế giới cũng như phù hợp với đặc điểm riêng của
Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy XNK, tăng thu ngoại tệ từ xuất khẩu để
rồi tăng nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ cho sản xuất. Đây chính
là môI trường thuận lợi để thu hút vốn trong nhân dân và vốn đầu tư nước
ngoài vào phát triển sản xuất kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất,
nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước, từ đó đưa tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở mức cao, ổn định và vững chắc.
1.2. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới hiện nay đã phát triển
với tốc độ cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế

hóa nền sản xuất và đời sống xã hội. Các nước đều đứng trước các cơ hội để


1
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 6 Nhật 1 K44E

phát triển nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường… thuộc về các nước
tư bản phát triển và các công ty xuyên quốc gia nên các nước đang phát triển
đứng trước những thách thức to lớn. Nhưng đó cũng là cơ hội thuận lợi để rút
ngắn sự lạc hậu, nghèo nàn trong nước bằng cách tranh thủ những máy móc,
thiết bị tiên tiến, công nghệ hiện đại để trang bị cho nền kinh tế quốc dân,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quản lý tốt hoạt động này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt
động nhập khẩu và rút ngắn khoảng cách sự lạc hậu giữa nước ta và các nước
trên thế giới. Tuy nhiên, nếu không chú ý tới việc quản lý nhập khẩu máy
móc, thiết bị từ nước ngoài thì các nước đang phát triển có nguy cơ sẽ là bãi
rác thải công nghiệp của các nước phát triển.
1.3.

Tạo môi trường cạnh tranh cao nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thông qua ngoại thương, hàng hóa của ta phải tham gia vào cuộc cạnh
tranh về chất lượng và giá cả. Muốn thắng được cuộc cạnh tranh này bắt buộc
phải đổi mới sản xuất trong nước, hoàn thiện quản lý sản xuất, nâng cao năng
lực sản xuất, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh ngay trên thị
trường nội địa và tiến tới đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường nước
ngoài. Điều đó có nghĩa rằng, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất trong
nước phát triển.
Tóm lại, chính sách thương mại thông thoáng trước hết tạo ra thị

trường nội địa thống nhất, tạo môi trường pháp lý ổn định, tạo sức hấp dẫn để
thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất, kinh doanh, đồng
thời chính sách thương mại sẽ có vai trò điều tiết, hướng dẫn, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, chính sách ngoại thương chỉ có thể phát huy các vai trò
như trên khi nó có cơ sở khoa học và thực tiễn, nghĩa là nó phải xuất phát từ
các bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới, chú ý đến đặc điểm và trình
độ phát triển của nền kinh tế trong nước, tuân theo các quy luật khách quan
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 7 Nhật 1 K44E

trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường xuyên được bổ
sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến đổi liên tục của thực tiễn.
II. CÁC CÔNG CỤ CHỦ YẾU CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI THƢƠNG
Chính sách thương mại bao gồm nhiều chính sách cụ thể như chính
sách thuế quan, chính sách phi thuế quan… Với mỗi loại hàng hóa khác nhau
lại có chính sách thương mại không giống nhau. Ví dụ như chính sách thuế
quan đối với hàng công nghiệp khác với chính sách thuế quan đối với hàng
nông nghiệp, hay chính sách thuế quan đối với hàng dệt may khác với chính
sách thuế quan đối với gạo v.v… Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài khóa luận
này, em chỉ xin đề cập tới ba công cụ chủ yếu của chính sách thương mại. Đó
là: Chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan và chính sách hỗ trợ xuất
khẩu.
1. Chính sách thuế quan (Tariff)
Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng
góp cho Nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng
của Nhà nước. Người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn
lại.
2


Thuế quan là một công cụ quan trọng mà bất kỳ Nhà nước nào cũng
sử dụng để hoàn thành chức năng của mình. Chính sách thuế quan được sử
dụng nhằm vào hai mục đích: Tài chính hoặc bảo hộ. Trong chính sách ngoại
thương, thuế quan là một công cụ hết sức quan trọng và hữu hiệu nhằm bảo
hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Vai trò của thuế quan thể hiện ở chỗ thuế quan là công cụ quan trọng
nhằm điều tiết hoạt động XNK và thể hiện chính sách đối ngoại của một quốc
gia và bảo hộ sản xuất trong nước, hạn chế sự cạnh tranh của hàng hóa nước


2
Giáo trình thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam (2003), GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB Giáo dục.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 8 Nhật 1 K44E

ngoài. Mặt khác, thuế quan còn góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước. Đối
với cá nhân, việc đánh thuế sẽ làm giảm tiêu dùng cá nhân cho hàng hóa này
sang hàng hóa khác theo mong muốn của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu Nhà nước
đánh thuế cao vào hàng nhập khẩu thì người tiêu dùng giảm tiêu dùng hàng nhập
khẩu, tăng tiêu dùng hàng trong nước. Đối với Chính phủ, thuế quan góp phần
tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà
nước Việt Nam là các loại thuế, trong đó thuế xuất nhập khẩu là nguồn thu
lớn vì dễ thu và phí cho việc thu thuế thấp, thuế suất hàng nhập khẩu cao vì
yêu cầu bảo hộ cho các ngành công nghiệp non trẻ. Theo số liệu của WB,
trong số 85 nước thì có 60 nước có nguồn thu từ thuế chiếm 80% ngân sách
Nhà nước. Trong đó, thu ngân sách từ thuế của Mỹ và Nhật chiếm 95%, Việt
Nam chiếm 90% ngân sách Nhà nước. Đồng thời, thuế quan còn là công cụ
quan trọng trong đàm phán quốc tế, góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại.
Trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết cắt giảm khoảng 30%
mức thuế nhập khẩu hiện hành và sẽ thực hiện chủ yếu trong vòng 5 năm kể

từ khi gia nhập WTO. Những ngành có cắt giảm thuế nhiều nhất là dệt may:
63%, cá và sản phẩm cá: 38%, gỗ giấy: 33%, máy móc thiết bị điện, điện tử:
24%. Bên cạnh đó, khi tham gia các FTA như CEPT/AFTA, FTA giữa
ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc, thì đến năm 2015 chúng ta sẽ phải tự do
hóa thuế quan, giảm thuế nhập khẩu xuống 0% với các đối tác này
3

Thuế quan có rất nhiều loại, bao gồm thuế tính theo giá, thuế tuyệt đối,
thuế theo mùa, hạn ngạch thuế, thuế lựa chọn, thuế hỗn hợp… Dựa vào đối
tượng đánh thuế, thuế quan chia làm thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Trong
chính sách ngoại thương, nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước, thì thuế nhập
khẩu là một công cụ vô cùng hữu hiệu. Nhìn chung, chúng ta có thể hiểu: Thuế
nhập khẩu là một loại thuế quan đánh vào hàng mậu dịch, phi mậu dịch, khi


3

Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 9 Nhật 1 K44E

hàng hóa đi qua khu vực hải quan của một nước
4
. Hoặc hiểu theo góc độ kinh tế
đơn thuần, thuế nhập khẩu là một khoản tiền mà đối tượng nộp thuế phải nộp
cho cơ quan hải quan nước có hàng hóa đi qua khu vực hải quan của nước đó.
Vai trò lớn nhất của thuế nhập khẩu là tác động bảo hộ sản xuất thay thế
nhập khẩu. Tác động này được thể hiện trong hình vẽ sau:

Hình1:Tác động bảo hộ sản xuất thay thế nhập khẩu của thuế nhập
khẩu.


Nguồn: Giáo trình kinh tế ngoại thương (2006), GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB
Lao động - xã hội.
Chúng ta giả định rằng tương quan giữa cung và cầu của sản phẩm là xác
định và bất biến. Về phía cầu, thị hiếu, giá bán các sản phẩm khác, lợi tức của
người tiêu thụ là cố định. Về phía cung, sự thay đổi kỹ thuật, các yếu tố ngoại
sinh, hay những thay đổi khác ảnh hưởng tới chi phí sản xuất đều không xảy ra.


4
Giáo trình kinh tế ngoại thương (2006), GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB Lao động - xã hội.
P
P
1
P
2
P
3
AD
AS
Q
A
B
C
Q
1
Q
2
Q
3

Q
4
O
1
3
4
2
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 10 Nhật 1 K44E

Đồng thời, không có thuế quan đánh vào nguyên vật liệu để sản xuất ra sản
phẩm đó.
Phân tích hình 1 có thể thấy AS và AD lần lượt là đường cung và đường
cầu trong nước còn P
1
là giá sản phẩm X trên thế giới. Trong điều kiện tự do
hóa thương mại, các nền kinh tế đều chấp nhận mức giá thế giới P
1
, khi đó, các
nhà sản xuất trong nước không thể định giá bán hàng hóa do mình sản xuất ra
cao hơn mức P1, họ chỉ sản xuất được một lượng OQ
1
sản phẩm X trong khi
nhu cầu tiêu thụ sản phẩm X của thị trường trong nước là OQ
4
. Như vậy, nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm X sẽ thiếu hụt một lượng là Q
1
Q
4

. Để bù đắp sự thiếu hụt
này, Nhà nước phải nhập khẩu một lượng Q
1
Q
4
sản phẩm X. Lúc này, nhà sản
xuất nước ngoài sẽ được lợi do xuất khẩu được hàng hóa. Tuy nhiên, để tạo điều
kiện cho ngành sản xuất trong này phát triển, Chính phủ phải điều chỉnh chính
sách thương mại bằng việc đánh thuế nhập khẩu đối với những hàng hóa nhập
khẩu có sự cạnh tranh mạnh với hàng sản xuất trong nước với một mức thuế
suất nhất định, giả sử thuế suất đó là t%. Khi đó, giá sản phẩm X sẽ là: P
2
=
P
1
*(1+t). Lúc đó, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm X của thị trường trong nước tăng từ
OQ
1
đến OQ
2
, các nhà sản xuất trong nước sản xuất được một lượng OQ
3
sản
phẩm X, chênh lệch giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước sau khi đánh thuế
(tại mức giá P
2
) giảm từ Q
1
Q
4

xuống còn Q
2
Q
3
. Do vậy, lượng hàng thiếu hụt
cần bổ sung bằng nhập khẩu đã giảm đi còn ( OQ
3
- OQ
2
). Tác động nói trên
thường được gọi là “tác động bảo hộ sản xuất thay thế nhập khẩu của thuế
quan”.
Có thể thấy rằng, sau khi đánh thuế nhập khẩu đối với hàng hóa X,
mức giá sản phẩm X bán ở thị trường trong nước tăng từ P
1
lên P
2
. Theo tính
chất của đường cầu: lợi ích của người tiêu dùng là nằm phía dưới đường cầu
và phía trên đường giá cả. Giá tăng từ P1 lên P
2
làm cho phần diện tích thể
hiện lợi ích của người tiêu dùng giảm đi một diện tích bằng 1+2+3+4. Hay
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 11 Nhật 1 K44E

nói cách khác 1+2+3+4 chính là phần thiệt hại của người tiêu dùng khi sản
phẩm X bị đánh thuế nhập khẩu. Theo tính chất của đường cung thì lợi ích của
nhà sản xuất là phần nằm dưới đường giá cả và nằm trên đường cung. Do vậy
khi giá tăng, lợi ích của nhà sản xuất trong nước tăng lên, phần lợi ích này được

biểu diễn trong mô hình đó là 1. Còn về phía Chính phủ, lợi ích mà Chính phủ
thu được thông qua việc đánh thuế là : Q
2
Q
3
*P
1
*t = Q
2
Q
3
*(P
2
- P
1
), hay đó
chính là diện tích phần c trên hình vẽ.
Như vậy, phần thiệt hại là 1+2+3+4, trong khi đó phần lợi ích thu
được chỉ là 1,3, còn phần 2&4 thì không ai được hưởng lợi ích này hay đây
chính là phần tổn thất của xã hội do việc đánh thuế. Trong đó: phần 2 là tổn
thất do một phần chi phí sản xuất thêm lượng Q
1
Q
2
cao hơn so với nhập khẩu
bên ngoài còn phần 4 là tổn thất của nền kinh tế do bị cắt giảm tiêu dùng so
với mức giá thấp.
Ngoài ra, thuế quan nhập khẩu còn giúp phần làm giảm lượng thâm hụt
cán cân thương mại, làm cho tình hình cán cân thanh toán được cải thiện.
Nhưng ngược lại, thuế nhập khẩu lại giúp bảo hộ cho những doanh nghiệp

làm ăn kém hiệu quả, làm giảm hoặc có thể mất hẳn những lợi ích do phân
công lao động quốc tế mang lại. Có thể nói đây là một trong những nguyên
nhân thất bại, không giúp tăng trưởng kinh tế khi các nước đang thực hiện
chiến lược CNH sản xuất thay thế nhập khẩu vào những năm 50 của thế kỷ
XX. Còn về lâu dài, nếu mức thuế nhập khẩu quá cao sẽ làm nảy sinh hiện
tượng buôn lậu để kiếm lời. Do vậy, chỉ nên áp dụng trong một số trường hợp
cụ thể, trong ngắn hạn, sau khi đã cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng hoặc áp dụng
trên phương diện phi kinh tế.
Trong hệ thống chính sách thương mại, chính sách thuế quan khi áp
dụng có ưu điểm là rõ ràng, ổn định và có khả năng dự báo cao. Điều này cho
phép các quốc gia đàm phán dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thuế quan cao sẽ hạn
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 12 Nhật 1 K44E

chế sự phát triển của TMQT, kìm hãm sự phát triển của kinh tế thế giới, dẫn tới
tình trạng buôn lậu, trốn thuế, hạn chế nhập khẩu, không tạo ra môi trường cạnh
tranh trong nước, cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đi ngược lại xu thế
tự do hóa thương mại hiện nay. Đồng thời, thuế quan lại không tạo được rào
cản nhanh chóng trong các trường hợp khẩn cấp như số lượng hàng hóa nhập
khẩu tăng đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Để khắc phục nhược điểm trên, trong những trường hợp như vậy, người ta sẽ
áp dụng chính sách phi thuế quan
2. Chính sách phi thuế quan (Non-tariff measures)
Đây là công cụ ngoài thuế quan, có vai trò quan trọng thứ hai trong
hệ thống chính sách thương mại của một quốc gia. Chính sách phi thuế quan
là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các
quốc gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn nhằm hạn chế nhập
khẩu
5
. Còn theo WTO, chính sách phi thuế quan là những biện pháp phi thuế

quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý,
khoa học hoặc bình đẳng.
Chính sách phi thuế quan thường bao gồm các biện pháp hạn chế định
lượng; các biện pháp có tính rào cản kỹ thuật; những biện pháp về vệ sinh, an
toàn thực phẩm, về kiểm dịch động thực vật; những hạn chế dựa vào tiêu
chuẩn kỹ thuật như quy định các tiêu chuẩn về kích cỡ, bao bì, ký mã hiệu…
đối với hàng nhập khẩu…
Các biện pháp này có ưu điểm: Phong phú về hình thức, đáp ứng được
cùng một lúc nhiều mục tiêu khác nhau, nhiều biện pháp phi thuế chưa bị cam
kết cắt giảm hay xóa bỏ theo luật pháp quy định. Tuy nhiên cũng tồn tại các
nhược điểm như: Khó khăn, tốn kém trong quá trình quản lý, sử dụng các
biện pháp phi thuế và Nhà nước không hoặc ít thu được các lợi ích tài chính.


5
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD 1997
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 13 Nhật 1 K44E

2.1. Các biện pháp hạn chế định lượng (Quantitative Restriction)
2.1.1. Cấm nhập khẩu.( Prohibbition)
Cấm nhập khẩu là những quy định của Nhà nước không cho phép
nhập khẩu những mặt hàng nào đó trong những thời kỳ nhất định.
Hàng hóa cấm nhập khẩu là những hàng hóa tuyệt đối không được
phép đưa vào thị trường nội đại để lưu thông tiêu dùng
6

Biện pháp cấm nhập khẩu được Chính phủ các quốc gia thực hiện
nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo hộ một số ngành
sản xuất trong nước và quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, đây là biện

pháp bảo hộ cao, gây ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế nên
WTO không cho phép sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, hiện nay 3/4 các
nước thành viên của WTO là các nước kém phát triển như Selegan, Uganda,
Việt Nam… nên trình độ phát triển không đồng đều. Do vậy, các quốc gia có
thể sử dụng biện pháp cấm nhập khẩu trong một số trường hợp như: Đảm bảo
an ninh quốc gia, tài nguyên môi trường, đạo đức xã hội, với điều kiện là các
biện pháp này cần phải được thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay
tiêu dùng nội địa liên quan đến chúng. Ngoài ra, tại Điều XX GATT 1994 còn
quy định: Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan
hiếm lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác. Tháng 9 năm
2008, sau khi hàng loạt các sản phẩm sữa Trung Quốc có chứa Melamine bị
phát hiện, rất nhiều quốc gia đã tuyên bố cấm nhập khẩu mặt hàng này từ
Trung Quốc như Nga, Brazil, EU… Đầu năm 2009, dịch cúm lợn xuất hiện ở
Mexico, sau đó nhanh chóng lan nhanh ra nhiều quốc gia trên thế giới, khiến
nhiều quốc gia như Nga, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore ngay lập tức ban
lệnh cấm nhập khẩu lợn nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng nội địa. Việc


6
Giáo trình kinh tế ngoại thương (2006), GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB Lao động - xã hội.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 14 Nhật 1 K44E

áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu này của Chính phủ các nước là hoàn toàn
đúng đắn, không vi phạm các quy định của WTO.
2.1.2. Hạn ngạch nhập khẩu (Import Quotas)
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng (Quota) đã trở nên ngày càng quan
trọng trong những năm gần đây, là một công cụ phổ biến trong hàng rào phi
thuế quan. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc
giá trị một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất đi (hoặc) nhập về

(từ) một thị trường trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
7

Hạn ngạch được áp dụng nhằm mục đích bảo hộ thị trường trong nước,
sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và thực
hiện các cam kết của Chính phủ với nước ngoài.
Hạn ngạch nhập khẩu thường là một hình thức hạn chế về số lượng và
thuộc hệ thống không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho
một loại sản phẩm đặc biệt nào đó, thì Nhà nước đưa ra một định ngạch (tổng
định ngạch), nhập khẩu mặt hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định,
không kể nguồn gốc hàng hóa đó từ đâu đến.
Thông thường, hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy
phép nhập khẩu cho một số công ty. Tại Việt Nam, Bộ Công thương là cơ
quan chịu trách nhiệm phân bổ hạn ngạch. Còn ở Mỹ, phần lớn các quota
nhập khẩu do Cục hải quan Mỹ(US Customs Service) quản lý. Hội đồng Hải
quan (Commissioner of Customs) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota
nhưng không có quyền cấp, hay thay đổi quota. Quota nhập khẩu của Mỹ có
thể chia thành 2 loại: Hạn ngạch giảm thuế (Tariff - rate quota) và hạn ngạch
tuyệt đối (Absolute quota).
8



7
Giáo trình kinh tế ngoại thương (2006), GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB Lao động - xã hội
8

Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 15 Nhật 1 K44E


Bên cạnh những tác động tích cực, hạn ngạch tạo ra nhiều yếu tố tiêu
cực hơn so với thuế quan. Các doanh nghiệp được cấp hạn ngạch dễ trở thành
người độc quyền trên thị trường do vậy họ có thể tuỳ tiện áp đặt giá cả… Rồi
việc để các nhà nhập khẩu nhận được hạn ngạch nếu không phải đấu giá thì
dễ dẫn đến tình trạng tham ô quan liêu
2.1.3. Giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu hàng hóa là một biện pháp quản lý nhập khẩu
dưới dạng hạn chế số lượng. Là những quy định hành chính của Nhà nước
yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện trước khi nhập khẩu hàng hóa.
Giấy phép nhập khẩu hàng hoá được áp dụng nhằm các mục đích quản
lý lượng hàng hóa xuất đi nhập về phải phục vụ cho công tác thống kê lập kế
hoạch, chống các hiện tượng gian lận thương mại, buôn lậu, góp phần bảo vệ
thị trường và sản xuất nội địa, đồng thời thực hiện các cam kết với nước
ngoài.
Giấy phép nhập khẩu hàng hóa được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cho phép bằng việc cấp cho nhà nhập khẩu giấy phép nhập khẩu. Tại
Việt Nam, Bộ Công thương là cơ quan có trách nhiệm cấp giấy phép nhập khẩu
phần lớn các hàng hóa, một số loại hàng hóa khác do các Bộ Chuyên ngành cấp
như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy sản, Ngân hàng Nhà
nước…
Giấy phép nhập khẩu gồm 2 loại:
* Giấy phép tự động: Là một văn bản cho phép thực hiện ngay lập tức
không có điều kiện gì đối với người làm đơn xin giấy phép.
* Giấy phép không tự động: Là một văn bản cho phép thực hiện khi
người nhập khẩu đáp ứng được một số yêu cầu nhất định. Loại giấy phép này
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 16 Nhật 1 K44E

thường được cấp trong các trường hợp quản lý hàng hóa bằng biện pháp hạn
ngạch nhập khẩu hoặc bị ràng buộc bởi các hạn chế khác về nhập khẩu.

Về vấn đề cấp giấy phép nhập khẩu, WTO quy định: các thủ tục phải
minh bạch, rõ ràng, không gây phiền toái cho doanh nghiệp, có thể dự đoán
trước và không cản trở thương mại.
Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như thủ tục cấp giấy
phép của chính quyền nhà nước đã tạo khả năng hạn chế nhập khẩu mạnh.
Thông qua giấy phép Nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động ngoại
thương, vào khối lượng nhập khẩu cũng như phương hướng lãnh thổ có lợi
hoặc bất lợi cho các doanh nghiệp. Chế độ giấy phép nhập khẩu thường được
áp dụng kết hợp với hạn ngạch nhập khẩu và quản lý ngoại hối.
2.2. Các chính sách tài chính tiền tệ
2.2.1. Ký quỹ nhập khẩu. Đây là việc Nhà nước yêu cầu các doanh
nghiệp phải ký quỹ tại ngân hàng một khoản tiền nhất định trước khi nhập
khẩu.
2.2.2. Quản lý ngoại hối. Là việc Nhà nước quy định các điều kiện đối
với doanh nghiệp trong việc sử dụng và tiếp cận ngoại tệ để nhập khẩu hàng
hóa. Thực tiễn biện pháp này nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng ngoại hối,
cân bằng cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá hối đoái, bảo vệ dự trữ ngoại hối
và ngăn chặn nguồn vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài.
Theo đó, tất cả các nguồn thu ngoại hối đều phải tập trung vào ngân
hàng hoặc những cơ quan ngoại hối. Việc sử dụng nguồn ngoại hối này phải
được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Thông qua quản lý ngoại hối, Nhà
nước có thể kiểm soát và hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài,
đồng thời tạo khả năng ổn định tỷ giá hối đoái.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 17 Nhật 1 K44E

2.2.3. Cơ chế nhiều tỷ giá. Là việc Nhà nước quy định các mức tỷ giá
khác nhau trong việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp.
2.3. Rào cản kỹ thuật (Technical Barrier to Trade - TBT)
Rào cản kỹ thuật bao gồm các quy định, luật lệ, yêu cầu về các tiêu

chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu, nếu sản phẩm nhập
khẩu không đáp ứng được các yêu cầu đã quy định thì sẽ không được đưa vào
thị trường nội địa.
Rào cản kỹ thuật có đặc điểm chung là liên quan tới quá trình từ sản
xuất tới phân phối, tiêu dùng; rất phong phú về hình thức, rất tinh vi và dễ bị
lợi dụng. Hiện nay, các tiêu chuẩn kỹ thuật được các quốc gia sử dụng ngày
càng rộng rãi cho tất cả các lĩnh vực và vô cùng hữu hiệu. Chẳng hạn, hàng
hóa muốn vào Thổ Nhĩ Kỳ phải có giấy kiểm soát chất lượng nhập khẩu do
các cơ quan chức năng của nước này cấp để thay thế giấy phép nhập khẩu, kể
cả hàng hóa có chứng nhận quốc tế
9
. Hoặc, nhằm thắt chặt hơn việc quản lý
nguồn gốc sản phẩm gỗ, Mỹ đã ban hành đạo luật Lacey và đòi hỏi các nhà
xuất khẩu phải có chứng nhận FSC, một tiêu chuẩn khắt khe và không dễ áp
dụng đối với thực trạng trồng rừng tại VN
10

Rào cản kỹ thuật được áp dụng nhằm giúp người tiêu dùng dễ dàng
lựa chọn và sử dụng những sản phẩm thích hợp có chất lượng và thông số kỹ
thuật phù hợp với yêu cầu của mình,giúp cho việc sản xuất theo quy mô lớn
theo một thông số nhất định về kích thước, tiêu hao nguyên liệu, bán thành
phẩm được sản xuất từ nhiều nguồn gốc khác nhau và các bên có thể hiểu
nhau khi đàm phán về một mặt hàng.


9
/>html
10



Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 18 Nhật 1 K44E

Tuy nhiên trong thực tế, ngoài những mục đích mang tính chất tích cực
trên, rào cản kỹ thuật thường được các nước phát triển sử dụng vì đó là lợi thế
của họ và được biến thành một công cụ cạnh tranh hữu hiệu.
Rào cản kỹ thuật là một đòi hỏi khách quan khi xã hội loài người ngày
càng phát triển. Song ngày nay nó lại đang được các nước phát triển áp dụng
để ngăn chặn hàng hóa của nước ngoài vào trong nước mình một cách rất
khéo léo. Chính vì vậy rào cản kỹ thuật còn có một tên khác là công cụ siêu
bảo hộ.
3. Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
Bên cạnh vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước, việc thâm nhập và chiếm
lĩnh thị trường nước ngoài là mục tiêu mà chính sách thương mại của bất kỳ
một quốc gia nào cũng hướng tới. Do vậy, có thể nói, đẩy mạnh xuất khẩu là
phương hướng chủ yếu của chính sách ngoại thương, và việc hình thành một
hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành công cụ quan trọng nhất
để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu là các biện pháp của Chính phủ được
thực hiện nhằm hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu.
11

Mục đích của chính sách hỗ trợ xuất khẩu là nhằm hỗ trợ mở mang
hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tạo điều kiện cho người xuất khẩu
cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các biện pháp chủ yếu sau:
3.1. Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu.


11

Điều chỉnh chính sách thương mại trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, (2009) TS. Phạm Thị Hồng Yến, NXB Lao động - xã hội.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 19 Nhật 1 K44E

Là biện pháp mở rộng xuất khẩu thông qua việc Nhà nước (tư nhân)
dành cho các nhà nhập khẩu nước ngoài những khoản vốn vay để người vay
dùng tiền đó để mua hàng của nước cho vay.
Chính sách này gồm một số hình thức như: Tín dụng của nhà xuất
khẩu trực tiếp cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài, tín dụng của các tổ chức tài
chính, các ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài, tín dụng của Nhà
nước…
Hiện nay, trên thế giới, việc sử dụng biện pháp này đang có xu hướng
tăng tín dụng trung và dài hạn, giá trị của tín dụng Nhà nước ngày càng tăng,
giá trị tín dụng xuất khẩu ngày càng lớn.
3.2. Nhà nước bảo đảm tín dụng xuất khẩu.
Là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách Nhà nước lập ra các
quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Quỹ này thực hiện gánh vác các rủi ro, các tổn thất
mà nhà nhập khẩu nước mình có thể gặp phải khi bán chịu hàng hóa ra nước
ngoài.
Khi một doanh nghiệp bán chịu hàng hóa ra nước ngoài, doanh nghiệp
đó thường gặp hai loại rủi ro. Đó là rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị. Trong đó,
rủi ro kinh tế là rủi ro các nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán khi
đến hạn phải trả tiền, còn rủi ro chính trị là những biến cố xảy ra giữa các
nước khiến cho người nhập khẩu không thể thanh toán tiền hàng cho người
xuất khẩu.
Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này, Nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác
mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu nước mình dành
cho nhà nhập khẩu nước ngoài, với mức đền bù phụ thuộc vào từng mặt hàng
nhưng thông thường, mức đền bù là từ 70 - 80% giá trị lô hàng. Điều này

khiến cho các nhà xuất khẩu yên tâm mà mở rộng xuất khẩu.
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Cẩm Hằng 20 Nhật 1 K44E

3.3. Trợ cấp xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu là biện pháp khuyến khích xuất khẩu cổ xưa, bắt đầu
từ thời kì chủ nghĩa trọng thương cho đến nay. Sau Chiến tranh thế giới II, trở
thành thủ đoạn trọng yếu của tư bản độc quyền nhằm chiếm đoạt thị trường
thế giới, tiến hành bán tháo hàng hoá. Hiện nay, các nước đang phát triển
cũng thông qua trợ cấp xuất khẩu, nâng đỡ một số ngành sản xuất để phát
triển nền kinh tế dân tộc.
Theo quan điểm của WTO ( quy định trong hiệp định SCM) thì trợ
cấp là việc Chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều
kiện thông thường doanh nghiệp không thể có.
Trợ cấp xuất khẩu gồm 2 hình thức:
Trợ cấp trực tiếp: Là việc Nhà nước trực tiếp giành cho doanh nghiệp
những thuận lợi khi xuất khẩu hàng hóa như: Trực tiếp cấp tiền hoặc Chính
phủ bảo lãnh các khoản vay, hoặc miễn các khoản thu kẽ ra phải đóng, áo
dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu…Từ đó trực tiếp làm giảm giá
thành tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu.
Trợ cấp gián tiếp: Nhà nước gián tiếp hỗ trợ cho các doanh nghiệp gia
tăng xuất khẩu như: Giới thiệu, triển lãm… Hoặc giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo
chuyên gia
Trợ cấp xuất khẩu được sử dụng như một công cụ để đẩy mạnh xuất
khẩu, ngoài ra trợ cấp còn có tác dụng nhiều mặt như góp phần cải tiến công
nghiệp nội địa và thúc đẩy xuất khẩu, điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng
kinh tế, kích thích lan truyền hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu
cực. Ngoài ra, trợ cấp xuất khẩu còn được dùng như một công cụ để “mặc cả”
trong đàm phán quốc tế
Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Cẩm Hằng 21 Nhật 1 K44E

Tuy nhiên, trợ cấp xuất khẩu cũng có rất nhiều mặt trái, trợ cấp bóp
méo tín hiệu thị trường trong môi trường thương mại tự do trong khi đó, chi
phí cơ hội của trợ cấp là rất lớn và xét về dài hạn, trợ cấp có thê cản trở sự
phát triển của chính ngành được trợ cấp do tạo nên sự độc quyền, ỷ lại do có
sự ưu đãi của Nhà nước. Xét về mặt tài chính ngân sách, trợ cấp không hiệu
quả, xác suất lựa chọn sai đối tượng trợ cấp khá cao và có thể dẫn đến hành
động trả đũa.
3.4. Bán phá giá hàng hóa.( Dumping)
Là việc bán hàng hóa thấp hơn giá sản xuất nhằm mục tiêu xâm nhập
mạnh mẽ vào một thị trường nào đó và đánh bại các đối thủ cạnh tranh, chiếm
lĩnh thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và cuối cùng đạt được
lợi nhuận tối đa. Bán phá giá do bản thân doanh nghiệp tự chủ động thực hiện
và tác động đến mặt hàng bán phá giá và thị trường tiến hành bán phá giá.
Nguồn tài chính bù vào thiệt hại do bán phá giá bao gồm: Lợi nhuận
cao do chiếm lĩnh được thị trường nước nhập khẩu và Các khoản tài trợ của
Chính phủ.


3.5. Bán phá giá hối đoái (Exchange Dumping).
Là việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài với giá trị thấp hơn của đối
thủ cạnh tranh do việc sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất giá của
đồng tiền bản tệ. Trong đó, mất giá đối ngoại lớn hơn mất giá đối nội.
Khác với bán phá giá hàng hóa, trong phá giá hối đoái, giá bán không
bao giờ thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường nước ngoài có thể cao
hơn giá bán trong nước vì bán phá giá hối đoái xảy ra với tất cả các hàng hóa
một cách tự động

×