Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

khủng hoảng kinh tế thế giới ,cơ hội phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.67 KB, 7 trang )

Phạm Hải Phương ,DH24HT01
TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI
,CƠ HỘI PHÁT TRIỂN
1. Khủng hoảng kinh tế và sự vươn lên của Trung Quốc
Tháng 10/2008, đỉnh điểm của sự đổ vỡ tài chính Hoa Kì diễn ra với sự
sụp đổ của ngân hàng lâu năm Lehman Brothers kéo theo các tổ chức tín dụng
,ngân hàng khác như Morgan Stanley ,AIG,Citigroup … cũng rơi vào tình trạng
lâm nguy. Tình trạng đó làm cho khu vực kinh tế của Hoa Kì cũng rơi vào tình
trạng khó khăn, điển hình là cuộc khủng hoảng của ngành chế tạo ô tô năm 2008
dẫn đến sự phá sản của hai đại gia ngành sản xuất ô tô Hoa Kì là General Motor và
Chrysler.
Sau đó thông qua hệ thống tài chính ,kinh tế mật thiết của Hoa Kì đối với
các quốc gia trên thế giới ,cuộc khủng hoảng từ Hoa Kì đã lan rộng ra nhiều nước
gây nên tình trạng suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở toàn
cầu.Mặc dù Hoa Kì ,Nhật Bản, các nước khối EU và nhiều nước khác đã đồng loạt
đưa ra nhiều biện pháp cứu nguy như các gói cứu trợ hàng trăm tỉ đô la ,giảm lãi
suất tín dụng ,thế nhưng cuộc khủng hoảng vẫn kéo theo nó một giai đoạn suy
thoái có tác động tiêu cực tới mọi quốc gia trên thế giới.
Năm 2009 ,sự phát triển vững vàng của các nền kinh tế mới nổi như Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia với nhịp độ tăng trưởng tốt được duy trì làm cả thế giới
ngạc nhiên.Đặc biệt nền kinh tế Trung Quốc thậm chí còn mạnh lên sau khủng
hoảng.Theo dự báo tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc có thể đạt 8% trong năm
nay ,xuất khẩu cũng đã phục hồi về mức đầu năm 2008, trong khi dự trữ ngoại hối
đạt mức kỉ lục :2300 tỷ USD.
Phạm Hải Phương ,DH24HT01
Quay lại năm 2008 ,Trung Quốc với nền kinh tế có tỉ trọng xuất khẩu lớn,
khủng hoảng kinh tế khiến cho hàng chục ngàn xí nghiệp xuất khẩu mất thị trường
,tình trạng phá sản diễn ra khiến cho cơn lũ lao động thất nghiệp đổ về nông thôn,
tình cảnh cũng vô cùng khó khăn.Vậy nguyên nhân nào dẫn tới sự phát triển mạnh
của Trung Quốc sau khủng hoảng ?


Trước hết, do là một nước chưa mở cửa thị trường tài chính như các nước
phát triển, khủng hoảng kinh tế tác động vào Trung Quốc không giống các nước
phương Tây.Trung Quốc chịu ảnh hưởng nhiều ở nền kinh tế ,nhưng ít bị ảnh
hưởng ở hệ thống tài chính.Vì không phải tái cơ cấu hệ thống tài chính, Trung
Quốc có thể tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế với biện pháp như gói kích cầu
4.000 tỷ CNY .
Bên cạnh đó, ta cần chú ý tới sự khác biệt của gói kích thích kinh tế của
Trung Quốc so với các nước phương Tây
Khác với gói kích cầu của chính phủ Hoa Kì, tập chung vào hoạt động tiêu
dùng dưới dạng trợ cấp, chăm sóc y tế ….Trung Quốc ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ
tầng và các ngành công nghê phục vụ cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai: 200
tỷ USD xây dựng đường sắt Bắc Kinh-Thượng Hải, làm thêm 44.000 ngàn dặm
đường mới và xây dựng thêm 100 sân bay trong thập kỉ tới, đầu tư mạnh vào các
nguồn năng lượng thay thế như năng lượng mặt trời, công nghệ pin Ngoài ra
Trung Quốc còn đẩy nhanh công việc tái thiết các nơi bị thiên tai, động đất ,thực
hiện các công trình phúc lợi xã hội nhằm tăng thu nhập, phúc lợi cho nông thôn…
Hiệu quả của gói kích cầu ,trước hết mở rộng thị trường trong nước thay thế
sự sụt giảm của thị trường xuất khẩu, giải quyết tình phần nào trạng thất nghiệp
gia tăng.Ngoài ra gói kích cầu còn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
tạo động lực để phát triển mạnh mẽ sau khủng hoảng.
Phạm Hải Phương ,DH24HT01
Trước bài học của Trung Quốc, các quốc khác đều muốn biến khủng hoảng
thành thời cơ của mình. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tại Diễn đàn cấp cao về
tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu đối với xóa đói giảm nghèo và phát triển
bền vững của khu vực châu Á – Thái Bình Dương ,phó thủ tướng thường trực
Nguyễn Sinh Hùng phát biểu: “Việt Nam coi thách thức là cơ hội, đề ra các biện
pháp kích thích kinh tế sao cho người nghèo là nhóm được hưởng lợi chính.” Thế
nhưng đâu là cơ hội cho Việt Nam trong khủng hoảng ?
2. Cơ hội nào cho Việt Nam ?
2.1. Tình trạng kinh tế Việt Nam trước và trong khủng hoảng

Tình hình kinh tế của nước ta những năm gần đây nếu so với thời kì bao
cấp thì đã đạt được những bước tiến dài. Việt Nam trở thành một trong những
nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tốc tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình
8%/năm. Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập có hiệu quả với
thế giới. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm qua.Giá trị
kim ngạch xuất khẩu tương đương 60% GDP cả nước.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa chưa vững chắc. Lao động trong khu vực nông nghiêp còn
chiếm trên 60%, lao động trong khu vực công nghiệp phần lớn là lao động giản
đơn, kỹ thuật thấp và chủ yếu nằm trong ngành nghề gia công may mặc, thủy hải
sản sơ chế .Những ngành công nghệ cao như điện tử, phần mềm vi tính chiếm tỉ lệ
thấp trong cơ cấu xuất khẩu.
Mặt khác, ta chưa hình thành được chuỗi sản xuất giá trị gia tăng từ khâu
nguyên liệu ban đầu đến khâu sản phẩm hàng hóa tiêu dùng.Do đó doanh số tăng
nhưng hiệu quả kinh tế kém .Hệ quả là ta thường nhập siêu, nên dự trữ ngoại tệ
thấp, không đủ sức chống đỡ khủng hoảng.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của ta chưa được đầu tư đúng mức và đồng bộ,
cơ chế quả lý rườm ra và luật lệ đảm bảo cho việc vận hành kinh tế còn nhiều bất
cập, thiếu ổn định gây khó khăn lớn cho việc phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu
tư nước ngoài.
Bước vào giai đoạn khủng hoảng,nước ta cũng chịu ảnh hưởng mạnh, toàn
diện và phức tạp từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.Những chỉ số kinh tế - xã
hội năm 2008 biến động theo hướng không có lợi cho phát triển, lạm phát tăng liên
tục tới 22%/năm, nhập siêu tăng mạnh lên 17 tỷ USD/năm, giá thép, giá gạo, giá
dầu biến động rất lớn. Tăng trưởng GDP giảm liên tục qua các quý, kéo xuống còn
6,25%/năm. Sự biến đổi phức tạp từ thị trường tài chính vì sự mất cân bằng giữa
lượng tiền lưu thông và khối lượng hàng hóa hiện có, tỷ giá hối đoái giữa VND và
USD có lúc không thuận. Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán mất
giá liên tục.Hiện nay, Chính phủ đang nỗ lực thực hiện nhóm 5 giải pháp để tiếp
tục giải quyết tình hình suy giảm kinh tế. Ðến thời điểm hiện tại, tuy đã thu được

Phạm Hải Phương ,DH24HT01
kết quả bước đầu về sản xuất kinh doanh, tài chính và an sinh xã hội nhưng nền
kinh tế vẫn có những dấu hiệu làm chúng ta chưa yên lòng.
2.2. Cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế
Cuộc khủng hoảng lần này đã khiến tất cả những điểm yếu của nền kinh tế
Việt Nam đã bộc lộ rõ như đầu tư kém hiệu quả, hàm lượng tri thức của nền kinh
tế thấp, chất gia công của nền sản xuất còn ở mức rất cao do đó giá trị thặng dư
thấp, tăng trưởng chủ yếu dựa vào gia tăng đầu tư đặc biệt là đầu tư công.
Bên cạnh đó ưu tiên phát triền của Chính phủ cho các thành phần kinh tế
khá thiên lệch khi các tập đoàn nhà nước được hưởng quá nhiều ưu đãi tới mức độ
không thể giải thích nổi nếu so sánh với hiệu quả hoạt động của chúng trong khi
thành phần năng động nhất của nền kinh tế là kinh tế tư nhân không được quan
tâm đúng mức.
Điều đó cho thấy tư duy và mô hình tăng trưởng đã không còn phù hợp,
chúng ta cần một cuộc “đại phẫu thuật” nền kinh tế để phân bổ, sắp xếp lại nguồn
lực, lựa chọn hướng đi đúng đắn cho thời kì hậu khủng hoảng.
Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước:Theo thống kê của Ban đổi mới
doanh nghiệp, các DNNN đang chiếm giữ tới 80% lượng vốn tín dụng của các
ngân hàng trong nước; 70% vốn vay nước ngoài, trong khi chỉ tạo ra 40% GDP,
chưa kể trong 40% GDP ấy, phần lớn có được nhờ đặc quyền khai thác các tài
nguyên quốc gia. Năm 2008 tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước lên tới
181.000 tỷ đồng tương đương 10 tỷ USD.
Tiêu biểu cho vấn đề này là tập đoàn Vinashin, là tập hợp của hàng trăm
doanh nghiệp trong lĩnh vực đóng tàu, được ưu tiên khai thác 750 triệu USD từ
nguồn tiền bán trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên trái ngược với sự ưu đãi đó,
Vinashin đầu tư vốn vào lãnh vực tài chính ,vốn không phải là thế mạnh của tập
đoàn này, và kết quả thu được là những khoản lỗ hàng trăm tỉ đồng .
Phạm Hải Phương ,DH24HT01
Sự bất bình đẳng trong việc đầu phân bổ nguồn lực là vật cản khiến cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có cơ hội phát triển. Đã đến lúc cần phải triệt để cải

tổ khu vực kinh tế nhà nước để tăng hiệu quả cho việc tận dụng các nguồn lực
quốc gia.
Đầu tư cho nông thôn: Trong 5 năm 2001-2005 tổng đầu tư cho nông
nghiệp nông thôn mới đạt 113.116 tỷ đồng, đáp ứng khoảng 17% nhu cầu. Trong
khi nông nghiệp vẫn chiếm 22% trong GDP thì chi tiêu công cho nông nghiệp chỉ
đạt 6-7% ngân sách Nhà nước hay 1-1,5% GDP và đang giảm tiếp (năm 2005 là
7,9% thì năm 2007 chỉ còn 6,7%.
Trước mắt cần ưu tiên cho cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nguồn nhân
lực và đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng để đầu tư có hiệu quả nhanh cần chú ý đến
chống tham nhũng vì đầu tư cho xây dựng cơ bản trong nông nghiệp còn bị thất
thoát rất lớn.
Bên cạnh đó việc sửa đổi luật đất đai có lợi cho nông dân và các biện pháp
hiệu quả bảo vệ đất nông nghiệp, ổn định quy hoạch đất nông nghiệp sẽ mang tính
quyết định đến hiệu quả đầu tư và thu hút đầu tư của nông dân vào nông nghiệp.
Song song với việc thực hiện các gói kích thích về tài chính, cần cấp thiết hoàn
thiện và phát triển các thể chế thị trường và thể chế nông thôn, cải cách hành chính
để tạo môi trường cho các đầu tư tài chính phát huy tác dụng.
Giai đoạn hậu khủng hoảng, Việt nam có chỗ dựa vững chắc là nông nghiệp
nên chắc chắn kích thích cho nông nghiệp phát triển sẽ không chỉ đảm bảo kinh tế
phát triển mà còn ổn định an sinh xã hội.
Phát triển công nghệ và nguồn nhân lực: Cần chuyển dịch từ sản xuất
những sản phẩm dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên khoáng sản thâm dụng
lao động rẻ… sang những ngành nghề chế biến sử dụng công nghệ cao, thâm dụng
vốn lớn để đạt những giá trị tăng cao hơn, nâng cao thu nhập cho người dân.
Song song đó cần đổi mới cách đánh giá và phát triển nguồn nhân lực để
tạo ra tầng lớp tinh hoa với phương châm ít mà tinh và lực lượng lao động chất
lượng cao dồi dào nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Cần cải thiện chất lượng giáo dục đại học và đào tạo nghề ,theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện đồng bộ trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các
nước tiên tiến phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời đẩy mạnh công tác xã

hội hóa giáo dục …
Phát triển cơ sở hạ tầng:Xây dựng và cải tạo lại hệ thống giao thông, xác
định các tuyến trục quốc lộ, đường cao tốc giao thông bộ, đường săt, sân bay, bến
cảng cho cả nước và cho khu vực. Nhằm phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Các tuyến đường hiện có gắn vào hệ thống
mới này.
Phạm Hải Phương ,DH24HT01
Đầu tư phát triển ngành năng lượng, và năng lương thay thế , khắc phục
tình trạng thiếu điện…
3. Kết luận
Nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997, Hàn Quốc đã tiến
hành chính sách cải cách mạnh mẽ trong hàng loạt các lĩnh vực như pháp luật tài
chính doanh nghiệp… Kết quả là 4 năm sau tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc đạt
tới 8.6% và kéo dài và kéo dài cho đến gần đây. Trong khi đó các nước như Thái
Lan, Indonesia, Philiphin đã không tiến hành cải cách nên nền kinh tế rơi vào tình
trạng trầm lắng kéo dài với tốc độ tăng trưởng thấp. Vậy sau đợt khũng hoảng lần
này , Việt Nam có vươn lên mạnh mẽ như Hàn Quốc hay vẫn tiếp tục là một nước
nghèo với nền kinh tế gia công và tận dụng lao động phu thuộc rất nhiều vô khả
năng tận dụng cơ hội cũng hoảng để phát triển kinh tế .
Tuy nhiên, việc tận dụng thời cơ trong khủng hoảng không phải là một
công việc dễ dàng, cần phải có nỗ lực quyết tâm cao và thái độ thẳng thắn nhìn
nhận sai lầm thiếu sót để khắc phục triệt để .Tránh tình trạng áp dụng cải cách nửa
vời theo kiểu “bình mới rượu cũ” hay chạy theo những cơ hội viển vông sẽ dẫn tới
tình trạng xấu hơn cho nền kinh tế .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Sách “Giáo trình nguyên lí kinh tế vĩ mô”
 Báo Tuanvietnam.net
 Báo VnExpress.net
 Báo VnEconomy.vn
 Báo VnTrades.com


Phạm Hải Phương ,DH24HT01

×