Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm miền trung hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 167 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH



BÁO CÁO TỔNG QUAN
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
2008-2009

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG HIỆN NAY



Chủ nhiệm đề tài: TS. LÊ VĂN ĐỊNH
Cơ quan chủ trì đề tài: Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III



7489
21/8/2009

Đà Nẵng - Tháng 6 năm 2009


2











CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA THỰC HIỆN CHÍNH ĐỀ TÀI:

TS. Lê Văn Định (Chủ nhiệm đề tài)
ThS. Nguyễn Thị Yến (Thư ký đề tài)
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn
PGS.TS. Trương Minh Dục
ThS. Phan Thanh Giản
CN. Phạm Đi
CN. Vũ Thái Hạnh
3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
Chương 1
. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG VÀ SỰ
NẢY SINH CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
19
1. Xây dựng, phát triển các KCN và tác động của chúng tới sự phát triển
kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
19
2. Một số vấn đề xã hội chủ yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát
triển các KCN ở Việt Nam hiện nay
32

Chương 2
. THỰC TRẠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI NẢY SINH TRONG
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CÁC KCN Ở VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG
44
1. Lao động và việc làm - vấn đề xã hội đáng quan tâm trong quá trình
xây dựng, phát triển các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
44
2. Đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong các KCN còn
thấp kém và nghèo nàn
54
3. Tái định cư trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN đang chứa
đựng nhiều vấn đề bức xúc
59
4. Bãi công, đình công, lãn công trong các KCN vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung đang báo hiệu nhiều vấn đề bất cập cần được giải quyết
70
5. Ô nhiễm môi trường sống do các KCN đang trở thành vấn đề nóng
bỏng
76
6. Hiện tượng khiếu kiện, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện tập thể gia
tăng trong thời gian gần đ
ây
86
Chương 3
. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT
CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN CÁC KCN Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN
TRUNG HIỆN NAY
91

1. Những quan điểm chủ đạo giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình xây dựng, phát triển các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung
91
2. Một số giải pháp cơ bản giả
i quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình xây dựng, phát triển các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung hiện nay
98
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
4


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH
: Công nghiệp hóa
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
GS
: Giáo sư
HĐH
: Hiện đại hóa
FDI
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCN
: Khu công nghiệp

KH&CN
: Khoa học và công nghệ
Nxb
: Nhà xuất bản
PGS
: Phó giáo sư
SX-KD
: Sản xuất - kinh doanh
ThS
: Thạc sĩ
Tp
: Thành phố
TS
: Tiến sĩ
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
UBND
: Ủy ban Nhân dân
UNDP
: Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
VKTTĐ
: Vùng kinh tế trọng điểm
VKTTĐMT
: Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
WB
: Ngân hàng Thế giới
XHCN
: Xã h
ội chủ nghĩa
5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một xuất phát
điểm rất thấp, quan điểm của Đảng và nhà nước ta là phải "Kết hợp hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ trong việc giả
i quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy
lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội"
1
. Nghĩa là, chúng ta phải vừa coi
trọng việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, vững chắc, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại, vừa phải giải quyết tốt nhất các vấn
đề xã hội nhằm đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tế, việc ưu tiên
phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quốc tế
hóa nhằm
mục tiêu xây dựng và phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
(CNXH)… tự thân nó đã hướng đến việc giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra
như tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và mức
sống cho người dân,… Tuy nhiên, do những đặc trưng riêng của các vấn đề
xã hội mà đời sống kinh tế, dù rất phát triển cũng khó có thể
giải quyết một
cách toàn diện. Thậm chí, đôi khi, chính các chương trình phát triển kinh tế
lại là nguyên nhân làm nảy sinh, trầm trọng hóa các vấn đề xã hội. Đến lượt
nó, các vấn đề xã hội đó lại trở thành lực cản đối với việc đảm bảo hiệu quả
bền vững của các chương trình kinh tế. Bởi vậy, việc chủ động giải quyết các
vấn đề xã hộ
i nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế là một việc làm cần thiết đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn
xã hội nói chung, của bản thân các chương trình kinh tế cụ thể nói riêng.

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (có thể còn được gọi là vùng kinh
tế trọng điểm Trung bộ) bao gồm 5 tỉnh/thành là Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định có diện tích 27.879 km
2
(chiếm
8,47% diện tích đất nước), dân số năm 2007 khoảng 6,3 triệu người (chiếm
7,49% dân số cả nước). Do nằm trên các trục giao thông quốc gia, quốc tế về


1
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.203.
6

đường sắt, đường bộ, đường biển, đường hàng không nên vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung được đánh giá là vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển.
Đây cũng là vùng có tài nguyên thiên nhiên và xã hội phong phú, đa dạng,
có thể khai thác tạo ra lợi thế so sánh cho vùng trong phát triển.
Quyết định 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phương
hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đã xác định: vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung là vùng kinh tế động lực, có vai trò "đầu tàu" kéo cả khu
vực miền Trung và Tây Nguyên cùng phát triển trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, những chính sách, giải
pháp đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng đã làm cho tốc
độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của vùng luôn cao hơn mức tăng bình quân củ
a
cả nước. Trong thời gian này, các địa phương trong vùng đã xây dựng nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất, (sau đây được gọi chung là khu công nghiệp
và xin được viết tắt là KCN)

2
. Tính đến nay, ở vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung đã hình thành một hệ thống các KCN đa dạng với nhiều quy mô khác
nhau. Ngoài các Khu kinh tế lớn của vùng như Chân Mây, Chu Lai, Dung
Quất, Nhơn Hội, trong vùng hiện có 19 KCN lớn đã đi vào hoạt động. Đó là
chưa kể đến hàng chục khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ khác ở các
quận/huyện do cấp quận/huyện quản lý.
Mặc dù, tổng diện tích các KCN này ch
ỉ chiếm 8,1% tổng diện tích đất
tự nhiên các KCN trong cả nước nhưng 71% tổng diện tích của chúng đã
được cho thuê (hay còn gọi là lấp đầy). Đây là tỷ lệ cao nhất so với các vùng
kinh tế trọng điểm khác trong nước: vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ diện
tích đã thuê đạt 57,7%; Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đạt 53,9%. Các KCN
này đã thu hút hàng nghìn dự án với số vốn đầu tư
hàng tỷ đô la, giải quyết
việc làm cho hàng chục vạn lao động, Như vậy, xây dựng và phát triển các


2
Theo Nghị định số 192/CP ngày 25.12.1994 của Chính phủ, các KCN được định nghĩa là các khu vực công nghiệp tập
trung, không có dân cư, được thành lập với các ranh giới được xác định nhằm cung ứng các dịch vụ để hỗ trợ sản xuất
KCN theo mô hình mới là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống được thành lập và tổ ch
ức hoạt
động theo chính sách đổi mới, mở cửa do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng.
7

KCN tập trung trong vùng là một hướng đi đúng đắn, phù hợp để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quốc tế hóa nền kinh tế của
các địa phương trong vùng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công và những lợi ích kinh tế - xã hội
to lớn mà các KCN mang lại, quá trình xây dựng, phát triển các KCN này
cũng đang làm nảy sinh một số vấn đề xã hội bức xúc. Đó là các vấn đề nh
ư:
- Mâu thuẫn giữa cung và cầu lao động diễn ra gay gắt. Trong khi
nguồn cung lao động trên địa bàn khá dồi dào, tỷ lê thất nghiệp đô thị (thất
nghiệp toàn phần) còn cao, tình trạng người lao động thiếu việc làm còn phổ
biến thì các doanh nghiệp trong các KCN lại luôn ở trong tình trạng thiếu lao
động một cách trầm trọng, nhất là lao động kỹ thuật, lao động trình độ cao.
Điều đó ảnh hưởng rất lớ
n đến hiệu quả kinh tế trước mắt cũng như xu hướng
phát triển bền vững của các KCN trong vùng.
- Vấn đề tái định cư và hậu tái định cư ngày càng trở nên bức xúc trong
dư luận xã hội. Trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN, việc giải
phóng mặt bằng, chuyển đổi một bộ phận đất ở, đất nông nghiệp sang đất
công nghiệp là tất yếu nhưng mối quan hệ
về lợi ích giữa các bên liên quan đã
không được giải quyết thỏa đáng: phương án giải tỏa, đền bù chưa thật công
khai, minh bạch; giá cả đền bù thấp hơn so với giá thị trường và luôn biến
động tăng; các khu tái định cư, khu dân cư xây dựng với tiến độ chậm, chất
lượng không đảm bảo; các vấn đề về việc làm, thu nhập, tổ chức đời sống,
cho người dân sau tái
định cư không được quan tâm giải quyết thỏa đáng
khiến cho chất lượng đời sống của người dân tái định cư bị sút giảm. Tình
trạng tố cáo, khiếu kiện vì thế đã gia tăng, gây nên bất ổn xã hội.
- Trong những KCN đã đi vào hoạt động, thời gian gần đây, hiện tượng
bãi công, đình công, lãn công bùng phát phức tạp. Mặc dù số lượng các cuộc
bãi công, đình công, lãn công trong KCN vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung
chưa nhiều nếu so sánh với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhưng cũng đã

cho thấy sự gia tăng những bất ổn liên quan đến quan hệ lợi ích giữa người
8

lao động với giới chủ doanh nghiệp trong các KCN đang ngày càng trầm
trọng hơn. Nó đòi hỏi phải được các cấp ngành chức năng và các bên liên
quan quan tâm, giải quyết hầu đảm bảo sự phát triển bền vững của các KCN
trong vùng.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường sống do các KCN không làm tốt công tác
bảo vệ môi trường cũng là một vấn đề “nóng bỏng” trong bối cảnh hiện nay.
Hiện tượ
ng nước thải, khí thải, rác thải rắn từ các KCN xả trực tiếp ra các khu
vực xung quanh KCN làm ô nhiễm nguồn nước, nguồn không khí, ảnh hưởng
đến đời sống, sức khỏe của người dân đang gây nhiều bức xúc trong xã hội
nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Đây cũng là một nguyên
nhân dẫn đến việc người dân sống gần các KCN gửi nhiều đơ
n thư tố cáo,
khiếu kiện đến nhiều cơ quan chức năng trong quá trình các KCN vận hành.
- Các KCN được xây dựng, lấp đầy, các doanh nghiệp trong các KCN
được tạo điều kiện ưu đãi để phát triển sản xuất - kinh doanh nhưng đời sống
vật chất và tinh thần của người lao động vẫn chưa được quan tâm thích đáng,
lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động không được bả
o vệ đúng mức,
thậm chí còn bị xem nhẹ, bị vi phạm. Đây là vấn đề đáng báo động vì đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bãi công, đình công, lãn
công và khiếu kiện (cá nhân, tập thể) kéo dài phức tạp.
- Trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN trong vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung, hiện tượng khiếu kiện, thậm chí là khiếu kiện vượt
cấp có xu hướng gia tăng. Đ
ây là một trong những vấn đề xã hội đáng báo
động vì nó cho thấy rằng việc giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích của

người dân của các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình xây dựng, phát
triển các KCN đang có nhiều vấn đề phức tạp cũng như cho thấy chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề có liên quan vẫn còn nhiều bất cập,
chưa phù hợp. Đáng lưu ý rằng, ph
ần lớn các khiếu kiện của người dân là liên
quan đến vấn đề đất đai, việc đền bù, giải tỏa - một trong những lĩnh vực phức
tạp và nhạy cảm nhất hiện nay.
9

Tuy chưa phải là tất cả, nhưng những vấn đề xã hội trên đang phản ánh
những bất cập trong quá trình xây dựng, phát triển KCN vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung. Đến lượt nó, các vấn đề đó lại trở thành lực cản làm giảm
hiệu quả kinh tế - xã hội của các KCN, làm chậm quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong vùng. Nhất là trong thời đại ngày nay, xu hướng phát triển
bền vữ
ng của nền kinh tế nói chung, của mô hình KCN nói riêng đang đòi hỏi
bất kỷ một chương trình, chiến lược kinh tế - xã hội nào cũng phải đảm bảo
được tính toàn diện và cân đối trong phát triển, tức là phải đảm bảo giải quyết
đồng bộ hài hòa giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội”, giữa giải quyết các vấn đề
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh, giữa giải quy
ết cái trước mắt
với cái lâu dài, UNESCO đã từng cảnh báo rằng: bất cứ quốc gia nào tự đặt
cho mình mục tiêu tăng trưởng kinh tế tách rời mục tiêu phát triển xã hội thì
sớm muộn quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó sẽ xảy ra sự mất cân đối nghiêm
trọng và sẽ sớm rơi vào tình trạng bất ổn. Đây là bài học kinh nghiệm quí báu
rút từ thực tế phát triển của nhi
ều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, việc nhận diện và tìm cách
giải quyết một cách căn bản các vấn đề xã hội nêu trên có vai trò rất to lớn đối
với sự phát triển bền vững của các KCN nói riêng và của nền kinh tế - xã hội

trong toàn vùng nói chung. Đây chính là lý do chủ yếu nhất thúc đẩy chúng
tôi nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình xây
d
ựng, phát triển các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Ở ngoài nước, là một phạm trù cơ bản của xã hội học nên vấn đề xã
hội (social problems) đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu Xã
hội học khác nhau. Tại các quốc gia công nghiệp phát triển, vấn đề xã hội nói
chung, các vấn đề xã hội của quá trình công nghiệp hóa nói riêng
đã được
nghiên cứu khá kỹ lưỡng theo nhiều cách tiếp cận khác nhau từ lý luận đến
thực tiễn. Ở đây có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu, có ý nghĩa nhất đối
với việc triển khai nghiên cứu đề tài:
10

- Công trình có tính kinh điển nhất nghiên cứu về các vấn đề xã hội của
xã hội công nghiệp cần tham khảo là tác phẩm rất kinh điển của nhà xã hội
học nổi tiếng Elton Mayo: “The social problems of an industrial civilization”
(Tạm dịch là: Những vấn đề xã hội của nền văn minh công nghiệp) được xuất
bản năm 1948 ở Mỹ. Trong công trình này, Elton Mayo đã phân tích nguồn
gốc, bản chất của phần l
ớn các vấn đề xã hội mà xã hội Âu - Mỹ đối mặt
trong bối cảnh các quốc gia này đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa TBCN.
- Cuốn sách “Social Problems in a Diverse Society” (Tạm dịch là:
Những vấn đề xã hội trong xã hội đang thay đổi) của Diana Kendall, do Nhà
xuất bản Paperback và Prentice Hall xuất bản năm 2006 là một công trình
nghiên cứu những vấn đề xã hội của các quốc gia đang phát triển nhanh như
các con rồng châu Á, Trung Quốc và một s
ố quốc gia đang công nghiệp hóa

khác. Đây là một tài liệu tham khảo bổ ích khi nghiên cứu các vấn đề xã hội
của KCN ở vùng nói riêng, ở Việt Nam nói chung.
Ngoài 2 công trình có liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu đề
tài nêu trên, có thể tham khảo thêm một số công trình nghiên cứu ở nước
ngoài sau đây:
- Cuốn sách “The Sociology of Social Problems” (Tạm dịch là: Xã hội
học về các vấn đề xã hội) của Paul B. Horton, Gerald R. Leslie, Richard F.
Larson, and Robert L. Horton, do Nhà xuất bản Paperback ấn hành năm 1997.
- Cuố
n sách “Social Problems - Issues and Solutions” (Tạm dịch là:
Những vấn đề xã hội - hậu quả và những giải pháp) của Charles Zastrow, do
Nhà xuất bản Hardcover ấn hành năm 1999.
- Công trình “Social Problem Solving: Theory, Research, and
Training” (Tạm dịch là: Giải quyết vấn đề xã hội - Lý thuyết, nghiên cứu và
thực hành) của Edward C. Chang, Thomas J. D'Zurilla, and Lawrence J.
Sanna, do Nhà xuất bản Hardcover ấn hành năm 2004.
11

- Công trình “Social Problems” (Tạm dịch là: Những vấn đề xã hội)
của John J. Macionis do Nhà xuất bản Paperback xuất bản năm 2005.
- Tác phẩm “Mặt trái của những con rồng” của Walden Bello và
Stephanie Rosenfeld do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia dịch và phát hành
năm 1996.
Phần lớn các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã nêu trên bước đầu
thiết lập các lý luận cơ bản về các vấn đề xã hội nói chung, các vấn đề xã hộ
i
của quá trình công nghiệp hóa nói riêng cũng như đã đề xuất các cách thức,
giải pháp khác nhau để giải quyết chúng nhằm hướng đến sự phát triển bền
vững. Vì vậy, đây là những tài liệu tham khảo hữu ích khi nghiên cứu đề tài.
Ở trong nước, cho đến thời điểm này, trên bình diện lý luận cơ bản rất

hiếm những công trình nghiên cứu cơ bản, công phu, đầy đủ về các vấn đề

hội nói chung, các vấn đề xã hội nảy sinh từ quá trình xây dựng, phát triển các
KCN nói riêng. Những công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến vấn
đề này trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung càng hiếm hơn.
Trong bối cảnh đất nước ta thực hiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời gian gần đây đã xuất hiện
một số công trình nghiên cứu có đề cậ
p một cách rải rác các chiều cạnh khác
nhau của vấn đề nghiên cứu. Các tiếp cận như vậy được đề cập một cách
riêng rẽ theo góc độ của từng khoa học khác nhau từ kinh tế học, hành chính
học, đến văn hóa và xã hội học Dưới đây có thể liệt kê một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu có liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu đề tài:
- Luận án tiến sĩ xã hội học “Nh
ững vấn đề xã hội của người nhập cư ở
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986 - 1996” của NCS Trần Trọng Đức.
Phần có thể tham khảo trong luận án này là phần lý luận và các luận giải xoay
quanh các vấn đề xã hội của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 1986 - 1996. Thêm vào đó việc phát hiện và tìm cách giải quyết những
vấn đề xã hội của người nhập c
ư được trình bày trong luận án cũng là phần
tham khảo có ích cho nghiên cứu đề tài.
12

- “Kỷ yếu KCN và khu chế xuất Việt Nam 2002” do Nhà xuất bản Tp.
Hồ Chí Minh và Thời báo kinh tế Sài Gòn ấn hành năm 2002. Đây là tổng
quan giới thiệu về các KCN, khu chế xuất cũng như các vấn đề liên quan đến
quản lý, phát triển các KCN và khu chế xuất này, trong đó phần giới thiệu các
KCN, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là tài liệu tham khảo
có ích cho đề tài, mặc dù số liệu, nh

ận định trong tài liệu cần phải được cập
nhật, bổ sung.
- Cuốn sách “Kết hợp giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội ở nông thôn Bắc Trung Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Đoàn Minh Duệ và Đinh Thế Định xuất bản năm 2003. Phần có ý
nghĩa đối với đề tài là những luận giải về quan hệ biện chứng gi
ữa phát triển
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và những giải pháp chủ yếu để kết
hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn vùng bắc
Trung bộ.
- Luận án tiến sĩ kinh tế: “Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các
tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hi
ện đại hóa” của Trần Thị Bích Hạnh” (Bảo vệ năm 2003). Phần mà đề tài
có thể tham khảo hữu ích là đánh giá về nguồn lao động và tình hình sử dụng
nguồn lao động vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như những đề xuất
nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động này trong giai đoạn hiện nay.
- Cuốn sách “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quả
n lý
nhà nước về bảo vệ môi trường ở các KCN, khu chế xuất” của Trương Thị
Minh Sâm do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2004. Cuốn sách
này là tài liệu tham khảo hữu ích cho đề tài khi nghiên cứu vấn đề ô nhiễm
môi trường trong các KCN vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Các giải pháp hoàn thiện và phát triển KCN
ở Việt Nam” của NCS Trần Ngọc Hưng (B
ảo vệ năm 2004). Luận án này đã
đánh giá khái quát về tình hình phát triển và đề xuất các giải pháp hoàn thiện,
phát triển các KCN ở Việt Nam.
13


- Luận án tiến sĩ kinh tế “Những biện pháp phát triển và hoàn thiện
công tác quản lý nhà nước đối với KCN ở Việt Nam” của NCS Lê Tuyển Cử
(Bảo vệ năm 2004). Luận án đã phân tích quá trình hình thành và phát triển
của các KCN ở Việt Nam; Đánh giá những ưu, nhược điểm trong công tác
quản lý nhà nước các KCN và nguyên nhân của chúng. Luận án là tài liệu
tham khảo hữu ích cho đề tài về quá trình phát triển các KCN vùng kinh tế
trọng
điểm miền Trung và trong vấn đề quản lý nhà nước các KCN.
- Công trình “Đời sống văn hóa đô thị và KCN Việt Nam” do
GS.TSKH Đình Quang chủ biên và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành
năm 2005. Công trình này đã khái quát đặc điểm quá trình đô thị hóa, thực
trạng đời sống văn hóa ở một số đô thị và KCN Việt Nam; Từ đó đề xuất
những khuyến nghị xây dựng, phát triển đời s
ống văn hóa ở các đô thị và
KCN trong bối cảnh đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam ở thế kỷ 21.
Những đánh giá về đời sống văn hóa ở các KCN (trong đó có khảo sát một số
KCN ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung) có thể được tham khảo khi
nghiên cứu các vấn đề về đời sống văn hóa - tinh thần ở các KCN vùng kinh
tế trọng điểm mi
ền Trung.
- Cuốn sách “Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở một số KCN phía
Bắc tới sức khoẻ cộng đồng” của Trần Văn Tùng, Đặng Phương Hoa, Nguyễn
Bá Thủy do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2005. Các tác giả
cuốn sách đã phân tích mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, phát triển bền
vững với sức khỏe cộng đồng. Từ thực trạng ô nhi
ễm môi trường ở một số
KCN phía Bắc, từ kinh nghiệm bảo vệ môi trường ở một số nước Đông Nam
Á các tác giả đã đề xuất những giải pháp và kiến nghị bảo vệ môi trường khi
phát triển các KCN ở đây. Đây là một nghiên cứu so sánh rất bổ ích trong
nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường trong KCN.

- Bài viết “Xây dựng và phát triển KCN, khu kinh tế - kết quả đạt đượ
c
trong năm 2006, những vấn đề đặt ra và nhiệm vụ cần triển khai trong năm
2007” của TS. Trần Ngọc Hưng đăng ở tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam,
14

số 1 năm 2007. Bài viết khái quát tình hình phát triển các KCN, khu kinh tế ở
Việt Nam, phát hiện những vấn đề đặt ra và những nhiệm vụ cần triển khai
tiếp trong năm 2007 nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển KCN và khu
kinh tế trên bình diện cả nước.
- Đề tài khoa học trọng điểm cấp bộ năm 2005 “Những giải pháp thu
hút đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động củ
a các khu công nghiệp ở vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung” do Lê Thế Giới làm chủ nhiệm (bảo vệ năm
2006) đã cho những đánh giá, nhận định khái quát tình hình xây dựng, phát
triển, thu hút đầu tư tại các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong
thời gian qua.
- Tập Kỷ yếu Hội nghị - Hội thảo quốc gia: “15 năm xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Vi
ệt Nam do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư ấn hành tháng 7/2006 . Đây là tập kỷ yếu tập hợp các bài viết của
nhiều nhà khoa học, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý ở trung ương và các địa
phương đánh giá về quá trình xây dựng, phát triển các KCN, khu chế xuất
cũng như các vấn đề liên quan đến quản lý, phát triển các KCN và khu chế
xuất. Trong tập kỷ yếu này có một số bài viết đánh giá quá trình xây dựng,
phát triển các KCN, khu chế xuất ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Ngoài các cuốn sách, luận án, đề tài nghiên cứu, các bài tạp chí đã nêu
trên, liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài còn có một số bài viết ngắn
đã được đăng tải trên các tạp chí vùng và quốc gia:
- “Phát triển khu công nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung” của Nguyễn Kim Hiệu đăng ở Tạp chí Công nghiệp, số 9 năm 2001.
- “Kinh t
ế mở Chu Lai, hướng đi mới của vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung” của Trần Minh Cả đăng ở tạp chí Kinh tế và dự báo, số 10 và 11 năm
2000.
- “KCN miền Trung nơi tạo thế và lực cho kinh tế xã hội miền Trung
phát triển” của Nguyễn Minh Sơn đăng ở tạp chí Phát triển Kinh tế của
Trường đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, số 86 năm 1997.
15

- “Cung và cầu lao động vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Tiệp đăng ở tạp chí Kinh tế
& phát triển, số 30 - 33; và bài “Giải pháp phát triển thị trường lao động
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung giai đoạn 2006 - 2010” của cùng tác giả
đăng ở tạp chí Lao động và xã hội, số 294 năm 2006.
- “Bảo vệ tài nguyên và môi trường trong quá trình công nghiệp hóa

vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và tỉnh Quảng Nam” của Ngô Văn Hùng
đăng ở tập san Khoa học và Sáng tạo (Quảng Nam), số 27 năm 2004.
- “Một số vấn đề xã hội Trong xây dựng và phát triển các KCN ở Việt
Nam” của Nguyễn Ngọc Dũng đăng ở tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3/2000.
- “Nâng cao tầm nhìn phát triển khu công nghiệp ở nước ta trong giai
đoạn mới” của GS. Tr
ần Ngọc Hiên đăng ở tạp chí Khu công nghiệp Việt
Nam, số 68(104) tháng 5/2006.
- “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao tính khả thi của chính sách, pháp
luật về KCN” của Lê Xuân Trinh đăng ở tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam,
số 68/2006.
- “Quản lý phát triển bền vững các khu kinh tế đặc biệt ở Việt Nam”
của Lê Thị Kim Dung đăng ở tạp chí Kinh tế và dự báo, số 8/2008.

,
Trong thời gian gần đây, dưới sự bảo trợ của Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
Phòng Thương mại & Công nghiệp VN và UBND tỉnh Quảng Nam, Báo Tuổi
Trẻ và Công ty Hòa Nhan PR (Tp. Hồ Chí Minh) đã tổ chức Diễn đàn kinh tế
miền Trung. Tại Diễn đàn này các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà báo
và các nhà lãnh đạo quản lý đã trao đổi, bàn bạc các giải pháp cải thiện môi
trường đầu tư ở miền Trung, trong đó có đề c
ập đến những vấn đề xã hội nảy
sinh trong các KCN trong vùng. Các bài viết, các phát biểu tại diễn đàn này
có thể là những tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu đề tài.
16

Như vậy, dù số lượng các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến đề tài không nhiều, nhưng đó là những tài liệu tham khảo có giá trị khi
triển khai nghiên cứu đề tài này.
3. Mục tiêu của đề tài:
3.1. Mục tiêu tổng quát của đề tài là: Nhận diện một số vấn đề xã hội
nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN ở vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung; trên cơ sở đ
ó đề ra được một hệ thống giải pháp đồng bộ,
khả thi giải quyết những vấn đề này.
3.2. Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, đề tài sẽ thực hiện các
mục tiêu cụ thể sau đây:
- Làm rõ khái niệm vấn đề xã hội và lý giải một số vấn đề lý luận liên
quan đến giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện
đại hóa, xây dựng và phát triển KCN.
- Phân tích làm rõ thực trạng, nguyên nhân, mức độ tác động của một
số vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát triển các
KCN ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

- Nêu và phân tích các quan điểm, phương hướng, đề xuất và luận
chứng hệ thống các giải pháp chủ yếu giải quyết các vấn đề xã hội
nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN ở
vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung hiện nay.
Sau khi thực hiện được 3 mục tiêu con đó thì mục tiêu tổng quát (mục
tiêu mẹ) cũng sẽ được thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở
phương pháp luận của đề tài. Trong đó, các phương pháp như lịch sử và lô-
gích, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễ
n dịch, sẽ được sử dụng phổ
biến. Ngoài ra, trong quá trình thu thập thông tin, dữ liệu, đề tài sẽ sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
17

Phương pháp điền dã thực tế (để tiến hành quan sát thực tế, thu thập
những tài liệu, dữ liệu cần thiết).
Trong quá trình điền dã thực tế các cán bộ nghiên cứu đề tài sẽ tiến
hành phỏng vấn sâu - tọa đàm với một số đối tượng được chọn sau đây:
- Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các địa phương (xã/phường,
qu
ận/huyện, tỉnh/thành phố) mà trên địa bàn có KCN
- Một số cán bộ và lãnh đạo doanh nghiệp trong các KCN.
- Một số chuyên gia công tác trong các lĩnh vực có liên quan đến các
vấn đề xã hội nảy sinh trong các KCN, như Công an, cán bộ Lao động -
Thương binh và xã hội, cán bộ quản lý môi trường, cán bộ ngành văn hóa, và
một số người dân trong vùng chịu ảnh hưởng của KCN,v.v
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Vì các KCN hết sức đa dạng về hình thức tổ ch

ức, quy mô và cấp độ
quản lý, nên để tiện cho việc nghiên cứu, đề tài chủ yếu chỉ nghiên cứu các
KCN tập trung có quy mô khá lớn do tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương
quản lý. Các KCN trực thuộc các khu kinh tế, các KCN, cụm công nghiệp nhỏ
do cấp quận/huyện quản lý không thuộc phạm vi nghiên cứu trong đề tài này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này về mặt lãnh thổ là vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung gồm 5 t
ỉnh/thành phố là Thừa Thiên - Huế, thành phố Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này về mặt thời gian là giai đoạn hiện
nay khi vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cùng cả nước bước vào quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

6. Kết cấu của báo cáo tổng quan khoa học của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo
tổng quan khoa học của đề tài được kết cấu thành 3 chương 10 tiết trong 160
trang. Sau đây là nội dung của Báo cáo tổng quan.
18

Chương 1
:
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG VÀ SỰ NẢY SINH CÁC VẤN
ĐỀ XÃ HỘI
Tiết 1:
Xây dựng, phát triển các KCN và tác động của chúng tới sự
phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
2.1. Khái quát về vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Theo Quyết định ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ
về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng

điểm đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung bao gồm 5 tỉnh/thành phố là Thừa thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quảng Ngãi và Bình Định.
So với hai vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc và phía Nam, vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung có khá nhiều lợi thế nhưng cũng đối mặt với không ít
khó khăn trong phát triển ở hiện tại và tương lai.
Về các lợi thế của vùng:
Trước hết, so với hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam,
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có vị trí địa lý tự nhiên rất thuận lợi cho
giao thương: Vùng kinh tế tr
ọng điểm miền Trung nằm trên trục giao thông
Bắc - Nam của đất nước về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng
không, hệ thống đường quốc lộ trong các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung (như quốc lộ 14B, 24 và 19) khá hoàn chỉnh là những huyết mạch
nối các cảng biển trong vùng đến vùng Tây Nguyên và trong tương lai gần sẽ
nối với hệ thống đườ
ng xuyên Á qua Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan,
Myanmar theo hành lang kinh tế Đông Tây; vì vậy, vùng có thể sẽ là cửa ngõ
ra biển của Tây Nguyên và các nước trên đến các nước vùng Bắc Á. Vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung có nhiều vịnh nước sâu như Chân Mây (Thừa
Thiên - Huế), Liên Chiểu, Tiên Sa (Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng Nam), Dung
19

Quất (Quảng Ngãi), Quy Nhơn, Nhơn Hội (Bình Định) nằm không xa tuyến
hàng hải quốc tế, cho phép xây dựng thành các cảng biển nước sâu lớn (có thể
trở thành những cảng trung chuyển quan trọng của khu vực tiểu vùng sông
Mê Kông và các nước thuộc hành lang kinh tế Đông Tây.
Thứ hai, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có nguồn tài nguyên khá
đa dạng, phong phú về đất, rừng, biển, khoáng sản,… nhất là tài nguyên du

lịch. Vớ
i những nguồn tài nguyên này, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
có thể phát triển nền kinh tế tổng hợp, trong đó có các ngành và các sản phẩm
mũi nhọn có lợi thế cạnh tranh cao. Sau đây là một số lợi thế tài nguyên đáng
lưu ý:
- Với chiều dài bờ biển hơn 550 km, vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung có tiềm năng nổi trội về kinh tế biển. Bờ biể
n của vùng dài với thềm
lục địa khá rộng, có nhiều cửa sông, đầm, vịnh và bãi, có cảnh quan thiên
nhiên đẹp, có hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ,… là nơi chứa đầy tiềm năng trong
nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản và chứa đựng nhiều lợi thế để phát triển
công nghiệp và du lịch biển.
- Với tổng diện tích đất tự nhiên 27.953,2km
2
, vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung có tiềm năng khá lớn về đất đai và tài nguyên thiên nhiên trên đất.
Toàn vùng hiện có 850,5 nghìn héc ta đất có rừng với trữ lượng gỗ trên 7,4
triệu m
3
. Rừng của vùng có nhiều loại gỗ quý như giáng hương, cẩm lai, gụ
mật, kiền kiền và sao đen, Động vật rừng cũng rất phong phú, trong đó có
nhiều loài quý hiếm như: hổ, báo, gấu, rùa vàng, bò rừng Nhiều vùng đất
của vùng có thể trồng nhiều loại cây có giá trị như cây nguyên liệu gỗ, cao su,
hồ tiêu, quế,…
- Trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã hình thành một hệ
thố
ng đô thị phân bố khá đều trên toàn vùng: các đô thị lớn như Huế, Đà
Nẵng, Quy Nhơn,… cùng với các đô thị vừa và nhỏ như Lăng Cô, Hội An,
Tam Kỳ, Quảng Ngãi,… đang tạo nên một dải đô thị ven biển với các KCN,
khu kinh tế nằm xen kẽ hoặc kề cận (trong đó nổi bật nhất là KCN lọc hóa

20

dầu Dung Quất, Khu kinh tế Chu Lai, Khu kinh tế Lăng cô - Chân Mây). Các
KCN, khu kinh tế và chuỗi đô thị này là những hạt nhân phát triển có tác động
to lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng trong hiện tại và
tương lai.
- Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là nơi tập trung nhiều di sản văn
hóa thế giới (vật thể và phi vật thể) như Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế,
Ph
ố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn. Đây cũng là nơi có nhiều bãi biển đẹp,
nhiều khu du lịch sinh thái chứa đựng nhiều tiềm năng để phát triển mạnh
ngành du lịch. Hiện nay, kinh tế du lịch của vùng đang vươn lên để trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, bước đầu đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn.
- Về dân số và nguồn nhân lực, vùng kinh tế trọ
ng điểm miền Trung có
một nguồn nhân lực khá dồi dào, với những phẩm chất có tính cạnh tranh cao.
Năm 2007, dân số toàn vùng là 6,3 triệu người, chiếm khoảng 7,5% dân số so
với cả nước, trong đó khoảng 55% trong độ tuổi lao động nên lực lượng lao
động khá dồi dào. Dự kiến đến năm 2025, dân số toàn vùng đạt 8,5 triệu
người với 6,5 triệu lao động trong độ tuổi. Một bộ phận lao động
ở vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung có trình độ tay nghề cao, có khả năng thích nghi, có
thể tiếp cận nắm bắt nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ và quản lý
tiên tiến. Người lao động ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có truyền
thống hiếu học, cần cù, chịu khó, có ý chí vươn lên… là những phẩm chất rất
tốt để phát triển kinh tế - xã hội.
- Những năm đổi m
ới vừa qua, nhất là trong những năm gần đây, tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của toàn vùng luôn ở mức 2 con số
(trên 10%/ năm). Nhiều địa phương trong vùng như Đà Nẵng, Bình Định,

Quảng Ngãi có tốc độ phát triển GDP khá ngoạn mục. Thu nhập của người
dân trong vùng không ngừng tăng nhanh (2000 - 2005, tốc độ tăng trưởng thu
nhập bình quân trên toàn vùng đạt tới 61%). Sự năng động, sáng tạo trong
phát triể
n thời gian qua bước đầu đã tạo nên thế và lực phát triển mới cho
vùng. Tuy nhiên đây mới chỉ là bước đầu.
21

Về những khó khăn, thách thức:
- Khó khăn đầu tiên đối với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong
quá trình phát triển là điều kiện tự nhiên của vùng chứa đựng nhiều yếu tố
không thuận lợi cho phát triển. Những yếu tố này bao gồm: địa hình hẹp và
dốc, khí hậu khắc nghiệt, nhiều hạn hán vào mùa khô, nhiều bão, lốc, lũ lụt
vào mùa mưa. Có thể nói rằ
ng, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thuộc vào
vùng không “mưa không thuận, gió không hòa” chứa đựng nhiều rủi ro tiềm
ẩn có thể làm tăng thêm chi phí ngoài dự tính của các nhà đầu tư. Chính vì
vậy, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã không khỏi nản lòng khi họ
muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư vào vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
- Với địa hình dài, hẹp và có độ dốc cao nên các điều kiện phát tri
ển
nông nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung rất hạn chế nếu so với
hai đầu đất nước. Vì vậy, cho đến nay, nền kinh tế trong vùng về cơ bản vẫn
là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu: chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa
nước; chăn nuôi gia súc - gia cầm với quy mô nhỏ lẻ là phổ biến. Mặt khác,
do địa hình dốc, hẹp, chia c
ắt mạnh, hay bị xói lở nên chi phí cho xây dựng,
phát triển, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng trong vùng rất cao. Đây là nhân tố góp
phần làm giảm khả năng cạnh tranh của vùng trong việc thu hút các nguồn
vốn đầu tư phát triển, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.

- Về thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Để sản xuất phát triển bền vững, không chỉ các nguồn lực đầu vào mà
đầu ra - tức thị trường tiêu thụ cũng đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt là trong
thời đại, nền kinh tế bắt đầu có xu hướng dịch chuyển từ chủ yếu dựa vào
xuất khẩu sang dựa vào sức mua của thị trường nội địa như hiện nay thì điều
đó càng có ý nghĩa. So với hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam,
quy mô dân số của vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung không lớn, độ tập
trung dân cư không cao (đến nay, mật độ dân số của vùng chỉ bằng 24,6% mật
độ dân số vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc và bằng 45,7% so với mật độ dân
số vùng kinh tế trọng điểm miền Nam), lại trải dài hơn 500km trên dải đất
22

hẹp. Đã thế, tỷ lệ hộ nghèo trong vùng vẫn ở mức cao (khoảng 23,3%), thu
nhập bình quân của người dân còn thấp (Tính đến năm 2005, thu nhập bình
quân đầu người vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ bằng 73,6% so với
chỉ tiêu tương tự của vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc và bằng 29,6% so với
vùng kinh tế trọng điểm miền Nam). Thu nhập thấp, chi tiêu củ
a người dân
tập trung vào những nhu cầu thiết yếu khiến sức mua của người dân trong
vùng rất chậm được cải thiện, đã làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm của
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trở nên kém cạnh tranh hơn so với các
vùng kinh tế trọng điểm hai đầu đất nước.
Bảng 1
: So sánh một số chỉ tiêu chủ yếu giữa các VKTTĐ (năm 2005)

VKTTĐ
miền Trung
VKTTĐ
miền Bắc

VKTTĐ
miền Nam
Thu nhập bình quân đầu người/tháng 424.620đ 576.560đ 1.436.360đ
Tăng trưởng thu nhập so với năm 2000 61% 69% 59%
FDI thực hiện trên đầu người giai đoạn
2000-2005
16,67 USD 20,26 USD 115,8 USD
Vốn đầu tư tư nhân trong nước bình
quân đầu người giai đoạn 2000-2005
37,64 USD 72,50 USD 66,53 USD
Nguồn: theo Vũ Thành Tự Anh tại “Diễn đàn kinh tế miền Trung lần 1” - Hội An tháng 4 năm 2007
- Vì nhiều lý do khác nhau mà vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến
nay vẫn là vùng có kết cấu hạ tầng kỹ thuật yếu kém nhất trong ba vùng kinh
tế trọng điểm. Mặc dù, xét về tổng quát, điều kiện về giao thông có nhiều lợi
thế nhưng nếu đi vào cụ thể thì kết cấu hạ tầng cứng ở đây, cho đến nay vẫn
còn nhỏ lẻ, thiếu đồng b
ộ. Chẳng hạn, địa phương nào trong vùng cũng có sân
bay quốc tế, có cảng nước sâu nhưng chất lượng, sản lượng thiết kế của cảng
hàng không lẫn cảng biển đều thấp hơn so với hai đầu. Trong khi đó, hệ thống
giao thông đường bộ nội vùng xuống cấp, nhỏ hẹp… lại rất chậm đựơc cải
thiện. Đây là một bất lợi rất đ
áng kể đối với vùng trong cạnh tranh phát triển.
- Do cơ cấu dân số trẻ nên nguồn nhân lực ở vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung khá dồi dào nhưng chất lượng hiện đang kém hơn so với hai đầu
đất nước. Lao động của vùng phần lớn là lao động nông nghiệp - nông thôn,
23

có trình độ học vấn thấp, ít được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Thêm vào
đó, phong cách làm việc của phần đông người lao động còn lạc hậu, ý thức tổ
chức kỷ luật kém, khả năng làm việc tập thể, làm việc theo nhóm không cao.

Bảng 2
: Trình độ lao động của các vùng KTTĐ và cả nước năm 2005

VKTTĐ
miền Trung
VKTTĐ
miền Bắc
VKTTĐ
miền Nam
Cả
nước
Chưa biết chữ 2,90% 0,62% 2,51% 4,04%
Chưa hết Tiểu học 15,41% 4,04% 13,27% 13,09%
Tốt nghiệp tiểu học 34,53% 17,19% 32,91% 29,08%
Tốt nghiệp THCS 26,4% 45,54% 23,28% 32,57%
Tốt nghiệp THPT 20,63% 32,61% 28,03% 21,23%
Đã dược đào tạo kỹ năng 16,76% 18,83 % 17,06% 12,31%
Nguồn: theo Vũ Thành Tự Anh tại “Diễn đàn kinh tế miền Trung lần 1” - Hội An tháng 4 năm 2007
Bảng này cho thấy, ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung vẫn còn hơn
50% lực lượng lao động có trình độ tiểu học trở xuống (cao hơn tỷ lệ bình
quân của cả nước và cao nhất trong ba vùng kinh tế trọng điểm). Cho đến nay,
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung mới chỉ
đạt khoảng 28,7%. Trong khi đó, con số tươ
ng ứng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc là 33,7%, của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là 33,02%.
Nguồn nhân lực có trình độ cao của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng
rất hạn chế: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao đẳng đại học của vùng chỉ đạt
5,9%, trong khi tỷ lệ này của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là 8,5%, của
vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam là 7,5%. Đặc biệt, tại Khu kinh tế mở Chu

Lai - khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo Cao
đẳng Đại học chỉ chiếm chưa đến 1%, trong khi nhu cầu về nguồn nhân lực
trình độ cao tại đây lại rất lớn. Lao động chất lượng cao đã ít nhưng trong
những năm vừa qua, nhiều người trong số đó có xu hướng muốn chuy
ển ra
khỏi vùng đến vùng kinh tế trong điểm phía Nam và đến thủ đô Hà Nội. Một
nghiên cứu gần đây cho thấy, vùng Duyên hải Nam Trung bộ (trong đó có
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung) có tỷ lệ lao động di chuyển khỏi vùng
24

cao nhất trong cả nước, đạt 30,5%, so với 23,5% của đồng bằng sông Cửu
Long và 22,4% của đồng bằng sông Hồng.
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng GDP cao trong những năm gần đây
nhưng đến nay, quy mô kinh tế vủa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung vẫn
rất nhỏ bé. Tính đến 2005, tỷ lệ đóng góp của vùng trong GDP của cả nước
mới chỉ đạt 5% (trong khi chỉ s
ố tương ứng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ là 21% và vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ là 36%), mức đóng góp của
vùng trong thu ngân sách của cả nước là 4,6%. Giá trị xuất khẩu bình quân
đầu người/năm mới chỉ đạt 149 USD năm 2005 (con số tương ứng của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ là 447 USD và của vùng kinh tế trọng điểm Nam
bộ là 1.467 USD). Về sả
n lượng công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung chỉ mới đóng góp 10%. Trong khi đó, hơn một nửa sản lượng công
nghiệp quốc gia do vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đóng góp, vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc đóng góp 37%.
Những nghiên cứu so sánh đó cho thấy, bên cạnh những thế mạnh và
thuận lợi, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có rất nhiều khó khăn, bấ
t lợi
trong quá trình cạnh tranh phát triển. Tất nhiên, những tiềm năng, lợi thế nếu

không được khai thác thì mãi vẫn ở dạng tiềm năng, ngược lại, những nhược
điểm, bất lợi nếu cố gắng khắc phục có thể sẽ biến thành cơ hội, thậm chí lại
biến thành điểm mạnh trong phát triển. Đó chính là biện chứng của sự phát
triển trong đi
ều kiện cạnh tranh. Để trở thành “một trong những vùng phát
triển năng động của cả nước, bảo đảm vai trò hạt nhân tăng trưởng và thúc
đẩy phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên"
3
, các chủ thể lãnh đạo -
quản lý ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung phải tích cực, chủ động, sáng
tạo, phát huy tối đa các cơ hội - thế mạnh, khắc phục hiệu quả các khó khăn,
thách thức, thúc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
nhanh chóng đạt tới các mục tiêu phát triển cơ bản đã đặt ra.


3
Quyết định 148/QĐ- TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng điểm đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020.
25

1.2. Sự hình thành các KCN và tác động của chúng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Những tiềm năng, lợi thế và những khó khăn, không thuận lợi nêu trên
đã được tính đến trong quá trình đề ra các chính sách phát triển toàn vùng
cũng như các chính sách phát triển của từng địa phương trong vùng. Một
trong những giải pháp hàng đầu để các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miề
n
Trung có thể thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là tiến hành xây
dựng và phát triển các KCN tập trung. Bởi vì, các KCN tập trung có nhiều ưu

điểm trong đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp - dịch vụ nói riêng, phát
triển kinh tế - xã hội địa phương nói chung.
Hiện nay, tất cả các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung đều
đã có KCN. Nếu không kể các KCN đang xây dựng chưa đưa vào
vận hành, toàn vùng kinh tế trọng điểm miền Trung hiện nay có 19 KCN đã đi
vào hoạt động với tổng diện tích là 2.395 héc ta, chiếm 8,1% tổng diện tích
các KCN cả nước. Đó là một nỗ lực lớn của các địa phương trong vùng. Xét
về diện tích lấp đầy thì các KCN của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt
tỷ lệ cao nhất c
ả nước là 71% so với 57,7% của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam và 53,9% của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
4

Về mặt lịch sử, việc xây dựng, phát triển các KCN ở Việt Nam nói
chung, ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nói riêng đã được hoạch định,
triển khai thực hiện trước cả việc quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm. Cụ
thể, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với việc khởi
xướng đường lối đổi mớ
i, Đảng ta đã có những chủ trương ban đầu về việc
đổi mới cơ chế kinh tế, mở cửa nhằm thu hút các nguồn vốn, công nghệ từ
nước ngoài để đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước.
Quá trình tổng kết thực tiễn, học tập kinh nghiệm phát triển KCN, khu chế
xuất ở nước ngoài đã dẫn đến hình thành đường lố
i, chính sách xây dựng,


4
Trần Ngọc Hưng. Xây dựng và phát triển KCN, khu kinh tế - kết quả đạt được trong năm 2006, những vấn đề đặt ra và
nhiệm vụ cần triển khai trong năm 2007. Tạp chí KCN Việt Nam số 1/2007

×