1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
MỤC LỤC
Phần mở đầu 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung 5
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn 7
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử 8
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
6. Phương pháp nghiên cứu 10
7. Bố cục luận văn 11
Phần nội dung 12
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học
cho HS trong giảng dạy văn học sử ở THPT 12
1.1. Cơ sở lí luận 12
1.1.1. Khái niệm tự học 12
1.1.2. Khái niệm năng lực tự
học
14
1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học 18
1.1.2.2. Điều kiện để tự học có hiệu quả 22
1.1.3. Tự học đối với các bài học về văn học sử trong SGK 26
1.1.3.1. Mục tiêu của bài học văn học sử 26
1.1.3.2. Nội dung của bài học văn học sử 26
1.1.3.3. Hình thức của bài học văn học sử 26
1.1.3.4. Hình thành năng lực tự học cho HS theo các kiểu bài văn học sử 26
1.2. Cơ sở thực tiễn 28
1.2.1. Tình hình tự học các bài học về văn học sử của HS THPT 28
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
1.2.1.1. Về tinh thần tự học các bài học văn học sử của HS THPT 28
1.2.1.2. Về hoạt động tự học bài học văn học sử của HS THPT 29
1.2.2. Thực trạng về dạy học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học
cho HS 30
1.2.2.1. Đối với GV 30
1.2.2.2. Đối với HS 31
Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học qua
các bài học văn học sử 32
2.1. Biện pháp 1: Hình thành năng lực nhận diện các loại văn bản trong SGK
Ngữ văn 10 33
2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng phát hiện ghi nhớ các nhận định của SGK
về lịch sử văn học 37
2.3. Biện pháp 3: Hình thành kĩ năng làm các bài tập nâng cao về văn học sử
trong SGK Ngữ văn 10 43
2.4. Biện pháp 4: Đổi mới giờ học văn học sử theo hướng tổ chức HS trình bày
kết quả tự học 51
Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự
học 5 8
3.1.Thiết kế bài học “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” 58
3.2. Thiết kế bài học “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX” 6
2
3.3. Thiết kế bài học “Nguyễn Du” 73
Phần Kết
luận
78
Tài liệu tham khảo 81
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
PHẦN MỞ ĐẦU
1 - Lý do chọn đề tài
1.1. Thế kỉ XX đã trôi qua, cả nhân loại đang bước vào thế kỉ mới. Một
trong những đặc điểm cơ bản của thế kỉ này là cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật đang phát triển như vũ bão, thời đại của nền “kinh tế tri thức” đã và đang
dẫn đến sự bùng nổ thông tin.
Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế
giới, của thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra với nền giáo dục
nước ta là: phải liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy
học. Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân, mỗi cá thể, mỗi công dân tự
mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập trong bản thân mỗi con
người.
Nhà trường phải giúp cho từng HS thay đổi triệt để quan niệm và phương
pháp học tập phù hợp với yêu cầu của thời đại - thời đại mà mỗi người phải học
tập suốt đời. Để học tập không ngừng, học tập cả đời, mỗi người phải biết cách
tự học, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, tự học là một vấn
đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Tiến hành một cuộc cách mạng học tập trong nhà trường và trong bản
thân mỗi người phải là một chiến lược cấp bách của thế kỉ XXI. Trong cuộc
cách mạng ấy, chiến lược cốt lõi là cuộc cách mạng về phương pháp. Hiện nay,
sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường phổ thông, phương pháp đào
tạo ở trường sư phạm chưa có sự rõ rệt, phổ biến vẫn là cách dạy thông báo các
kiến thức có sẵn, cách học thụ động.
Mặc dù trong những năm gần đây đã có nhiều sự chuyển biến về phương
pháp, nhiều GV đã tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức
mới. Nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Trước sự thay đổi, sự tiến bộ của xã hội như vậy thì việc dạy và học một cách
thụ động sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự thách thức đòi hỏi phải thay đổi về
phương pháp dạy và học. Đây không phải là vấn đề riêng của nước ta mà là vấn
đề đang được quan tâm trên mọi quốc gia trong việc phát triển nguồn lực con
người phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội.
1.2. Cuộc cách mạng về phương pháp đã và đang diễn ra liên tục và
mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, đổi mới phương pháp trong những năm gần
đây đang trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt trong nhà
t
rường. Phương
pháp dạy – học văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Làm sao tạo được
bước chuyển mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện trong dạy – học văn
đang là nỗi lo, nỗi trăn trở của các nhà phương pháp. Thực tế việc dạy văn
nói chung, việc dạy văn học sử (VHS) nói riêng vẫn còn nằm trong cách dạy,
cách học cũ không phát huy được năng lực của học sinh. Cách dạy văn hiện
nay vẫn là lối dạy thuyết trình, kết quả đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái
hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc
t
heo sách giáo
khoa. Do đó, khả năng độc lập, tìm tòi sáng tạo của HS không có cơ hội phát
triển.
Đối với các bài học VHS, do đặc thù của bài nên nhiều GV chưa có sự
đầu tư đúng mức để HS thực sự quan tâm. Phương pháp tái hiện kiến thức,
thuyết trình vẫn chiếm đa số trong các bài dạy. Vì vậy, dẫn tới tình trạng HS
thờ ơ với bài giảng, thụ động, ngại tư duy. Từ đó, vô hình chung đã làm mất đi
khả năng tự học, tự nghiên cứu của HS. Quá trình dạy – học văn trong nhà
trường nói chung và dạy các bài VHS nói riêng đang đổi mới cơ bản về nội
dung và phương pháp dạy học, để từng bước khắc phục tình trạng HS thụ động
trong lĩnh hội tri thức, khẳng định vai trò HS là trung tâm, của quá trình dạy –
học, HS là bạn đọc sáng tạo. Vậy làm như thế nào để tiếp cận được mục đích
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
giáo dục? Làm thế nào để phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của người
học? Đó là những vấn đề cụ thể đang cần tìm được lời giải đáp của các nhà sư
phạm chúng ta.
Đối với các bài VHS, làm thế nào để HS không thờ ơ với bài giảng,
hứng thú say mê tìm hiểu? Làm thế nào để HS rèn luyện được những thói
quen tốt trong học tập? Làm thế nào để HS hiểu rõ hơn về nền văn học Việt
Nam?
Vì vậy, đặt vấn đề hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua các bài
VHS là một việc làm cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp,
phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của người học”, đáp ứng mục tiêu của
giáo dục, như nghị quyết II của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã ghi:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện hình thành nếp tư duy sáng tạo của người học, phát triển
mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn
dân ”
Một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử văn học
trong nhà trường là hình thành năng lực tự học cho HS qua từng bài học. Đó là
lí do khiến chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung.
Vấn đề tự học của HS – SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở nước ngoài, trong sách “Học tập hợp lí” (Cộng hòa dân chủ Đức trước
đây) do R.Retzke chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực
tự nghiên cứu cho HS mới vào trường. Năm 1984, NXB Thanh niên giới thiệu
cuốn “Nghiên cứu học tập như thế nào” của Hebơc Smitman (Cộng hoà dân
chủ Đức). Với cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới nhiều vấn đề về phương
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
pháp nghiên cứu và tự học như thế nào cho khoa học và đạt kết quả cao. Cuốn
“Tự học như thế nào” của Rubakin, dịch giả là Nguyễn Đình Côi, xuất
bả
n
1982 đã giúp bạn đọc biết tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện của mình.
Cuốn “Phương pháp dạy và học hiệu quả” – Cark Rogers – một nhà giáo dục
học, nhà tâm lý học người Mĩ do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho HS câu
hỏi học cái gì và học như thế nào? Câu hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng
được giải đáp. Ngoài ra, còn khá nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự
học.
Ở nước ta, trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết về
tự học. Tác giả Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của
HS THPT”. GS. Phan Trọng Luận với bài: “Dạy văn để HS tự học văn”. Tại Hà
Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự học – tự
đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều GS
đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết, các bài phát biểu
đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm
lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Bộ trưởng Bộ giáo dục - đào tạo
Nguyễn Thị Bình nói: “Năng lực tự học – tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con
người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quan tâm tự học –
tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra “nội lực” cần thiết cho sự
phát triển một con người và cho đất nước”. Tạp chí nghiên cứu
G
iáo dục số 2
năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo:
“Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng
lực tự học sáng tạo của HS” của Nguyễn Nghĩa Dân. Tiếp theo đó, tạp chí
Nghiên cứu giáo dục đã có rất nhiều các bài viết khác như bài của Thạc sĩ Thái
Văn Long (Cà Mau) “Khơi dậy và phát huy năng lực tự học sáng tạo của người
học trong Giáo dục - đào tạo”, hay “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình
dạy học, giáo dục và đào tạo” của GS. Trần Bá Hoành, “Hồ Chí Minh với vấn
đề tự học” của GS. Đặng Quốc Bảo.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học” –
Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê,
“Luận bàn và kinh nghiệm tự học” – GS. Nguyễn Cảnh Toàn Những cuốn
sách này chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình tự học
của một số tác giả. Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho
ra mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tập chí này đã thu hút sự quan tâm chú ý và
sự tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà khoa học, giáo sư, nhà
giáo Các tác giả đã cung cấp lý thuyết dạy tự học như thế nào, bên cạnh đó có
thể hiện thiết kế bài học một số môn. Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới chỉ
dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện
pháp cụ thể đối với từng môn học.
Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, NXB
ĐHSP, xuất bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết
một cách có hệ thống về việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách này đã thực
sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở Việt Nam,
đặc biệt là quá trình dạy tự học.
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn.
Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi người đọc
phải có sự liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Nên trong việc thay đổi phương
pháp giảng dạy thì giảng dạy môn Ngữ văn cũng là một vấn đề được quan tâm.
Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học” do nhóm tác giả
GS Trần Bá Hoành, TS Nguyễn Trí, PGS TSKH Cao Đức Tiến, TS Nguyễn
Trọng Hoàn biên soạn do NXBĐHSP Hà Nội xuất bản đã nói đến một trong
những đặc trưng của phương pháp tích cực đó là tự học. Các tác giả cũng nhấn
mạnh đến nội dung dạy và học tập trung vào HS. ở đó, các tác giả không chỉ
quan tâm đến kiến thức, năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cuốn “Văn học giáo dục thế kỉ XXI” của GS Phan Trọng Luận,
NXBĐHQG Hà Nội, 2002 có một số bài đề cập đến vấn đề đổi mới phương
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
pháp và vấn đề tự học. Với bài “Tự học – chuyện cũ mà mới”, tác giả đã đề cập
đến bí mật và bí quyết của tự học. Hay bài “Dạy cho sinh viên tự học và học
sáng tạo”, tác giả nhấn mạnh đến vấn đề: muốn cho sinh viên tự học và học
sáng tạo thì phải cải tiến lại nội dung bài giảng ở Đại học, nâng cao hơn nữa
chất lượng bài giảng.
Như vậy, đã có rất nhiều những bài viết, những công trình đề cập đến vấn
đề tự học nói chung và tự học môn Ngữ văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ ra
được mục tiêu, cách thức, biện pháp để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết còn
thiên về mặt lí thuyết mà chưa cụ thể hoá đối với từng môn học, phân môn của
nhà trường PT.
Ví dụ: đổi mới môn văn học mới chỉ tiếp cận về quá trình dạy tự học ở
góc độ giáo dục còn cụ thể với từng loại bài học như giảng văn, văn học sử,
tiếng Việt, tập làm văn thì chưa có bài viết nào đề cập đến một cách sát thực,
vẫn còn thiếu vắng những chuyên luận vừa mang tính lí luận vừa mang tính
thực tiễn, sát thực với từng phân môn cụ thể của nhà trường THPT.
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử.
Trong chương trình Ngữ văn ở THPT, các bài học về văn học sử chiếm
giữ một vị trí quan trọng vì nó cung cấp những tri thức khái quát về văn học
cho HS, nhưng lại chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít ỏi và khiêm tốn. “Mấy vấn đề giảng dạy
văn học sử ở trường PT cấp 3” và “Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học”
của GS Phan Trọng Luận, hay trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học
văn” do GS Phan Trọng Luận chủ biên cũng chỉ dành một chương để nói về
văn học sử, hay một phần không nhiều trong cuốn “Dạy văn dạy cái hay cái
đẹp” của Nguyễn Duy Bình. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một số
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
luận văn Thạc sĩ cũng đã khai thác đề tài tự học, tự nghiên cứu như “Những
hình thức tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong giờ học văn học sử ở
trường THTP” của Đào Văn Phán, “Hình thành năng lực nghiên cứu cho HS
THPT qua giờ văn học sử” của Lê Khánh Tùng, “Rèn luyện năng lực tự học
cho HS qua những giờ văn học sử (bài khái quát giai đoạn văn học)” của
Nguyễn Thị Bích Hường, “Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài
học văn học sử (tác gia)” của Vũ Thị Sáu.
Mặc dù dã có một số luận văn nghiên cứu về việc rèn luyện tự học
cho HS, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài “Day học văn học sử
theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh
lớp 10”. Chương trình và SGK Ngữ văn 10 đã có sự thay đổi về nhiều mặt.
Chúng tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc
tháo gỡ những khó khăn, lúng túng cho GV trong khi thực thi chương trình
và SGK Ngữ văn mới.
3. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn của chúng tôi gồm có hai mục đích:
- Tìm hiểu thực tế giảng dạy các bài văn học sử ở THPT theo chương
trình SGK Ngữ văn 10 được thực thi đại trà trong nhà trường THPT từ năm học
2006 - 2007. Cụ thể là tìm hiểu tiến trình, các phương thức hoạt động của thầy
– trò và hiệu quả trong giờ học văn học sử.
- Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất những biện pháp cụ thể để nhằm hình
thành tự học cho HS khi dạy các bài học về văn học sử.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để hoàn thành được mục tiêu đề ra, chúng tôi phải hoàn thành những
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết (vị trí, mục đích, yêu cầu
của việc giảng dạy văn học sử, nguyên tắc giảng dạy văn học sử, các phương
pháp giảng dạy văn học sử, chương trình SGK Ngữ văn )
- Nghiên cứu những tiền đề lí luận cần thiết về tự học, về đổi mới
phương pháp.
- Đánh giá có căn cứ thực trạng dạy –học văn học sử ở trường PT theo
hướng rèn luyện năng lực tự học.
- Đề xuất một số biện pháp để hình thành năng lực tự học cho HS qua bài
học văn học sử.
- Thiết kế bài học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu: phương pháp dạy học các bài học về văn học sử
theo hướng hình thành năng lực tự học cho HS.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: các bài học về văn học sử có trong SGK Ngữ văn
10.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài “Dạy học văn học sử theo hướng hình thành và
phát triển năng lực tự học ở học sinh lớp 10”, chúng tôi sử dụng cả hai nhóm
phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Nhóm nghiên cứu lý thuyết sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê phân loại.
6.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học
cho học sinh trong giảng dạy văn học sử ở THPT.
Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học
qua các bài học văn học sử
Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự
học
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
PHẦN NỘI DUNG
Chương
I
Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình
thành
năng lực tự học cho học sinh trong giảng
dạy
văn học sử ở trung học phổ
thông
1.1. Cơ sở lí luận.
1.1.1. Khái niệm tự học.
Trong dân gian ta từ xưa vẫn có câu “Không thầy đố mày làm nên”, vậy
mà, phương pháp dạy học ngày nay lại hướng HS tới việc tự học, tức là học mà
không có thầy. Phải chăng điều đó là mâu thuẫn?
Vậy tự học là gì?
Có tác giả xem hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy học.
Có tác giả lại chú ý tới hoạt động tự học như là một phương thức tự đào tạo, tự
nâng cao trình độ học vấn của người học.
Hoạt động tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức điều khiển trực tiếp của
GV như trong các phương pháp dạy học tích cực; hoặc có thể diễn ra dưới sự tổ
chức điều khiển gián tiếp của GV như một hình thức tổ chức dạy học trong mối
quan hệ với các hình thức tổ chức dạy học khác. Hoạt động tự học là phương
thức đào tạo của con người. Vì vậy có rất nhiều định nghĩa về tự học khác
nhau.
Có ý kiến cho rằng “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học” (PGS Lê
Khánh
Bằng); lại có ý kiến “Tự học là hình thức hoạt động cá nhân, do bản thân
người
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
học nỗ lực thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập ở trên lớp hay ngoài lớp;
có thể diễn ra khi còn đang học, khi đã ra trường và trong suốt cả cuộc đời” (TS
Hà Thị Đức).
GS Nguyễn Cảnh Toàn trước hết đã chính xác hoá các khái niệm:
“Học giáp mặt” là học giáp mặt với thầy, thầy trò nhìn mặt nhau và có
thể trao đổi thông tin bằng lời nói trực tiếp (không qua máy móc) bằng chữ
viết, nhìn trực tiếp ngay trên bảng, trên giấy bằng cả ánh mắt, nụ cười, nét
mặt, cử
chỉ.
“Học từ xa” là học không giáp mặt với thầy, mọi thông tin giữa thầy và
trò đều không trực tiếp mà là gián tiếp qua sách vở, tài liệu và các phương tiện
kĩ thuật của tin học và viễn thông. “Xa” chỉ có nghĩa là không giáp mặt nhau
còn khoảng cách địa lí giữa thầy và trò có thể là nửa vòng trái đất cũng có thể
chỉ là vài chục mét.
Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan
sát, so sánh, phân tích tổng hợp ) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công
cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó ngại
khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn
thành thuận lợi ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Như vậy, cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học và không ai có
thể học hộ người khác được.
Khi nói học là hàm ý xét đến mối quan hệ với ngoại lực, tức là dạy. Còn
khi nói là tự học, là chỉ riêng nội lực ở người học. Hai người cùng học một
thầ
y nhưng kết quả tuỳ theo chất lượng tự học ở từng người. Ngoại lực tác động
đến nội lực như thế nào thì đó chính là thước đo chất lượng dạy học. Tác
động đó có thể kìm hãm nếu thầy áp đặt; là kích thích nội lực phát triển nếu
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
thầy gợi
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
mở, khuyến khích sáng tạo, mà đỉnh cao là tạo nên được sự cộng hưởng của nội
lực.
Khả năng tự học tiềm ẩn trong mọi người, trừ những người bị khuyết tật
tâm thần. Ai cũng có thể tự học và tự học có kết quả. Khả năng tự học tiềm ẩn
đó là một tài nguyên quý giá của loài người. Học là kế thừa vốn văn hóa, khoa
học của nhân loại. Vốn đó rất bao la, nếu không tổ chức thì chẳng ai kế thừa
nổi. Trước hết phải biết lựa chọn, sắp xếp thành một trình tự hợp lôgíc và hợp
tâm lí người học để xây dựng lên các loại chương trình, viết các SGK. Vậy ai
làm việc đó? Phải nhiều thầy, thậm chí nhiều thế hệ thầy mới làm nổi. Thử
tưởng tượng trong tất cả mọi chương trình và SGK trên hành tinh cháy hết và
cũng biến khỏi trí nhớ của mọi người, rồi loài người văn minh như ngày nay
phải làm lại từ đầu chương trình và SGK cho các bậc học, lớp học từ dưới lên
trên thì mới thầy câu “không thầy đố mày làm nên” đúng trong mọi trường hợp,
cho dù người học là thần đồng.
1.1.2. Khái niệm năng lực tự học
Hoạt động tự học muốn diễn ra thực sự thì có một yêu cầu đặt ra là: cần
phải hình thành được ở người học năng lực tự học. Chỉ khi đã có được năng lực
tự học trong bản thân mình, người học mới tự mình tiến hành việc học tập một
cách tự chủ, độc lập, sáng tạo như đòi hỏi của giáo dục đào tạo ngày nay.
Vậy thế nào là năng lực? “Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con
người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao” (Từ
điển tiếng Việt – Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, Việt Nam, Hà Nội.
1992).
Giáo trình “Tâm lí học đại cương” (NXBĐHQGHN, 1998) chia khả năng
thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài. Nếu năng lực là một
mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn thành có kết
quả một hoạt động nào đó; tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị
s
ự
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó; thì thiên tài là mức độ cao
nhất của năng lực, biểu thị mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của các vĩ nhân trong
lịch sử nhân loại.
Khi phân loại, người ta chia năng lực ra làm hai loại: năng lực chung và
năng lực riêng biệt. Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực
hoạt động khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan
sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ ) là những điều kiện cần thiết để
giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả.
Còn năng lực riêng biệt (chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể hiện độc đáo
các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một
lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao, chẳng hạn: năng lực toán học,
năng lực thơ văn, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, thể dục thể thao
Hai năng lực này luôn có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Giữa năng lực và
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo luôn có sự thống nhất biện chứng (không thể không
đồng nhất chúng với nhau). Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đấy
có nghĩa là có tri thức, kĩ năng kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Vấn đề phát
hiện, bồi dưỡng năng lực, năng khiếu của mỗi người là một trong những vấn đề
cơ bản của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao dân lực, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là
năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con
người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Vậy người có năng
lực tự học là người có khả năng tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ, và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm, nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình qua sách vở, qua bạn bè, qua thầy
giáo.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Nếu xem nội lực là nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân người
học thì năng lực tự học được xem là có ý nghĩa quyết định. Việc học nhất là tự
học được lấy làm trung tâm. Trò là chủ thể – trung tâm tự mình chiếm lĩnh tri
thức, chân lí bằng hành động của chính mình, tự phát triển từ bên trong.
Thầy là tác nhân, người hướng dẫn, người tổ chức, đạo diễn cho trò tự
học. Người thầy giỏi là người biết dạy cho trò tự học. Người học giỏi là người
biết tự học, biết sáng tạo suốt đời. Tự học không có nghĩa là học một mình, đơn
thân mà học trong sự tương tác với các bạn, trong môi trường xã hội, dưới sự
hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của các bạn – ngoại lực. Ngược lại, tác động
của thầy và môi trường xã hội sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy được năng
lực tự học của người học. Nói cách khác, quá trình tự học, tự nghiên cứu, cá
nhân hóa việc học phải kết hợp với quá trình hợp tác với các bạn trong cộng
đồng lớp học và quá trình dạy học của nhà giáo. Kết hợp quá trình dạy với quá
trình tự học là nhằm làm cho “dạy” và “tự học” cộng hưởng được với nhau tạo
ra chất lượng và hiệu quả cao để đạt mục tiêu đào tạo con người lao động tự
chủ, năng động và sáng tạo, có năng lự tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực tự học.
Hệ phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm gọi tắt
theo đúng thực chất của nó là hệ phương pháp dạy tự học đã chỉ rõ: người học,
chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến
thức bằng hành động của chính mình. Người học không phải được đặt trước
những kiến thức có sẵn trong SGK hay bài giảng được chuẩn bị sẵn của thầy
mà tự đặt mình trước các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của
cuộc sống, từ đó thấy có nhu cầu hay hứng thú phát hiện và giải quyết những
vật cản, mâu thuẫn trong nhận thức của mình để tự mình tiến xa “cái chưa
biết”, “ cái cần khám phá”, “cái mới”. Tự đặt mình vài tình huống học, người
học quan sát, suy nghĩ, tự nghiên cứu tra cứu, tự làm thí nghiệm, đặt giả thiết,
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
đặt vấn đề để tự mình tìm ra kiến thức, chân lí cùng với cách xử lí tình huống,
cách giải quyết vấn đề. Tri thức và phương pháp, người học đã tự lực khám phá
ra không rập theo một khuôn mẫu có sẵn, đều là tri thức và phương pháp mới.
Do đó, hoạt động tự lực, tự tìm ra cái chưa biết mang tính sáng tạo đối với
người học. Muốn phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học thì
cần phải rèn luyện phương pháp học tập cho HS, coi đây không chỉ là một
phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà là một mục tiêu quan trọng của dạy
học.
Tự học là con đường thử thách rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của
mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Con người luôn luôn phải tự học để
nâng cao học vấn. Vì tự học chính là một biểu hiện rõ nét của chí lớn, lập
nghiệp để hoà nhập với cộng đồng của mỗi con người.
Tự học là con đường tạo ra tri thức vững chắc, lâu bền cho mỗi con
người trên hành trình đi tìm kiến thức. Kiến thức do tự học đem lại bao giờ
cũng vững chắc, lâu bền, thiết thực và đầy sáng tạo. Tự học đã và đang trở
thành chiếc chìa khoá mở cánh cửa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Bất cứ
một nền giáo dục hiện đại tiên tiến nào cũng đề cao năng lực cá nhân, coi trọng
vấn đề tự học, tự mình giáo dục, tự mình phát triển, tự mình điều khiển. Tự học
là con đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường thành đạt của mỗi
con người muốn bước vào lĩnh vực trí tuệ của thời đại mới.
Tự học, tự vươn lên, tự phát triển trí tuệ và nhân cách trong cuộc sống và
hoạt động xã hội của mỗi công dân chính là tích luỹ kho báu chất xám trí tuệ
cho sự nghiệp chung của đất nước ta trong vận hội mới ngày nay.
Hình thành năng lực tự học cho HS THPT có nghĩa là hình thành năng
lực nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động cho HS. Là hình thành cho họ khả
năng phát huy tới mức cao nhất tính tự lực trong học tập và thể hiện được cá
tính sáng tạo riêng của mình, thực hiện tốt nhất những mục đích, nhiệm vụ mà
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
môn học đề ra. Nói cách khác, hình thành năng lực tự học cho HS cũng chính là
hình thành tri thức và kĩ năng cho họ. Cho nên, vai trò của các biện pháp nhằm
hình thành năng lực tự học là vô cùng quan trọng.
Để hoạt động tự học đạt kết quả như mong muốn, người học cần phải
nắm được đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học. Vậy đặc điểm và bản
chất của hoạt động tự học là gì?
1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học.
Dưới các góc độ khác nhau, thì có nhiều các quan niệm khác nhau về tự
học. Có quan niệm cho rằng: học tập là một biến đổi vững chắc trong hành vi
hoặc trong năng lực ứng xử theo một cách nào đó. Sự biến đổi đó là kết quả của
thực hành hoặc của hình thức thể nghiệm khác; Lại có quan niệm cho rằng: học
tập là quá trình lĩnh hội kiến thức mới hoặc kĩ năng mới. Sự học tập được xác
định dưới những hành động mà HS cần phải thực hiện được, cách học là một
chuỗi hành động thử và sai. Song thực tế, học tập là hoạt động có mục đích và
luôn được thúc đẩy bởi một hệ thống những động cơ nhất định; Còn tác giả
Nguyễn Ngọc Quang đứng trên quan điểm nghiên cứu cấu trúc hệ thống của
quá trình dạy học và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc đó, đặc biệt là mối
quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa thày và trò, lại quan niệm:
Học tập là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học,
bằng cách đó mà hình thành cấu trúc tâm lí mới, phát triển nhân cách toàn diện
[37]. Theo tác giả này, học tập là quá trình bao gồm cả hoạt động tự học và
hướng dẫn tự học; Tác giả Lê Khánh Bằng cho rằng: “Học – về bản chất là quá
trình tiếp thu và xử lí thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay từ đó
mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới” [3]. Như vậy, theo các tác giả thì học
tập là quá trình bao gồm quá trình tiếp thu và xử lí thông tin, mục đích của việc
học tập là nhằm biến đổi nhân cách của người học.
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể đi tới khái niệm về học tập: Đó
là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu và xử lí thông tin từ
môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành
cấu trúc tâm lí mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn
thiện và dù trong tình huống nào thì bản thân sự học cũng đã chứa đựng sự tự
học.
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân có thể học theo cách khác nhau. Người ta
có thể kể đến cách học ngẫu nhiên trong cuộc sống sinh hoạt và lao động. Cha
ông ta đã có câu: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Cách học này, giúp
người học nắm được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm thông qua nhiều
hoạt động, và ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. Tuy vậy, cách học này cũng
có những nhược điểm: nó chỉ cho phép người học lĩnh hội một cách vụn vặt, tự
do, không hệ thống các tri thức có liên quan trực tiếp đến nhu cầu hứng thú,
nhiệm vụ trước mắt.
Khác với cách học ngẫu nhiên là cách học có chủ định. Đây là cách học
có mục đích và đối tượng. Nó được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp
nhận tri thức, kĩ năng kĩ xảo và hình thành cả các cách thứ chiếm lĩnh chúng.
Mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội lịch sử thông qua
sự tái tạo của cá nhân người học và vận dụng tri thức đó để cải tạo thực tiễn và
cải tạo chính bản thân mình.
Như trên đã nói, trong bất kì tình huống nào thì trong bản thân sự học
cũng chứa đựng sự tự học. Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ
cao. Đã có rất nhiều quan niệm xoay quanh vấn đề này. Tác giả Trịnh Quang
Từ cho rằng: “Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người
học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định”
[35]. Còn GS. Nguyễn Cảnh Toàn quan niệm: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp )
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất của mình kết hợp với cả động cơ, tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, say mê khoa học ) để chiếm
lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đấy” [31]. Theo tác giả này, tự học diễn ra ngoài
giờ lên lớp, không có sự giáp mặt giữa thầy và trò.
Sở dĩ quan niệm về tự học của các tác giả trên khác nhau bởi vì họ đứng
trên những góc độ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, họ đều quan niệm tự học
là học với sự độc lập, tích cực, tự giác ở mức độ cao. Đó là một quá trình mà
trong đó chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú vốn tri thức của
mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân tay, nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say
mê học hỏi của cá nhân. Tự học có thể diễn ra ở bất cứ thời gian và địa điểm
nào (có thể trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp). Khi có hệ thống SGK thì việc học
có thể diễn ra theo ba cách:
- Có SGK rồi người học tự đọc lấy mà hiểu, mà thấm thía các kiến thức
trong sách, qua lao động để hiểu mà tự rút ra kinh nghiệm về tư duy. Đó là tự
học ở mức độ cao. Ngoại lực ở đây tác động thông qua SGK. Tác giả SGK, nếu
là thầy giỏi thì có thể giúp nhiều không những cho việc tiếp thu kiến thức mà
còn cả cho việc rèn luyện tư duy và tính cách. Dù sao chỉ với SGK thì tác động
của ngoại lực cũng bị hạn chế và nội lực phải cố gắng nhiều.
- Có SGK và có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn tự học, bằng tài
liệu hay bằng các phương tiện viễn thông khác. Hướng dẫn tự học chủ yếu là
hướng dẫn tư duy giúp người học tự chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn người học
tự phê bình về tính cách trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức. Đó là tự học có
hướng dẫn.
- Có sách và có thầy hướng dẫn trực tiếp một số tiết trong ngày, trong
tuần. Bằng những hình thức thông tin trực tiếp không qua máy móc hoặc ít
nhiều có sự hỗ trợ của máy móc đặt ngay trên lớp .
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Khách quan mà xét thì thuận lợi đối với người học tăng dần lên từ cách
một đến cách ba. Theo cách một thì người học gặp nhiều khó khăn. Nhưng điều
đó thật đáng quý vì nó buộc người học phải phát huy nội lực cao và do đó nội
lực phát triển mạnh. ở cách thứ ba, xét bề ngoài thì hình như có nhiều thuận lợi
nhất. Nhưng thuận lợi đó có thể biến thành khó khăn nếu thầy không cảnh giác
với việc làm thay trò (ở những công việc mà trò tự lực làm được, và trò không
cảnh giác với việc ỷ lại vào thầy).
Dạy giỏi là biết kích thích tự học đúng theo các quy luật của tâm lí, tư
duy, khiến cho năng lực tự học phát triển mạnh, nhờ vậy mà kiến thức cũng dày
lên nhanh một cách vững chắc, sâu sắc.
Tóm lại, tự học là một quá trình, trong đó, dưới vai trò chủ đạo của GV,
người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thông qua các hoạt động
trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán ) và cả hoạt động
thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị học tập). Tự học gắn liền với động cơ,
tình cảm và ý chí của người học để vượt qua mọi trở ngại trong học tập nhằm
tích lũy kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại,
biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân
người học. Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GV. Tự học có
thể diễn ra dưới ba hình thức khác nhau: tiếp nhận thông tin từ môi trường bên
ngoài, xử lí thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra,
đánh giá kết quả tự học của mình.
Qua những phân tích trên, chúng ta thấy tự học có vai trò vô cùng quan
trọng. Nó là một nhân tố tham gia vào quá trình hình thành và phát triển nhân
cách con người. Nhờ tự học mà con người khắc phục được mâu thuẫn giữa sự
vô hạn của học vấn với giới hạn của tuổi học đường, giữa khát vọng về sự hiểu
biết với hoàn cảnh vốn có của bản thân, tạo cho con người khả năng vươn tới
đỉnh cao tri thức ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn.
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Tác giả Nguyễn Đức Thâm đã viết: “Muốn học được nhiều thì chủ yếu là
tự học, thầy dạy không thể dạy tất cả những điều cần thiết đối với trò. Vì mỗi
HS có một tri thức riêng, có một trình độ tư duy riêng. Chỉ có tự học mới học
được tất cả những điều cần học” [36]
Vì thế, tự học là con đường thử thách, rèn luyện và hình thành ý chí cao
đẹp của mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Bởi quá trình tự học đòi hỏi
chủ thể tự học phải vượt qua mọi khó khăn thử thách, phải sử dụng ý chí của
mình để vượt qua những vật cản nhằm đạt được mục tiêu học tập đề ra.
Ngày nay, trước sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, sự
tăng trưởng với tốc độ nhanh và với khối lượng lớn của các lĩnh vực khoa học
thì việc học liên tục, học suốt đời lại càng trở nên quan trọng và cần thiết đối
với tất cả mọi người. Một trong những con đường hữu ích nhất để làm được
điều đó là tự học. Tự học là kim chỉ nam giúp con người có khả năng thích ứng
với xã hội mới trong tương lai.
Tuy nhiên, trong thực tế, không phải người nào tự học cũng có kết quả
như mong muốn. Muốn đạt được điều đó thì phải có những điều kiện nhất định.
Vậy những điều kiện đó là gì?
1.1.2.2. Điều kiện để tự học có hiệu quả
1.1.2.2.1. Điều kiện về thời gian
Đây là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên kết quả tự học. Muốn tự
học cần phải có thời gian để tiến hành hoạt động học tập và đòi hỏi chủ thể tự
học phải có kế hoạch sắp xếp thời gian một cách linh hoạt, sáng tạo. Thời gian
tự học cho từng môn phải phù hợp và tương xứng với thời lượng thông tin của
môn học đó, đồng thời phải cân đối giữa thời gian nghe giảng trên lớp với thời
gian tự học ở nhà. Điều cơ bản nhất là người học phải biết nâng cao hiệu suất
của thời gian học tập và đảm bảo luân phiên hợp lí giữa thời gian học tập với
thời gian nghỉ ngơi.
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
1.1.2.2.2. Điều kiện về tâm lí
Yếu tố tâm lí là yếu tố bên trong làm ảnh hưởng đến kết quả tự học của
HS. Đó là nhu cầu, động cơ và thái độ học tập tích cực của HS. Để tự học đạt
kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn,
phải có nhu cầu và hứng thú học tập thực sự, phải có sự say mê khoa học, phải
nhận thức rõ mục đích của hoạt động học tập và ý thức một cách đầy đủ về việc
học của mình. Bên cạnh đó, người học không ngừng hoàn thiện các chức năng
tâm lí, nhận thức để tiến hành hoạt động học tập một cách có hiệu quả dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của thầy như các quá trình cảm giác, tri giác, ghi nhớ, tư
duy đặc biệt là quá trình ghi nhớ và tư duy. Bởi lẽ, trong quá trình tự học HS
phải có khả năng tái hiện một cách chính xác, khoa học nội dung tài liệu tự
nghiên cứu. Đồng thời, phải có khả năng phân tích, so sánh, khái quát hóa hệ
thống nội dung tri thức trong tài liệu đã nghiên cứu thành một dàn ý hay một đề
cương tóm tắt.
Để hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt
khó để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong quá trình tự học nhằm đạt các
mục tiêu học tập đã đề ra.
Trong các yếu tố tâm lí trên có một yếu tố đóng vai trò hết sức quan
trọng đó là động cơ học tập. Bởi vì, động cơ học tập của HS được thể hiện rõ ở
đối tượng của hoạt động học. Động cơ học tập tạo sự say mê học tập, sự khát
khao mở rộng tri thức, hiểu biết và ý chí quyết tâm vượt khó để giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Trong thực tế, động cơ học tập của HS luôn gắn liền với nhu
cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Vì nhu cầu là nơi khơi
nguồn tính tích cực, độc lập tự giác của HS. Do vậy, muốn hình thành năng lực
tự học cho HS trong quá trình dạy học, người GV cần quan tâm đến việc hình
thành động cơ học tập cho HS.
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ht t
p :
/ /
ww w .
l r c -
tnu .
e du .
v n
Bên cạnh việc hình thành động cơ học tập đúng, người HS cũng cần hình
thành cho mình hệ thống kĩ năng tự học như: kĩ năng sắp xếp thời gian, kĩ năng
đọc sách, kĩ năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kĩ năng nghiên cứu khoa học,
kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập. Đồng thời cũng cần hoàn thiện các chức
năng nhận thức, đặc biệt là chức năng ghi nhớ và các thao tác tư duy như: phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa, trừu tượng hóa
1.1.2.2.3. Điều kiện về cơ sở vật chất
Điều kiện vật chất tối thiểu cần đáp ứng là SGK, các cuốn tài liệu tham
khảo và các tài liệu hướng dẫn tự học.
Hoạt động tự học của HS có mối quan hệ thống nhất biện chứng với
hoạt động của GV. Vì vậy, phương tiện phục vụ cho hoạt động dạy học cũng
cần phải đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động tự học của HS: phim ảnh,
đèn chiếu, băng hình, máy vi tính và các phương tiện nghe nhìn khác.
Địa điểm tự học cũng cần phải đảm bảo các điều kiện cần thiết về vệ sinh
học đường để hoạt động tự học có hiệu quả. Các điều kiện về cơ sở vật chất cần
thiết cho sinh hoạt hàng ngày nhằm phục vụ hoạt động tự học cũng cần được
đảm bảo.
Tự học của HS là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học. Nó không
tách rời hoạt động dạy của GV. Vì vậy, tự học chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi
nó diễn ra trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với hoạt động dạy của
thầy.
Trong quá trình dạy – học luôn diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện
chứng giữa người dạy, người học và nội dung tri thức mà người học cần chiếm
lĩnh. Trong mối quan hệ bộ ba của tam giác sư phạm thì người dạy luôn đóng
vai trò chủ đạo (tổ chức, chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn ), còn người học, với
tư cách là đối tượng chịu sự tác động, sự điều khiển của người dạy lại là chủ thể
của hoạt động nhận thức, họ tích cực, tự giác, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt