4
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Nguyễn Văn Thuật
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI THUỶ SẢN GIỮA VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2006
5
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Nguyễn Văn Thuật
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI THUỶ SẢN GIỮA VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 603130
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Giáo viên hƣớng dẫn:
PGS.TS Nguyễn An Lịch
HÀ NỘI, NĂM 2006
6
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan 1
Mục lục 2
PHẦN I- MỞĐẦU 4
1.Tính cấp thiết của đề tài 5
2.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 5
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 6
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu 6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
6. Điểm mới của luận văn 7
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể 10
8. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu 11
9. Kết cấu của luận văn 12
PHẦN II - NỘI DUNG 13
Chƣơng 1.Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 13
1. Cơ sở lý luận 13
1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin 13
1.2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam 15
1.3. Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan
hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và HoaKỳ 15
1.3.1. Lý thuyết Lựa chọn hợp lý 16
1.3.2. Lý thuyết trao đổi 20
1.4. Các khái niệm công cụ 21
1.4.1.Khái niệm"Vấn đề xã hội" 21
1.4.2.Khái niệm"hành động xã hội" 25
7
1.4.3.Khái niệm"tương tác xã hội" 27
1.4.4.Khái niệm"quan hệ xã hội" 27
Chƣơng 2. Quan hệ thƣơng mại song phƣơng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 29
1. Khái quát về hệ thống chính trị và văn hoá của người dân Hoa Kỳ 29
2. Chính sách thương mại của Hoa Kỳ 31
3. Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 34
4. Quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 40
Chƣơng 3. Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thƣơng mại thuỷ sản
giữa Việt Nam và HoaKỳ 58
1. Những tranh chấp trong quan hệ thương mại thuỷ sản Việt - Mỹ 58
1.1. Chiến dịch chống lại việc nhập khẩu cá tra và cá ba sa Việt Nam 58
1.2. Vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá philê cá tra và ba sa đông lạnh tại Hoa Kỳ
61
1.3. Vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá một số sản phẩm tôm tại Hoa
Kỳ 67
2. Một số vấn đề xã hội nảy sinh do những tranh chấp thương mại thuỷ sản giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ 73
2.1. Tác động của các vụ kiện đến tình hình lao động, việc làm trong lĩnh vực thuỷ
sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long 75
2.2. Tác động của những vụ kiện bán phá giá thuỷ sản đến việc làm và thu nhập
của các công nhân trong các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷsản 77
2.3. Tác động của những vụ kiện bán phá giá thuỷ sản đến đời sống,việc làm và thu
nhập của ngư dân nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản 81
2.4. Tác động của vụ kiện tôm đến người tiêu dùng thuỷ sản Hoa Kỳ 86
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 88
KẾT LUẬN 89
KHUYẾN NGHỊ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC
8
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ Xã hội học này là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là
do bản thân tôi trực tiếp thu thập và xử lý thông qua các tài liệu do Bộ thuỷ sản,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Cục Thống kê, Sở Kế
hoạch và Đầu tư 13 tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Thương vụ - Đại sứ
quán Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cung cấp. Những tài liệu này chưa ai
công bố dưới dạng các công trình nghiên cứu xã hội học.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Văn thuật
9
PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tham gia vào toàn cầu hoá, là xu thế tất
yếu của mọi quốc gia trong quá trình phân công lao động và mở rộng quan hệ
quốc tế.Việt Nam đã từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả,
vừa đảm bảo được lợi ích dân tộc, vừa nâng cao được sức cạnh tranh của nền
kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tạo cơ sở phấn
đấu trở thành nước công nghiệp hoá vào năm 2020.
Nhìn lại 20 năm đổi mới và hội nhập, nước ta có quan hệ thương mại với
224/255 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ đó góp phần tích cực vào việc phát triển
thị trường xuất khẩu và mở cửa nền kinh tế. Nhờ vào tiến trình hội nhập kinh tế
trong 20 năm qua mà nền kinh tế nước ta từ chỗ thiếu lương thực và hàng tiêu
dùng đến chỗ đã có dư, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Điều này chứng tỏ rằng
chúng ta đã ngày càng nhận thức đúng quy luật vận động của quá trình toàn cầu
hoá kinh tế thế giới mà nước ta chủ động hội nhập.
Đảng đã khẳng định:"Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế” [7]. Hội nhập kinh tế thế giới là một trong những
quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu đất nước ta phải trải qua để tiến
nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại.Trong quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, một trong những quan hệ kinh tế được Nhà nước ta chú trọng, đó
là quan hệ kinh tế giữa nước ta và Hoa Kỳ.
Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan
hệ vào năm 1991. Tháng 12 năm 1994, Hoa Kỳ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt
Nam. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1995. Song song với quan
hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ cũng không ngừng phát triển. Việc thông qua Hiệp định thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ và có hiệu lực từ năm 2001 đánh dấu một mốc quan
trọng trong quá trình bình thường hoá quan hệ giữa quốc gia. Nhờ đó, kim ngạch
thương mại hàng hoá hai chiều của hai bên đã không ngừng tăng lên và năm
10
2003 Việt Nam đã trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 40 của Hoa Kỳ. Những
mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ gồm hàng may mặc, thuỷ
sản, nông sản khô, dầu khí… Một trong những sản phẩm xuất khẩu sang Hoa Kỳ
nêu trên là sản phẩm thuỷ sản và được Nhà nước Việt Nam coi phát triển và mở
rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là
ngành kinh tế “mũi nhọn” của đất nước.
Mặc dù Hiệp định Thương mại song phương đang phát huy hiểu quả kinh tế
thương mại nói chung của 2 nước. Song quan hệ thương mại thuỷ sản giữa 2
nước trong thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập nhất định do cả yếu tố khách
quan lẫn yếu tố chủ quan, và chưa được khắc phục một cách có hiệu quả. Điều đó
đã và đang làm nảy sinh một số vấn đề xã hội và tác động tiêu cực đến hoạt động
của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, của người sản xuất và nuôi trồng thuỷ
sản của Việt Nam cũng như nhu cầu của người tiêu dùng thuỷ sản Hoa Kỳ.v.v.
Hơn nữa tâm lý của người tiêu dùng thuỷ sản trên thị trường Hoa Kỳ vẫn còn
chưa được các doanh nghiệp Việt Nam khai thác để kích cầu tạo cơ sở cho việc
tăng tốc xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản sang Hoa Kỳ. Việc giao lưu văn hoá và
trao đổi quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn hạn chế…làm cho thiết chế kinh
tế và văn hoá chưa ổn định. Do đó việc tiến hành nghiên cứu “ Một số vấn đề xã
hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” là
một yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn góp phần làm sáng tỏ một số
mặt tích cực cũng như một số mặt tiêu cực trong quan hệ thương mại thuỷ sản
giữa hai bên, từ đó đưa ra một số giải pháp khoa học phù hợp với tình hình thực
tế hiện nay của đất nước nhằm phát huy mặt tích cực và đẩy lùi mặt tiêu cực của
nó để thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế - xã hội giữa hai bên và tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam một cách có hiệu quả nhất.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Việc tiến hành nghiên cứu “ Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ
thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ” có một ý nghĩa khoa học quan
11
trọng là tìm hiểu những xu hướng tiềm ẩn trong quan điểm về quan hệ giữa hai
bên trong đó có quan hệ thương mại thuỷ sản, trên cơ sở đó, hoạch định những
chính sách phù hợp cũng như tạo ra cơ chế hoạt động bình đẳng cùng có lợi.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn có một ý nghĩa thực tiễn hết sức quan trọng.
Đó là nhận diện được thực trạng quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ, đồng thời cũng nắm bắt kịp thời những tác động tích cực và tiêu cực về
lĩnh vực này nhằm giúp cho Ngành Thuỷ sản Việt Nam cũng như các cơ quan,
ban ngành liên quan đến thương mại có những điều chỉnh thích hợp về chính
sách góp phần vào sự phát triển ngành kinh tế “ thuỷ sản” của đất nước, hạn chế
những vấn đề xã hội trong đời sống nhân dân
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Những tranh chấp trong quan hệ thương mại
thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tác động đến các hoạt động nuôi trồng, khai
thác thuỷ hải sản của ngư dân và doanh nghiệpViệt Nam xuất khẩu thuỷ sản sang
Hoa Kỳ. Từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội
3.2. Khách thể nghiên cứu: Các tư liệu và các chủ thể có liên quan đến
thương mại thuỷ sản với Hoa Kỳ
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
- Do nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, đề tài chỉ nghiên cứu trên cơ sở
thu thập và phân tích tài liệu do Bộ Thuỷ sản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục
Thống kê Việt Nam và Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư 13 tỉnh vùng Đồng
bằng Sông Cửu Long, Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cung
cấp và giới hạn nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương
mại giữa hai bên về lĩnh vực thuỷ sản. Đó là các tranh chấp trong thương mại
thuỷ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và những tác động của chúng.
- Về mặt thời gian xem xét thực trạng thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ từ năm 2001 - 2005.
12
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nhằm cung cấp cơ sở khoa học giúp cho các cơ
quan, ban ngành chức năng nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang
Hoa Kỳ nói riêng thấy rõ được những nguyên nhân làm nảy sinh ra các vấn đề xã
hội trong thương mại thuỷ sản giữa 2 nước, trên cơ sở đó có những điều chỉnh về
các hoạt động thương mại thuỷ sản với Hoa Kỳ nhằm giảm thiểu những tranh
chấp cũng như giải quyết có hiệu quả những vấn đề thương mại thuỷ sản có thể
nảy sinh góp phần phát triển mối quan hệ thương mại song phương giữa 2 nước.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở xem xét các chính sách hiện hành cũng
như thực trạng của quá trình trao đổi thương mại thuỷ sản giữa hai bên. Cụ thể là
những vấn đề sau:
+ Phân tích để nhận diện thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang
Hoa Kỳ và phân tích để nhận diện những vấn đề xã hội nảy sinh
+ Phân tích nguyên nhân về những tranh chấp thương mại trong lĩnh vực thuỷ
sản giữa 2 bên và những tác động của chúng đến đời sống xã hội
+ Đưa ra những khuyến nghị và giải pháp phù hợp để phát triển“Mối quan
hệ thương mại” lành mạnh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng các điều ước đã ký
giữa 2 bên.
6. Điểm mới của luận văn
Mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới là một chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, là cơ sở để phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực
trong phát triển kinh tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta có chất lượng tăng trưởng
cao và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu:"dân giàu, nước
mạnh,xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
13
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường do Đảng cộng sản
khởi xướng (1986), đặc biệt là từ năm 1995 cho đến nay các nghiên cứu về quan
hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới đã và
đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu
về quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới dưới góc độ của
khoa học xã hội học vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm, thậm chí các
nghiên cứu của khoa học xã hội học về quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ vẫn còn chưa có, mà mới chỉ được lồng ghép bằng phương pháp
khảo sát vào các nghiên cứu của các khoa học khác. Đặc biệt các nghiên cứu mới
chỉ tập trung ở kinh tế ngoại thương. Ngoài những bài báo, sách nhỏ, có thể nêu
lên đây một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này:
1- Đề tài:" Nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về
môi trường đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế" của Tiễn sĩ Bùi Hữu Đạo, Vụ Khoa học - Bộ Thƣơng
mại trong đó nhẫn mạnh, trước nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác kinh tế với
các nước cần có môi trường kinh tế quốc tế thuận lợi và năng động hỗ trợ hợp tác
quốc tế, thực hiện các hành động cụ thể đã cam kết, chúng ta cần phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường-
coi đây như là ba trụ cột của quá trình phát triển bền vững và chúng có sự phụ
thuộc tương hỗ, củng cố lẫn nhau. Bản thân môi trường không thể tự bảo vệ
chính mình trước những ảnh hưởng tiêu cực hết sức mạnh mẽ của các ngành
thương mại không bền vững, việc sản xuất và tiêu thụ quá mức của con người,
dân số gia tăng, phát triển công nghệ sản xuất không thân thiện với môi trường.
2- Đề tài: "Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của
thương mại Việt Nam vào kinh tế khu vực và quốc tế" của PGS.TS Nguyễn
Phúc Khánh, Đại học Ngoại thƣơng đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
đẩy nhanh tiến trình hội nhập của thương mại Việt Nam vào kinh tế khu vực và
quốc tế. Đồng thời nêu rõ tầm quan trọng của vai trò mở rộng hợp tác quốc tế là
14
cơ sở cho việc hội nhập kinh tế có hiệu quả của Chính phủ, các bộ, ngành và các
doanh nghiệp.
3-Nghiên cứu về:"
Đ
Đ
ạ
ạ
o
o
l
l
u
u
ậ
ậ
t
t
C
C
O
O
G
G
S
S
A
A
c
c
ủ
ủ
a
a
H
H
o
o
a
a
K
K
ỳ
ỳ
v
v
ớ
ớ
i
i
c
c
á
á
c
c
c
c
ô
ô
n
n
g
g
ư
ư
ớ
ớ
c
c
q
q
u
u
ố
ố
c
c
t
t
ế
ế
đ
đ
i
i
ề
ề
u
u
c
c
h
h
ỉ
ỉ
n
n
h
h
v
v
ậ
ậ
n
n
đ
đ
ơ
ơ
n
n
đ
đ
ư
ư
ờ
ờ
n
n
g
g
b
b
i
i
ể
ể
n
n
v
v
à
à
l
l
u
u
ậ
ậ
t
t
h
h
à
à
n
n
g
g
h
h
ả
ả
i
i
V
V
i
i
ệ
ệ
t
t
N
N
a
a
m
m
"
"
c
c
ủ
ủ
a
a
P
P
G
G
S
S
.
.
T
T
S
S
N
N
g
g
u
u
y
y
ễ
ễ
n
n
N
N
h
h
ư
ư
T
T
i
i
ế
ế
n
n
-
-
Đ
Đ
ạ
ạ
i
i
h
h
ọ
ọ
c
c
N
N
g
g
o
o
ạ
ạ
i
i
T
T
h
h
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g
đ
đ
ã
ã
l
l
à
à
m
m
r
r
õ
õ
m
m
ộ
ộ
t
t
s
s
ố
ố
Đ
Đ
i
i
ề
ề
u
u
l
l
u
u
ậ
ậ
t
t
v
v
ề
ề
t
t
h
h
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g
m
m
ạ
ạ
i
i
c
c
ủ
ủ
a
a
H
H
o
o
a
a
K
K
ỳ
ỳ
g
g
i
i
ú
ú
p
p
c
c
h
h
o
o
c
c
á
á
c
c
h
h
o
o
ạ
ạ
t
t
đ
đ
ộ
ộ
n
n
g
g
k
k
i
i
n
n
h
h
d
d
o
o
a
a
n
n
h
h
v
v
à
à
x
x
u
u
ấ
ấ
t
t
k
k
h
h
ẩ
ẩ
u
u
h
h
à
à
n
n
g
g
h
h
o
o
á
á
c
c
ủ
ủ
a
a
V
V
i
i
ệ
ệ
t
t
N
N
a
a
m
m
v
v
à
à
o
o
H
H
o
o
a
a
K
K
ỳ
ỳ
và đã so sánh sự giống và khác nhau giữa đạo luật
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển của Hoa Kỳ với các công ước quốc tế điều
chỉnh vận đơn đường biển và luật hàng hảiViệt Nam là rất có ý nghĩa đáp ứng
yêu cầu ngày càng phát triển quan hệ thương mại và hàng hải giữa Việt Nam với
Hoa Kỳ hiện tại cũng như trong tương lai nhằm giảm thiểu các rủi rocó thể phát
sinh về khía cạnh pháp lý.
4- Đề tài: "Nâng cao hiệu quả chính sách khuyến khích xuất khẩu củaViệt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế" của TS Lê Trịnh Minh Châu (Viện nghiên
cứu thương mại) và Th.s PhạmThị Tuệ (Đại học ngoại thương) đã phân tích và
cho thấy chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mặc dù đã
có nhiều cải cách, song do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay còn chứa
đựng nhiều vấn đề, vừa chưa phù hợp với các nguyên tắc và qui định của WTO,
vừa chưa tác động tích cực đến sự tăng trưởng xuất khẩu bền vững của các ngành
kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả của chính sách khuyến khích xuất khẩu
phù hợp với thông lệ quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
sự hội nhập thành công của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Từ những khái quát vấn đề vừa nêu trên, Luận văn này có thể được coi là một
trong số những nghiên cứu đầu tiên về quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ từ tiếp cận của khoa học xã hội học. Quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là một sự kiện, một thực tế tồn tại tất yếu trong
quá trình hội nhập và phát triển. Mọi Chính phủ và quốc gia đều coi việc mở rộng
quan hệ quốc tế và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế là một
trong những nhân tố cơ bản của sự phát triển của đất nước mình theo những mức
15
độ, cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào những điệu kiện, nền văn hoá, tập quán,
pháp luật của mỗi nước. Do vậy đề tài này đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề
xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
trên quan điểm của khoa học xã hội học. Đó cũng là điểm mới của Luận văn.
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu.
Nghiên cứu Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” là một vấn đề mới, và có nhiều hướng tiếp cận
khác nhau. Nghiên cứu vấn đề này phụ thuộc vào các thiết chế Kinh tế- Chính trị-
Văn hóa – xã hội của của Việt Nam và của quốc tế.Vì vậy, đề tài này dựa trên
hướng tiếp cận liên ngành, vừa xã hội học, kinh tế học và chính trị học. Để thực
hiện đề tài đạt kết quả, tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, trước hết là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đề tài cũng dựa trên cơ sở tiếp cận“Lý
thuyết lựa chọn hợp lý” của Coleman và “Lý thuyết trao đổi ” của Perter Blau
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp cụ thể được tiến hành nghiên cứu là: Phân tích tài liệu,
phỏng vấn sâu.
7.2.1.Phương pháp phân tích tài liệu:Thông qua các tài liệu về lý thuyết, các
đề tài nghiên cứu và số liệu liên quan đến“ Quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ” nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: là phương pháp định tính. Tác giả phỏng
vấn sâu một số lãnh đạo, cán bộ thuộc Bộ Thuỷ sản, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương
Mại Việt Nam và một số lãnh đạo doanh nghiệp có sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu
sang thị trường Hoa Kỳ cung như một số ngư dân làm nghề nuôi trồng và khai
thác thuỷ sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long…
16
8. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu.
8.1. Khung lý thuyết
8.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1:“Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” đã góp phần
nâng cao năng lực thâm nhập và mở rộng thị trường cũng như hiệu quả kinh tế
cho các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Giả thuyết 2: Chính sách bảo hộ các ngành công nghiệp sản xuất nội địa của
Hoa Kỳ nói chung và mối quan hệ giữa các ông chủ đứng đầu nền công nghiệp
sản xuất thuỷ sản nội địa Hoa Kỳ với một số quan chức chính quyền bang và liên
bang của họ nói riêng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc
chống lại các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Quan hệ thƣơng mại song phƣơng giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ
Các Hiệp hội chế biến,
đánh bắt và kinh doanh
thuỷ sản Hoa Kỳ
Hiệp hội chế biến, XK
thuỷ sản Việt Nam, các
DN thành viên và người
nuôi trồng thuỷ sản
Các vấn đề XH nảy sinh trong
thƣơng mại thuỷ sản
Thực trạng tranh chấp
thương mại thuỷ sản
giữa 2 nước
17
Giả thuyết 3: Những tranh chấp trong thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ đã tác động tiêu cực đến thu nhập và lao động - việc làm của các công
nhân trong các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản và ngư dân làm nghề nuôi trồng,
đánh bắt thuỷ hải sản của Việt Nam. Đồng thời những tranh chấp đó cũng tác
động tiêu cực đến người tiêu dùng thuỷ sản của Hoa Kỳ.
9. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu; Kết luận và khuyến nghị; phần II Nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2: Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Chƣơng 3: Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ sản
18
PHẦN II - NỘI DUNG
CHƢƠNG I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật phát triển
lịch sử của xã hội loài người trên toàn thế giới. Hệ thống quan điểm biện chứng
của Mác về các quá trình và hiện tượng là sự thống nhất của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng về lịch sử và xã hội. Theo Mác, nghiên cứu đời sống xã hội phải
hướng vào phân tích cuộc sống thực, phải xuất phát từ tiền đề " là những cá nhân
hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ ".
Xuất phát điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là việc phân tích các quá trình
lịch sử từ góc độ hoạt động vật chất của con người, từ góc độ cơ sở kinh tế, từ
quan điểm" tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội". Đồng thời phép duy vật biện
chứng cũng đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và tác động
qua lại, trong mâu thuẫn và vận động, phát triển không ngừng của lịch sử xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi nghiên cứu xã hội phải phân
tích “các cá nhân hiện thực, hoạt động của họ và các điều kiện sống vật chất của
họ ”. Mác cho rằng sự kiện lịch sử đầu tiên và quan trọng nhất là hành động sản
xuất ra các phương tiện thoả mãn nhu cầu vật chất để tồn tại con người và “ tồn
tại xã hội quyết định ý thức ”…
Khi nghiên cứu xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tư cách
là một chỉnh thể gồm các bộ phận có mối liên hệ qua lại với nhau xã hội phát
triển từ hình thái kinh tế - xã hội đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao,v.v. Ở
đây luận văn chỉ đề cập một số quan điểm chung liên quan đến nghiên cứu:"một
số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ".
Chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách là cơ sở lý luận và phương pháp luận
trong nghiên cứu xã hội học nói chung và trong nghiên cứu về một số vấn đề xã
hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói
19
riêng phải tập trung vào phân tích mối quan hệ về kinh tế - xã hội, chính trị, văn
hoá giữa hai bên trong việc tạo ra các chính sách và cơ chế quan hệ cho thương
mại giữa hai bên nói chung, quan hệ thượng mại thuỷ sản nói riêng. Chẳng hạn,
nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tác động đến cơ cấu kinh tế - thương mại giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ như thế nào và cũng như tác động đến các quan hệ về kinh tế,
chính trị, văn hoá giữa hai bên theo xu hướng nào.
Mác cho rằng:“ bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong
quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ phân tích ảnh
hưởng của thiết chế kinh tế, các chính sách kinh tế và trao đổi thương mại tới
hành vi, hoạt động của hai bên mà còn phân tích ảnh hưởng của các thiết chế
khác, các chính sách xã hội tới việc cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần của
người dân làm nghề thuỷ sản nói chung, cũng như đến mối quan hệ thương mại
thuỷ sản giữa hai bên trong thời kỳ hiện nay.
Tất nhiên, nghiên cứu: "Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương
mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ" phải đặt nó trong bối cảnh và mối tương
tác cụ thể và phát triển theo quy luật quan hệ của nó vì không phải bối cảnh nào
cũng nảy sinh ra các vấn đề xã hội giống nhau v.v…Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay của nước ta có nhiều thành phần kinh tế khác nhau và gắn liền với mục
tiêu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nước Việt Nam:“dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì sự nảy sinh ra một số
vấn đề xã hội trong quan hệ kinh tế giữa hai bên là tất yếu và nó cũng diễn ra
theo quy luật của nó, đồng thời cũng tác động đến khả năng hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam nói chung, của ngành thuỷ sản nói riêng. Chính vì vậy việc
vận dụng các quy luật để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong quan hệ thương
mại giữa hai bên góp phần tạo nên mối quan hệ tốt đẹp phù hợp với lợi ích của
mỗi quốc gia.
20
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển là xu thế tất yếu hiện nay của thế giới,
cũng là nhu cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế ( dù ở trình độ nào) đều phải
cần liên kết với nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau. Phát triển
mối quan hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế đã trở thành mối quan
tâm của nhân loại. Đảng và Nhà Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm trước thế
giới mong muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng Quốc tế và sẵn sàng
hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực vì sự thịnh vượng chung
của nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Đảng cộng sản Việt Nam coi phát
triển là phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, tăng trưởng kinh
tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân…
Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với
bảo vệ vùng biển, mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển
xa nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các
thế mạnh và các thế lợi so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu
cầu thị trường trong nước và ngoài nước Tạo thêm sức mua của thị trường
trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu trong đó coi
xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực mũi nhọn.
1.3. Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh
trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Trong nghiên cứu xã hội học, đặc biệt là nghiên cứu về "một số vấn đề xã
hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, có
nhiều quan điểm và lý thuyết giúp các nhà nghiên cứu có thể vận dụng vào
nghiên cứu của mình. Để thực hiện đề tài luận văn, tác giả vận dụng lý thuyết "
21
Lựa chọn hợp lý" của Coleman và lý thuyết " trao đổi" của Peter Blau làm cơ
sở khoa học để phân tích, đánh giá và dự báo về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ trong thương mại thuỷ sản trong phạm vi giới hạn đã được xác định
của đề tài. Trong quá trình nghiên cứu, căn cứ vào những nét văn hoá riêng của
đất nước, tác giả cố gắng đặt nghiên cứu của mình vào trong bối cảnh cụ thể để
nghiên cứu vừa vận dụng và lựa chọn hợp lý những ưu điểm của các lý thuyết đó.
1.3.1. Lý thuyết Lựa chọn hợp lý: Một số nét cơ bản vận dụng.
Một số tác giả tiêu biểu của lý thuyết lựa chọn hợp lý này là Coleman,
Friendman và Hechter cho rằng sự lựa chọn hợp lý của các chủ thể là có những
mục đích, mục tiêu về cái mà hành động của họ hướng tới. Hành động của các
chủ thể được thực hiện để đạt được các mục đích phù hợp với hệ tư tưởng của họ.
Mặc dù các chủ thể hành động là nhằm vào các mục đích và dự định của họ.
Song điều quan trọng là các chủ thể luôn tính đến 2 yếu tố cơ bản kìm hãm hành
động của họ [14]:
Thứ nhất, sự hiếm hoi các tiềm năng của các chủ thể, vì các chủ thể có các
tiềm năng khác nhau cũng như cách thâm nhập khác nhau vào các tiềm năng
khác. Đối với các chủ thể có nhiều tiềm năng thì họ có thể đạt được kết quả của
họ một cách tương đối dễ (Ví như các ông chủ đứng đầu Hiệp hội các chủ trại
nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) phải đối phó với sự cạnh tranh về sản phẩm cá tra,
cá basa nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ, họ dễ dàng tìm cách để đưa ra
những lý do kiện các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ).
Trái lại, đối với các chủ thể có ít tiềm năng thì sự đạt được mục đích của họ lại
trở nên khó khăn hoặc không đạt được mục đích (Ví như, khi các doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu sản phẩm cá tra, cá basa bị kiện cho rằng bán phá giá sản
phẩm của mình trên thị trường Hoa Kỳ, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ luôn
gặp những khó khăn để bác bỏ được đơn kiện của Hiệp hội các chủ trại nuôi cá
nheo Hoa Kỳ (CFA) vì nhiều yếu tố như chi phí cao, hoặc vì Việt Nam là một
nước chưa được Hoa Kỳ công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường, hoặc
Hoa Kỳ luôn luôn có chính sách bảo hộ nền công nghiệp nội địa của họ.v.v.).
22
Sự hiếm hoi các tiềm năng là một nhân tố kìm hãm các chủ thể hành động.
Các chủ thể luôn tính đến vấn đề chi phí của các cơ hội hay các chi phí đó luôn
gắn liền với chuỗi hành động theo đuổi mục đích của họ, các chủ thể luôn phải
tính đến cái giá của các hành động kế tiếp của họ. Một chủ thể có thể chọn cách
không theo đuổi mục đích có giá trị, lợi nhuận cao nhất nếu tiềm năng của chủ
thể đó hạn chế hoặc nếu kết quả là các cơ may để đạt được mục đích là rất mỏng
manh. Các chủ thể luôn luôn cố gắng để tối đa hoá các lợi ích, giá trị và mục đích
của họ và những mục đích, giá trị, lợi ích đó có thể bao gồm việc đánh giá mối
quan hệ giữa các cơ may để đạt được một mục đích ban đầu và xem xét các cơ
may đó để đạt được mục đích có giá trị tiếp theo.
Thứ hai, sự kìm hãm các hành động của các chủ thể là các thiết chế, chuẩn
mực xã hội. Các yếu tố kìm hãm hành động của các chủ thể cũng còn bao gồm cả
các hình phạt tích cực và tiêu cực đan xen nhau kích thích các chủ thể hành động
một cách xác định có nên lựa chọn hành động đó không hay loại trừ các hành
động đó. Cơ sở của việc lựa chọn hợp lý được Friendman và Hecchter liệt kê hai
ý tưởng sau: (1)- Tập hợp cơ cấu hay quá trình mà qua đó " các hành vi cá thể
riêng biệt được kết hợp để tạo ra kết quả xã hội", (2)- Do nhận thức càng ngày
càng cao về tầm quan trọng của thông tin trong việc lựa chọn hợp lý trong từng
thời điểm, giả sử các chủ thể có được các thông tin hoàn hảo hoặc đầy đủ thì họ
sẽ thực hiện các lựa chọn để theo đuổi mục đích giữa các chuỗi hành động có thể
thế nhau bỏ ngỏ cho anh ta và tất nhiên là việc nhận thức tầm quan trọng của
thông tin là rất đa dạng và sẵn có lại ảnh hưởng sâu sắc tới các lựa chọn của các
chủ thể.
Sự lựa chọn hợp lý (mô hình của hành động hợp lý) được Coleman vận dụng
như là cơ sở ở cấp độ vi mô để lý giải các hiện tượng vĩ mô và ông cho rằng xã
hội học phải tập trung vào các hệ thống xã hội và việc lý giải các hiện tượng
trong các hệ thống xã hội phải được lý giải bởi các yếu tố nội tại của chúng (các
hệ thống - nguyên mẫu là các chủ thể). Hơn nữa, các ý tưởng, quan điểm thường
được tập hợp ở cấp độ cá thể rồi mới được kết hợp lại ở cấp độ hệ thống, cấp độ
23
cá thể chính là nơi "các sự can thiệp" thường được thực hiện để tạo ra các biến
đổi xã hội. Hành động hợp lý của các chủ thể chính là hành động có mục đích để
hướng tới một mục tiêu và mục tiêu đó cũng như hành động đó định hình bởi các
giá trị hay các sở thích nhằm tối đa hoá các lợi ích hay nhằm thoả mãn các nhu
cầu và kỳ vọng của chủ thể
Trọng tâm trong quan điểm của Coleman là hai nhân tố cơ bản sau: các chủ
thể và các tiềm năng của họ. Các tiềm năng là những cái mà qua đó các chủ thể
kiểm soát và họ có sự quan tâm nhất định về việc kiểm soát các tiềm năng này.
Sự tương tác của các chủ thể và tiềm năng của họ dẫn tới cấp độ hệ thống.: " Nền
tảng tối thiểu đối với một hệ thống xã hội là hai chủ thể, mỗi chủ thể kiểm soát
các tiềm năng về mối quan tâm của chủ thể kia và chính mối quan tâm của từng
chủ thể về các tiềm năng thuộc sự kiểm soát của các chủ thể còn lại dẫn tới việc
cả hai thực hiện các hành động bao gồm…một hệ thống hành động… chính cấu
trúc này và các định hướng của các chủ thể về mục đích thì mỗi chủ thể có mục
tiêu để tối đa hoá nhận thức về các quan tâm của họ dẫn tới sự phụ thuộc lẫn
nhau trong các hành động của họ" [14]
Trong thực tiễn, Coleman cũng cho rằng các chủ thể cũng thường không ứng
xử một cách hợp lý. Song hành động hợp lý của các chủ thể lại được thể hiện
trong mối liên kết vi mô- vĩ mô hay theo cách thức kết hợp của các hành động cá
thể để đưa tới hành vi của hệ thống và hệ thống này có cách thức để kìm hãm các
định hướng hành động của các chủ thể. Quan điểm của Coleman là tiếp cận cấp
vi mô để giả thích các hiện tượng vĩ mô và những khác biệt trong các hiện tượng
vĩ mô có thể truy nguyên tới các cấu trúc khác nhau của các quan hệ ở cấp độ vĩ
mô chứ không phải ở các dạng khác nhau của cấp độ vi mô. Sự vận động từ cấp
độ vi mô sang vĩ mô là việc ban thẩm quyền và các quyền lợi thuộc sở hữu, kiểm
soát của một chủ thể cho một chủ thể khác và hành động này có xu hướng dẫn tới
sự phụ thuộc lẫn nhau của một chủ thể này vào một chủ thể khác.Điều quan trọng
hơn là nó tạo ra một hiện tượng vĩ mô cơ bản nhất - một đơn vị hành động bao
gồm hai chủ thể hay đúng hơn là hai chủ thể độc lập. Mối liên hệ trong một cấu
24
trúc có tính kết quả thực hiện chức năng một cách độc lập với các chủ thể; việc
tối đa hoá các quan tâm của chủ thể này được họ thay bằng cách tìm ra các quan
tâm của chủ thể khác hay của đơn vị tập thể độc lập. Đây vừa là một thực tế xã
hội khác biệt vừa là một thực tế " có những lỗ hổng và làm phát sinh ra các vấn
đề đặc biệt".
Sự chuyển giao việc kiểm soát các tiềm năng của chủ thể này cho chủ thể
khác được thực hiện một cách đơn phương là để tối đa hoá lợi ích của chủ thể
đơn phương chuyển giao từ một viễn cảnh mà anh ta cho là hợp lý. Tuy nhiên, sự
tối đa hóa của cá thể cũng bao gồm một sự cân bằng về việc kiểm soát giữa
nhiêu chủ thể để dẫn tới sự cân bằng trong xã hội. Sự chuyển giao việc kiểm soát
cho một chủ thể khác để đổi lấy việc chủ thể đó nhường lại sự kiểm soát của họ
cho mình được goi là sự chuyển giao không đơn phương (sự trao đổi) thông qua
các tiêu chí có tính chất cân bằng.
Sự từ bỏ một phần các quyền kiểm soát hành động của bản thân một chủ thể
để tiếp nhận một phần quyền kiểm soát các hành động của người khác là thông
qua các tiêu chí.Các tiêu chí được hình thành và duy trì là do một số chủ thể thấy
được các lợi ích từ các tiêu chí đó và sự tổn hại khi vi phạm các tiêu chí đó (tính
hai mặt của tiêu chí- tiêu chí này có lợi cho người này cũng có thể có hại cho
người khác).Nếu các chủ thể chủ quan hoá các tiêu chí có nghĩa là họ tạo ra một
hệ thống trừng phạt nội bộ khi họ vi phạm tiêu chí đó.
Các tiêu chí là những hiện tượng vĩ mô hình thành trên cơ sở của hành động
có mục đích ở cấp độ vi mô. Các tiêu chí có ảnh hưởng nhất định lên hành động
của các chủ thể. Tuy nhiên trong phạm vi tập thể thì các chủ thể hành động theo
mối quan tâm của tập thể.
Trong tổ chức cũng có những xung đột giữa lợi ích cá thể và tập thể và mối
quan tâm của cá thể quyết định quá trình các sự kiện, hiện tượng. Sự tồn tại của
các chủ thể đoàn thể là mới làm nảy sinh ra vấn đề làm thế nào để bảo đảm nghĩa
vụ xã hội của chúng.
25
Coleman cho rằng các nhóm tôn giáo và các cấu trúc có mục đích là các tổ
chức kinh tế và các nhà nước và sự phân biệt này là nhằm xử lý các vị trí trong
các cấu trúc có mục đích hơn là những người cư ngụ trong cấu trúc cơ bản để đi
tìm kiến thức cho sự tái thiết lập một xã hội mới.
1.3.2. Lý thuyết trao đổi của Peter Blau: Một số nét cơ bản vận dụng
Trao đổi xã hội là một khía cạnh, một mặt của hành vi xã hội nhưng lại có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự hội nhập, đoàn kết, thống nhất xã hội. Trao đổi
xã hội được thể hiện ở hai chức năng. Chức năng thứ nhất, trao đổi xã hội tạo ra
mối quan hệ gắn kết, thiện chí, tin cậy, nhất trí trong xã hội và chức năng thứ hai,
trao đổi xã hội là tạo ra mối quan hệ quyền lực giữa các bên tham gia trao đổi
[16]. Trong trao đổi, chủ thể hành động theo hệ giá trị, chuẩn mực của nhóm đã
được hình thành từ trước, có nghĩa là hành động lựa chọn hợp lý; mối liên hệ và
sự trao đổi giữa các cá nhân chịu sự chi phối của sự lựa chọn duy lý của nhóm và
cả bối cảnh xã hội rộng lớn
Trong các tổ chức lớn, trong thiết chế và hệ thống xã hội lớn, trao đổi không
diễn ra trực tiếp mà gián tiếp. Thông qua sự trao đổi gián tiếp, các bên nhận được
sự ủng hộ từ nhiều người khác nhau và đổi lại các cá nhân phải thoả hiệp và chấp
nhận những giá trị, chuẩn mực chung.
Trong trao đổi xã hội, yếu tố cốt lõi là sự phụ thuộc của những bên tham gia
trao đổi với nhau về một lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó mà họ cho là cần thiết.
Sự trao đổi xã hội chứa đựng yếu tố quyền lực và quan hệ trao đổi là cơ sở làm
nảy sinh quan hệ quyền lực [16]. Quyền lực theo Blau là khả năng thực hiện ý chí
của mình ngay cả khi có sự chống cự của người khác, tức quyền lực là khả năng
của cá nhân hay của cả nhóm người trong việc áp đặt ý chí của mình đối với
người khác bất chấp sự chống đối của họ thông qua việc cung cấp phần thưởng
hay tước đoạn những phần thưởng hoặc tiến hành trừng phạt họ. Trong trao đổi
xã hội, quan hệ quyền lực là quan hệ tương tác nhiều chiều. Trong đó người có
quyền và kẻ dưới quyền đều tác động phụ thuộc nhất định vào nhau trên một bối
cảnh nhất định. Ngược lại, nếu có sự khước từ, sự từ chối có tính chất tập thể đối
26
với quyền lực là nguyên nhân gây ra những phản ứng chống lại những người nắm
giữ quyền lực trong nhóm.
Trong quan hệ trao đổi xã hội gồm nhiều người với nhau, quyền lực thể hiện
nhiều bộ mặt khác nhau. Sự trao đổi xã hội của nhóm tạo ra các giá trị và chuẩn
mực giúp cho sự hợp pháp hoá, hợp thức hoá, thiết chế hoá quan hệ quyền lực.
Trong trao đổi xã hội, quyền lực là thứ có thể trao đổi để lấy thứ khác. Do đó,
người có quyền lực vẫn cần phải quan hệ, tương tác với người khác để nhận được
những thứ cần thiết và có giá trị. Đặc biệt, để thực thi quyền lực cưỡng chế các cá
nhân, nhóm có thể tự tạo ra những lệch lạc họăc bóp méo sự thật hay tạo ra
những hàng rào cản trở sự cơ động,năng động xã hội nhằm duy trì quan hệ quyền
lực nhất là để củng cố vị trí trong cấu trúc thang bậc quyền lực trong xã hội.
Các cấu trúc xã hội được Blau phân chia thành hai loại cấu trúc: Cấu trúc xã
hội vi mô - gồm các cá nhân tương tác với nhau tạo thành. Cấu trúc xã hội vĩ mô
- gồm các nhóm tương tác với nhau tạo thành. Hai loại cấu trúc này đều có những
đặc điểm giống nhau, tương tự nhau do cũng bắt nguồn từ các quá trình hấp dẫn
xã hội, trao đổi xã hội và sự chống đối, mâu thuẫn giữa các cá nhân và giữa các
nhóm. Điểm khác nhau của hai loại cấu trúc xã hội này là cấu trúc vĩ mô luôn có
một số loại yếu tố đặc thù sau:
1- Cấu trúc xã hội vĩ mô được hình thành trên cơ sở của sự nhất trí về hệ các
giá trị, các chuẩn mực chi phối hành động và quan hệ giữa các yếu tố tạo thành
cấu trúc
2- Cấu trúc xã hội vĩ mô luôn bao gồm các mối liên hệ phức tạp của các cấu
trúc bộ phận và các cấu trúc vi mô
3- Cấu trúc xã hội vĩ mô có tính bền vững nhờ chứa đựng các thiết chế xã hội
nảy sinh và phát triển trong nó.
1.4. Các khái niệm công cụ
1.4.1. Khái niệm" Vấn đề xã hội"
Đây là khái niệm cốt lõi của đề tài nên tác giả muốn trình bày kỹ hơn khái
niệm này.
27
Vấn đề xã hội, vấn đề nảy sinh trong thực tế xã hội bắt đầu từ những rắc rối
mà chúng ta gặp trong cuộc sống hay cũng có một số học giả gọi đó là những
mâu thuẫn nảy sinh một cách thực tế trong sự phát triển của xã hội. Nói một cách
khái quát vấn đề xã hội nảy sinh khi trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội khi
xuất hiện mâu thuẫn hay sự khác biệt giữa cái cần phải là, cái mà con người kỳ
vọng sẽ xảy ra với cái đang là, đang diễn ra trong thực tế, hoặc đó cũng có thể là
sự khác biệt giữa vai trò xã hội với việc thực hiện vai trò của chủ thể xã hội [25].
Trong xu hướng toàn cầu hoá và quan hệ quốc tế, khái niệm “vấn đề xã hội”
đã trở thành sự quan tâm của toàn cầu khi các bên cùng tham gia vào giải quyết
(ví dụ như vấn đề buôn bán ma tuý xuyên quốc gia, nạn dịch HIV toàn cầu, vấn
đề di dân quốc tế, vấn đề khủng bố quốc tế…), khái niệm này thường được hiểu
theo 2 nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì đó là những vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội, như
các vấn đề dân số - kế hoạch hoá gia đình, giáo dục - đào tạo, y tế - chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tệ nạn xã hội Còn theo nghĩa
rộng thì khái niệm này bao gồm cả những vấn đề kép, như vấn đề kinh tế - xã hội
(lao động, việc làm, xoá đói giảm nghèo ); vấn đề chính trị - xã hội (tự do - dân
chủ, dân quyền, nhân quyền ); vấn đề văn hoá - xã hội (văn hoá - văn nghệ, vui
chơi - giải trí, thể dục - thể thao quần chúng ); vấn đề xã hội - môi trường (bền
vững môi trường, an toàn môi trường, xung đột môi trường, tệ nạn môi trường )
và có những vấn đề xã hội tổng hợp, như cơ cấu xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế
xã hội, hội nhập xã hội, phân tầng xã hội, xung đột xã hội, cách mạng xã hội
Khái niệm vấn đề xã hội hiện nay vẫn chưa có sự nhất trí về một định nghĩa
chính xác của cái tạo nên vấn đề xã hội. Những tác giả định nghĩa về vấn đề xã
hội như là tình trạng " được một số đáng kể những người đánh giá là sự lệch
chuẩn với những chuẩn bắt buộc [23]". Vấn đề xã hội được hiểu là: " hoạt động
của các nhóm nói lên sự không hài lòng gắn với những tình trạng xấu và đưa ra
những yêu sách" [23]( Ví như các vụ kiện cá tra, cá basa và tôm nảy sinh trong
quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ). Vấn đề xã hội là những
tình huống nảy sinh trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội, trong đó đối sách của
28
chủ thể (con người, nhóm xã hội ) chưa đạt được kết quả tối ưu. Theo Merton
vấn đề xã hội bao gồm cả những trường hợp trong đó sự khác biệt giữa chuẩn
mực được chấp nhận về xã hội và những điều kiện thực tế và không được cả
những người trong cuộc lẫn cộng luận không thừa nhận, tức là không chỉ những
vấn đề xã hội "rõ ràng" mà cả những vấn đề xã hội" ẩn dấu" mà các nhà xã hội
học có nhiệm vụ chuẩn đoán nó [23]. Theo Mauss và Bhumer vấn đề xã hội trở
thành phong trào xã hội, tức là nói nên sự không hài lòng của các nhóm xã hội và
đòi hỏi phải thay đổi nó cũng như thành các trường hợp của hành vi tập thể [23].
Căn cứ vào môi trường nảy sinh, đối tượng thể hiện và phạm vi tác động của
nó, người ta phân loại các vấn đề xã hội thành: Vấn đề xã hội toàn cầu, vấn đề xã
hội trong phạm vi quốc gia, vấn đề xã hội trong phạm vi cộng đồng, nhóm xã hội
đặc thù, các vùng dân cư nhất định. Vấn đề xã hội không tồn tại độc lập mà nó
gắn với những đối tượng cụ thể, chẳng hạn như một tập thể, một cộng đồng, một
nhóm xã hội Nhưng dù ở cấp độ nào các vấn đề xã hội trong phạm vi nhất định
cũng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp với những mức độ khác nhau đến cá nhân
và con người chịu hậu quả, vấn đề xã hội tác động đến quyền lợi chính trị, kinh
tế, văn hoá đến các đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội.
Trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định có sự phản ứng lại tức là tạo nó
thành vấn đề và xây dựng nó thành vấn đề. Xã hội học có nhiệm vụ nghiên cứu
những nguyên nhân gây nên tình trạng có vấn đề và có thể thành vấn đề và khảo
sát những điều kiện trong đó những hoàn cảnh riêng biệt trở thành vấn đề, cũng
như tìm ra các biến số có ý nghĩa nhân quả đối với những diễn biến của quá trình
tạo thành vấn đề đó.Vấn đề xã hội được hiểu là những điều kiện và kết quả xã hội
ảnh hưởng xấu đến các nhóm và các loại thành viên xã hội (thậm chí có thể toàn
bộ dân chúng) trong hoàn cảnh sống của họ và được dự luận hay một bộ phận của
công luận định nghĩa như là tất yếu phải thay đổi và được biến thành biện pháp
chính trị [23]. Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày khái niệm " vấn đề xã hội"
dùng để chỉ đến một loạt các điều kiện xã hội ở những dạng hết sức khác nhau ví
như: sự nghèo khổ, tình trạng tội phạm, thời gian rỗi, tình trạng cô đơn…