Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận văn thạc sĩ giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên ở các trại giam khu vực trung trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.94 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

......../.......

MAI ĐÌNH PHONG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC TRUNG TRUNG BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

e


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

................/...............

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


......../.......

MAI ĐÌNH PHONG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC TRUNG TRUNG BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THỊ HƯƠNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

e


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách

quan và phù hợp với thực tiễn tình hình công tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm
nhân ở các trại giam nói chung cũng như phạm nhân là người chưa thành niên ở các
trại giam khu vực Trung Trung Bộ, Tổng cục VIII, Bộ cơng an nói riêng. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày


Học viên

tháng

Mai Đình Phong

e

năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn Cô giáo – PGS.TS Lê Thị Hương; quý thầy, cô giáo

khoa Sau Đại học, Học viện Hành chính quốc gia và Phân viện Học viện Hành
chính quốc gia khu vực miền Trung đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn tận tình đầy
trách nhiệm trong quá trình tác giả học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn.

Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đảng ủy, lãnh đạo, cán bộ

chiến sĩ các đơn vị: Trại giam Xuân Hà, Trại giam Đồng Sơn, Trại giam Nghĩa An,

Trại giam Bình Điền và Trại giam An Điềm đã tạo điều kiện, đóng góp những thông
tin, số liệu vô cùng quý báu giúp tác giả hồn thành luận văn này.
Trân trọng cản ơn!

Học viên

Mai Đình Phong


e


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO PHẠM NHÂN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN………………………7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người
chưa thành niên…………………………………………………………………… 7

1.2. Các yếu tố cấu thành của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa
thành niên .............................................................................................................. 19

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa
thành niên .............................................................................................................. 26

Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC TRUNG
TRUNG BỘ ......................................................................................................... 32

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa
thành niên ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ .............................................. 32

2.2. Hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên chấp
hành án ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ .................................................. 44

2.3. Nhận xét về giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên ở các

trại giam khu vực Trung Trung Bộ ........................................................................ 62

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO PHẠM NHÂN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở CÁC TRẠI
GIAM KHU VỰC TRUNG TRUNG BỘ ........................................................... 72

3.1. Quan điểm tăng cường giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành
niên ....................................................................................................................... 72

3.2. Giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành
niên ....................................................................................................................... 77
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

e


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANQG
ANTT

An ninh Quốc gia

An ninh trật tự

CAND

Công an nhân dân


CBGD

Cán bộ giáo dục

CHAPT

Chấp hành án phạt tù

LHS

Luật Hình sự

CBCS

CBQG
GDPL

Cán bộ chiến sỹ

Cán bộ Quản giáo

Giáo dục pháp luật

NQTG

Nội quy trại giam

TG

Trại giam


NXB

THCS

Nhà xuất bản

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thơng

THAHS & HTTP

Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp

THAHS
TTHS

Thi hành án hình sự

Tố tụng hình sự

e


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, sinh thời, Chủ

tịch Hồ Chí Minh ln nhắc nhở, đề cao và quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đặc biệt
là giáo dục thế hệ trẻ nói chung và thanh thiếu niên nói riêng. Bởi vì đối với mỗi quốc
gia, dù ở thời đại nào, thanh thiếu niên bao giờ cũng có vai trị hết sức to lớn, là
tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận một thực trạng thanh thiếu niên sống hời hợt,

vơ cảm, thiếu trách nhiệm, thậm chí sa ngã, hư hỏng đang diễn ra khá phổ biến hiện

nay. Không ít người trẻ đắm chìm trong thế giới mạng của Internet như game

online, facebook ... mà sao nhãng nhiệm vụ học tập, sống ảo tưởng, xa rời thực tế.

Khơng ít người trẻ đua đòi, a dua chạy theo những phong trào "phản văn hóa" lai
căng khiến tâm hồn, nhân cách trở nên méo mó, lệch lạc. Khơng ít người trẻ có lối
sống ích kỉ chỉ biết nhận mà khơng biết cho, chỉ biết hưởng thụ mà không chịu cống

hiến, trốn tránh nghĩa vụ quân sự, chỉ lo vun vén cho lợi ích bản thân mà quên đi

nghĩa vụ đối với đất nước. Đáng báo động hơn, khi nhiều năm trở lại đây, báo chí
liên tục đưa tin về những vụ án giết người tàn bạo, dã man gây rúng động dư luận

mà thủ phạm là những người trẻ tuổi. Chúng ta cảm thấy hoang mang, phẫn nộ khi
nghe nhắc đến những cái tên của những kẻ sát nhân máu lạnh tuổi thanh thiếu niên

như Lê Ngọc Chung (16 tuổi), Phạm Đình Cử, Nguyễn Văn Trọng (14 tuổi) ... Theo
tổng kết sơ bộ của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Cơng an), có hơn


75% tội phạm hình sự là thanh thiếu niên, chỉ trong 6 năm (từ 2007 đến 2013) cả

nước xảy ra 63.600 vụ án hình sự do 94.300 đối tượng là người chưa thành niên gây
ra, tăng gần 4.300 vụ án so với 6 năm trước đó [16]. Điều đáng nói là so với những
năm trước, đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa, hành vi phạm tội cũng như tính

chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn. Thủ đoạn phạm tội khơng cịn

đơn thuần là bồng bột, thiếu suy nghĩ mà có sự tính tốn, chuẩn bị kĩ càng, thậm chí
có tổ chức thành các băng, ổ, nhóm hành động phạm tội mất nhân tính. Đây là một

1

e


vấn đề lớn mà toàn xã hội phải quan tâm, một thực trạng đáng báo động về giáo dục
văn hóa và lối sống cho thanh thiếu niên.

Hàng loạt vụ phạm tội của một bộ phận người trẻ gần đây đang dấy lên sự lo

ngại về tình trạng gia tăng bạo lực trong giới trẻ, tội phạm đang bị trẻ hóa. Tình

trạng ấy cũng dẫn đến hệ lụy tất yếu là phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội

đến các trại giam chấp hành án ngày càng gia tăng. Điều này gây khơng ít khó khăn cho

cơng tác quản lý, giáo dục của cán bộ trại giam, đặc biệt là GDPL bởi GDPL khơng chỉ
dừng lại ở mục đích là giáo dục cho phạm nhân là người chưa thành niên biết tuân thủ
NQTG, không vi phạm kỉ luật trong thời gian chấp hành án mà mục đích cao cả đặt ra là


trang bị cho những đối tượng này những kiến thức pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật để

họ nhìn ra sai phạm của mình, khi hết án có kiến thức và ý chí làm lại cuộc đời khơng đi
vào con đường tái phạm tội.

Chính vì thế, GDPL cho phạm nhân nói chung và GDPL cho phạm nhân là

người chưa thành niên phạm tội nói riêng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan

trọng của lực lượng Cảnh sát THAHS & HTTP. Trong những năm qua, được sự

quan tâm của Đảng, Nhà nước, dưới sự chỉ đạo sát sao của Tổng cục VIII và lãnh
đạo các trại giam, GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên đã đạt được

nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều phạm nhân là người chưa thành niên đã có sự
chuyển biến trong nhận thức, tư tưởng, tích cực tham gia học tập, cải tạo, học nghề,
có kiến thức pháp luật và có ý thức tuân thủ NQTG.

Dù vậy, bên cạnh kết quả đạt được, công tác GDPL cho phạm nhân là người

chưa thành niên phạm tội còn rất nhiều hạn chế, nhược điểm nhất định, như vẫn còn

phạm nhân bỏ trốn khỏi trại giam, cịn có phạm nhân vi phạm nội quy, quy chế trại
giam, vẫn có phạm nhân phạm tội mới sau khi mãn hạn CHAPT... Hạn chế đó do từ
chính đối tượng được giáo dục còn thiếu hiểu biết, tuổi đời còn non trẻ, thiếu kinh
nghiệm sống, thiếu tư tưởng, nghị lực. Một mặt do chính chủ thể tiến hành gây ra
bởi trình độ hạn chế, thiếu tinh thần trách nhiệm, tổ chức giáo dục mang tính chiếu
lệ, đại khái, khơng có lịng tin vào GDPL cho số đối tượng là người chưa thành niên
phạm tội.


2

e


Xuất phát từ tình hình trên, tác giả nhận thấy, việc nghiên cứu lý luận về

GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên, khảo sát, đánh giá thực trạng,
nguyên nhân, chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới công tác này để trên cơ sở đó, đề

xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL cho phạm nhân là người
chưa thành niên trong các trại giam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa thiết thực
góp phần quan trọng vào cơng tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung và thanh thiếu niên

nói riêng. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài: “Giáo dục pháp luật cho phạm nhân là

người chưa thành niên ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ” là hồn tồn
mang tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu

GDPL là một trong những nội dung quan trọng của Khoa học Lý luận và lịch

sử Nhà nước và pháp luật; GDPL cho phạm nhân cũng là một vấn đề được nhiều

nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu nhằm tìm ra nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác GDPL cho phạm nhân trong các trại giam. Ta có thể thấy có một số cơng

trình nghiên cứu cụ thể như: Luận án Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các


trại giam ở Việt Nam của Tiến sỹ Ngơ Văn Trù; Luận án Vai trị giáo dục pháp luật

đối với phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam thuộc Bộ Công an của Tiến
sỹ Dương Văn Đại; Luận văn thạc sĩ của tác giả Đàm Văn Quyến: Nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại trại giam Nam Hà theo chức

năng của lực lượng cảnh sát Thi hành án và hỗ trợ thi pháp;… cùng nhiều bài viết
trên các trang báo, tạp chí như: Tăng cường giáo dục pháp luật cho các đối tượng tù
và lang thang cơ nhỡ của tác giả Nguyễn Hưng trên Báo Mới ngày 17/10/2017;

Tăng cường giáo dục pháp luật cho người đang chấp hành hình phạt tù của tác giả
Hồng Duy in trên Báo Mới ngày 24/10/2017… Tất cả đã trình bày, giới thiệu về

cơng tác GDPL cho phạm nhân nói chung một cách khá đầy đủ và có hệ thống. Đó
là nền lí luận quý báu mà thế hệ nghiên cứu đi sau như chúng tơi được tiếp thu và
có những học hỏi, vận dụng trong quá trình thực hiện đề tài.

Mặt khác, trước thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội ngày càng gia tăng, tội

phạm vị thành niên ngày một trở thành vấn đề nhức nhối, vấn đề giáo dục phạm

3

e


nhân vị thành niên trở thành vấn đề “nóng”, đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên

cứu và có những bài viết, cơng trình có giá trị. Có thể kể đến như: Phòng ngừa


thanh thiếu niên phạm tội của Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Yêm, Giám đốc Học

viện Cảnh sát nhân dân của NXB CAND năm 2004; Luận văn Nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên ở các trại

giam thuộc Tổng cục VII, Bộ Công an của tác giả Lê Thị Minh Trang; Nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên tại các Trại giam

thuộc Bộ Công an của tác giả Ngô Xuân Phương - Nguyễn Thị Tuyết Mai in trên
tạp chí Khoa học và quản lý, giáo dục tội phạm số 28/11/2017. Trong những cơng
trình, bài viết trên, các tác giả đã đề cập đến công tác GDPL cho phạm nhân và đã

khoanh vùng đối tượng phạm tội, phạm nhân là những người chưa thành niên, tuy
nhiên chỉ mới dừng lại ở một số địa bàn nhất định chứ chưa có sự nghiên cứu đầy
đủ, kĩ lưỡng ở khu vực Trung Trung Bộ.

Có thể nói, các tác giả đã gợi mở đến vấn đề GDPL cho phạm nhân, tuy nhiên,

đó mới là những khảo sát chung chung, chứ chưa có sự khai thác trọng tâm và đi vào

phạm vi đối tượng cụ thể trên những địa bàn khu vực trại giam xác định, cụ thể ở đây
là khu vực Trung Trung Bộ. Đi sâu nghiên cứu đề tài “Giáo dục pháp luật cho phạm

nhân là người chưa thành niên ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ” là một
hướng nghiên cứu hứa hẹn nhiều khám phá, phát hiện thú vị và mới mẻ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về GDPL cho phạm nhân là người chưa thành


niên và khảo sát tình hình phạm nhân, cũng như GDPL cho phạm nhân là người

chưa thành niên tại các trại giam vùng Trung Trung Bộ, đề xuất quan điểm và giải
pháp tăng cường GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên vùng Trung Trung
Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu cần giải quyết những

nhiệm vụ cụ thể sau:

4

e


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về GDPL cho phạm nhân là người chưa thành

niên như: Khái niệm, đặc điểm, vai trị, nội dung, hình thức, phương pháp và các
yếu tố bảo đảm GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên.

- Phân tích đặc điểm tình hình phạm nhân là người chưa thành niên và thực

trạng GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên đang chấp hành án tại các trại
giam khu vực Trung Trung Bộ thuộc Tổng cục VIII, Bộ Công an trên các phương
diện tổ chức quản lý, giáo dục, kết quả đạt được, ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường GDPL cho phạm nhân là người

chưa thành niên chấp hành án tại các trại giam thuộc khu vực Trung Trung Bộ nói

riêng cũng như các trại giam trong cả nước nói chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu

GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên đang chấp hành án tại các trại

giam thuộc khu vực Trung Trung Bộ dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian: Từ năm 2010 đến nay.

- Không gian: Các trại giam khu vực Trung Trung Bộ thuộc Tổng cục VIII, Bộ

Công an.

- Nội dung: Các quy định pháp luật liên quan đến GDPL cho phạm nhân là

người chưa thành niên.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với quan điểm của Đảng và Nhà nước trong

GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên đang CHAPT tại các trại giam khu
vực Trung Trung Bộ nói riêng, phạm nhân nói chung.


Trong q trình thực hiện, đề tài còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như

quan sát, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, chuyên gia, tọa đàm… Trong đó
đặc biệt sử dụng phương pháp thống kê, nghiên cứu điển hình.

5

e


6. Ý nghĩa khoa học của đề tài

- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung hoàn thiện hệ

thống lý luận về GDPL cho phạm nhân nói chung, GDPL cho phạm nhân là người

chưa thành niên nói riêng. Đồng thời, đề tài cũng là tài liệu tham khảo, sử dụng,

phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu, giảng dạy trong các trường CAND,
trường Luật, Học viện HCQG... góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên
ngành.

- Về thực tiễn: Qua nghiên cứu đề tài tìm hiểu những đặc điểm, phát hiện

những khó khăn, vướng mắc làm hạn chế hiệu quả GDPL cho phạm nhân là người
chưa thành niên khu vực Trung Trung Bộ nói riêng. Từ đó, đưa ra các kiến nghị,
giải pháp có cơ sở giúp cho các đơn vị trại giam vùng Trung Trung Bộ nói riêng

cũng như các trại giam trên cả nước nói chung nghiên cứu, tham khảo, vận dụng
vào thực tế cơng tác của đơn vị mình. Đồng thời là nguồn tài liệu phục vụ cho


nghiên cứu, học tập của chuyên ngành Cảnh sát THAHS & HTTP trong các trường
CAND, trường Luật, Học viện Hành chính Quốc gia..
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục và danh mục tham khảo đề tài

được chia làm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về giáo dục pháp luật cho phạm nhân là

người chưa thành niên.

Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành

niên ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho phạm

nhân là người chưa thành niên ở các trại giam khu vực Trung Trung Bộ.

6

e


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO PHẠM NHÂN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN


1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là
người chưa thành niên

1.1.1. Khái niệm phạm nhân và phạm nhân là người chưa thành niên
- Khái niệm phạm nhân

Về nguồn gốc xuất xứ, phạm nhân là một từ Hán - Việt dùng để chỉ người

phạm tội. Theo từ điển Tiếng Việt - NXB Khoa học xã hội Hà Nội năm 1988 đã đưa

ra khái niệm về phạm nhân: “Phạm nhân là người có tội bị xử án và đang ở tù”
[23].

Trong từ điển nghiệp vụ phổ thông - Viện Khoa học Công an năm 1977 cũng

nêu: “Phạm nhân là người phạm tội khi Tòa án xét xử đang chấp hành án tại trại
giam”.

Theo từ điển Luật học thì phạm nhân được định nghĩa như sau: phạm nhân

theo nghĩa rộng là người đã bị Tòa án hình sự tuyên xử là đã phạm tội và bị hình

phạt, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo nghĩa hẹp, phạm nhân là người đã bị
Tòa án phạt tù và đang bị giam giữ hoặc bị án tử hình [24].

Tại khoản 2, Điều 3, Chương 1 của Luật THAHS được Quốc hội khóa XII, kỳ

họp thứ 7 thơng qua ngày 17/6/2010 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2011 có
nêu: “phạm nhân là người đang chấp hành án phạt có thời hạn, tù chung thân”

[30].

Như vậy, các khái niệm trên đều đưa ra những nét cơ bản về phạm nhân. Đó là

những người đã thực hiện hành vi phạm tội, xâm hại đến các mối quan hệ xã hội
được LHS bảo vệ. Họ bị Tòa án xét xử, kết tội và buộc phải vào trại giam chấp hành

án (tù chung thân hoặc tù có thời hạn). Theo lẽ đó, tác giả đồng nhất quan điểm một

người được coi là phạm nhân khi họ phạm tội, bị Tòa án kết án phạt tù và được đưa
đến các trại giam để chấp hành án.

7

e


Phạm nhân là những cơng dân có địa vị pháp lý đặc biệt khác với những cơng

dân bình thường ngồi xã hội. Trong thời gian chấp hành bản án, họ bị tước và hạn
chế một số quyền công dân theo pháp luật quy định. Mọi hành động của họ đều phải

tuyệt đối tuân thủ nội quy, quy định của Luật THAHS, của trại giam. Tuy nhiên,

phạm nhân vẫn được pháp luật bảo đảm một số quyền như quyền sống, quyền được
học tập, lao động kể cả những quyền khiếu nại, tố cáo... Dưới góc độ tâm lý, phạm
nhân cũng được coi là những cơng dân đặc biệt, ở họ hình thành những nét tâm lý
tiêu cực, chứa đựng những suy nghĩ lệch lạc với các chuẩn mực đạo đức xã hội, đi
ngược lại lợi ích chung của dân tộc, cộng đồng.
- Khái niệm người chưa thành niên


NCTN có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của một đất nước, quốc gia,

dân tộc; chính vì vậy người chưa thành niên là đối tượng dành được sự quan tâm

đặc biệt của toàn xã hội. Hầu hết các quốc gia đều thống nhất cùng quan điểm:
người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về thể
chất, nhân cách, chưa có các quyền và nghĩa vụ như một cơng dân bình thường.

Pháp luật của mỗi quốc gia quy định khơng hồn tồn giống nhau về độ tuổi

của người chưa thành niên. Theo Điều 1 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em được

Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 đã khẳng định: “Trong
phạm vi cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật

pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy, theo
quan điểm của Liên hợp quốc thì người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.

Tuy nhiên, xuất phát từ sự khác biệt về thể chất, ý thức pháp luật và quan điểm

luật pháp của từng quốc gia, độ tuổi của người chưa thành niên được quy định khác

nhau. Ví dụ như ở Sinhgapo và ở Anh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 8 tuổi; ở
Mỹ, Ai Cập và Irac độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 7 tuổi; ở Pháp là 13 tuổi; ở

Nga là 14 tuổi; Thụy Điển là 15 tuổi… [34]. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự khơng chỉ phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước đối với người chưa
thành niên phạm tội mà còn xuất phát từ sự trưởng thành của con người theo độ tuổi


của họ. Mỗi con người bình thường phải đến một độ tuổi nhất định mới có thể hình

8

e


thành và phát triển khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của bản thân
phù hợp với những đòi hỏi, yêu cầu của xã hội. Và lúc này mới đặt ra vấn đề trách
nhiệm hình sự đối với họ.

Việt Nam thừa nhận Công ước quốc tế trong quy định về quyền trẻ em nhưng

căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam để quy định độ tuổi của
người chưa thành niên. Độ tuổi của người chưa thành niên được xác định thống nhất

trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật LHS, Bộ luật TTHS, Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính… Theo đó, độ tuổi của

người chưa thành niên ở Việt Nam được quy định là dưới 18 tuổi và có những chế
định pháp luật riêng đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể,
chẳng hạn như:

Tại Điều 18, Bộ luật Dân sự quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người

thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”.

Theo Điều 12, Bộ luật LHS Việt Nam quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên


phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này

có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình

sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178,
248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật
này” [27].

Tuy nhiên, người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) do chưa phát triển đầy đủ,

hoàn thiện về thể chất, tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơng dân
nên hình phạt do pháp luật quy định sẽ thấp hơn người phạm cùng tội danh nhưng
đã thành niên. Đó cũng thể hiện tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời phù
hợp với sự phát triển của từng lứa tuổi [27].

- Khái niệm phạm nhân là người chưa thành niên

Theo khoản 2, Điều 3, Chương 1, Luật THAHS nêu rõ: “Phạm nhân là người

đang CHAPT có thời hạn, tù chung thân”. Theo cách hiểu đó phạm nhân là người

9

e


chưa thành niên trước hết là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội,
bị kết án phạt tù và đang chấp hành án tại các trại giam [30].


Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách

nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà xâm phạm đến các quan hệ xã
hội được LHS bảo vệ. Người chưa thành niên phạm tội là những người thực hiện
hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Đó là những người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất, tinh thần, tâm sinh lý, họ chưa có sự nhận thức đúng đắn về hậu quả do
hành vi của mình gây ra.

Theo khoản 5, khoản 6, Điều 91 Bộ Luật LHS 2015, được sửa đổi, bổ sung năm

2017 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 quy định: “Khơng xử phạt tù chung thân
hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có

thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp
giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa
án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối

với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” [27].

So với các phạm nhân khác thì phạm nhân là người chưa thành niên có một số

đặc điểm riêng biệt như:

Về lứa tuổi: Phạm nhân là người chưa thành niên là những người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 18 tuổi, là lứa tuổi thấp nhất so với các phạm nhân khác đang chấp hành
án tại các trại giam.

Về tâm lý: Xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi nên các phạm nhân là người


chưa thành niên thường bồng bột, non nớt, thiếu chín chắn, dễ bị ảnh hưởng bởi mọi

người và mơi trường xung quanh, dễ bị kích động, lơi kéo. Phạm nhân là người
chưa thành niên đang ở giai đoạn hình thành cái “tơi”, ln mong muốn được thể
hiện, khẳng định mình. Chính đặc điểm tâm lý này, nếu có biện pháp giáo dục phù

hợp, CBGD dễ tác động vào kết cấu tâm lý chưa mấy bền vững của phạm nhân là

người chưa thành niên từ đó giúp họ nhận ra sai phạm, đẩy lùi mặt tiêu cực, phát
huy yếu tố tích cực trong nhân cách của họ.

10

e


- Về nhận thức: Do ở độ tuổi còn nhỏ, ít kinh nghiệm cuộc sống nên nhận

thức của phạm nhân là người chưa thành niên gắn liền và thông thường tỷ lệ thuận

với trình độ văn hóa của họ. Số phạm nhân là người chưa thành niên mù chữ, biết
đọc, biết viết hoặc mới học hết cấp 1, cấp 2 phần lớn có nhận thức thấp kém, mơ hồ
về mọi mặt của cuộc sống. Nhận thức về lối sống, tác phong sinh hoạt, ý thức tổ
chức kỷ luật, ý thức tuân thủ pháp luật, quy tắc cộng đồng… đều tự do, bừa bãi,
thậm chí đi ngược lại với các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đáng quan tâm và lo ngại nhất là nhận thức về pháp luật cũng như ý thức tôn

trọng, tuân thủ pháp luật của phạm nhân là người chưa thành niên rất hạn chế. Đây

là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội ở lứa tuổi chưa thành

niên. Phần lớn phạm nhân là người chưa thành niên coi các quy định của pháp luật
là sự gị bó, mất tự do của bản thân, hạn chế sự phát triển của bản thân, chỉ là những

quy định mang tính hình thức. Khi bị kết án phạt tù phải vào trại giam chấp hành án

nhiều phạm nhân là người chưa thành niên cịn cho rằng mình khơng phạm tội, sợ
hãi mà chấp hành các quy định của trại giam, mệnh lệnh cán bộ chứ thực sự không
hiểu biết việc chấp hành tốt có ý nghĩa như thế nào đối với bản thân, gia đình và xã
hội.

- Về tình cảm

Đời sống tình cảm của người chưa thành niên nói chung rất đa dạng và phong

phú, có thể nói lứa tuổi này có nhu cầu tình cảm cao bao gồm cả tình bạn, tình yêu,

tình đồng hương… Đối với phạm nhân là người chưa thành niên nét nổi bật trong tình
cảm của họ là tính thích được chia sẻ, kết bạn. Đặc điểm về tình cảm này do đặc
trưng của lứa tuổi; một phần do phải xuất thân từ những gia đình khơng hồn thiện,

kinh tế khó khăn, một số bị bỏ rơi hoặc gia đình ở xa xơi, nghèo khó khơng có điều
kiện thăm nom; một phần do đời sống đơn điệu trong trại giam vì vậy họ thường
thiếu thốn tình cảm, mong muốn được chia sẻ, kết giao. Nhiều phạm nhân ít được

thăm gặp, nhận quà từ gia đình, nhưng khi có q họ thường thích được chia sẻ cho
các phạm nhân khác cùng buồng, cùng đội, chứ khơng sử dụng một mình. Phạm nhân
là người chưa thành niên có xu hướng kết giao, tụ họp thành các nhóm cùng sở thích,


11

e


cùng q, quan hệ khăng khít, có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm, hành vi của
nhau.

- Về nhu cầu

Theo từ điển tâm lý, nhu cầu là sự đòi hỏi, là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự

tồn tại và phát triển, nhu cầu được thỏa mãn thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó chịu, cẳng

thẳng, ấm ức. Khi vào trại giam chấp hành án, hoàn cảnh sống thay đổi khác trước, nhiều
quan hệ, thói quen sinh hoạt, nhu cầu hàng ngày khơng được đáp ứng như mong muốn.

Có rất nhiều nhu cầu, tuy nhiên có thể chia thành ba dạng cơ bản đó là nhu cầu về vật
chất, nhu cầu về tinh thần và nhu cầu về hoạt động.
- Về tâm trạng

Tâm trạng là hiện tượng tâm lý, là thái độ cảm xúc của con người nảy sinh

dưới sự tác động của hồn cảnh sống, nó ảnh hưởng đến hoạt động tâm lý khác
cũng như hoạt động sống của con người. Ví dụ tâm trạng vui vẻ, thoải mái thì sẽ có

những hành vi tích cực, đúng đắn; tâm trạng bất mãn, không vui dễ nảy sinh những
hành vi tiêu cực.

Tâm trạng của phạm nhân là người chưa thành niên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ


của môi trường trại giam, phản ảnh đầy đủ các yếu tố của điều kiện sống như yếu tố ăn,

ở, mặc, lao động, học tập… trong trại giam. Tâm trạng của phạm nhân là người chưa

thành niên khác nhau tại các thời điểm, cụ thể qua khảo sát thực tế tâm trạng của họ tại
ba thời điểm đó là mới vào trại giam chấp hành án, trong quá trình chấp hành án và
chuẩn bị hết án có các nét cơ bản khác nhau. Tâm trạng của phạm nhân ảnh hưởng đến
hành vi, thái độ chấp hành án của phạm nhân đó, vì vậy chủ thể giáo dục cần nghiên

cứu để nắm được tâm trạng cùng các biểu hiện của tâm trạng tại các thời điểm để có tác

động tâm lý phù hợp, giúp họ định hướng hành vi tránh đi vào tiêu cực, vi phạm
NQTG.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa
thành niên

Trại giam là nơi chấp hành hình phạt tù của người bị kết án tù có thời hạn và

tù chung thân. Như vậy, có thể hiểu phạm nhân là những người phạm tội đã bị Tòa

12

e


án tuyên án phạt tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật và đang chấp hành án tại các

trại giam. Không coi là phạm nhân đối với những người được miễn, hỗn, tạm đình


chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc vì một lí do nào đó khơng phải chấp hành bản án tại

trại giam. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù phạm nhân bị quản lý, giam giữ
nghiêm ngặt, chặt chẽ và được GDCD, văn hóa, pháp luật, đạo đức… để trở thành
những cơng dân có ích cho xã hội.

GDPL cho phạm nhân nói chung và GDPL cho phạm nhân là người chưa

thành niên nói riêng liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và đặc biệt liên quan đến quyền của công dân. Vì vậy, trong quá trình tiến

hành GDPL cho phạm nhân cũng như phạm nhân là người chưa thành niên phải
tuyệt đối tuân thủ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này.

Giáo dục phạm nhân nói chung và GDPL cho phạm nhân là người chưa thành

niên nói riêng thực chất là cơng tác giáo dục lại, q trình này có nhiệm vụ cực kì
quan trọng đó là nhằm phát hiện, sửa chữa những tư tưởng, tình cảm, thói quen,
hành vi xấu; hình thành ở phạm nhân những nhận thức mới phù hợp với các chuẩn

mực đạo đức xã hội và hệ thống luật pháp trật tự xã hội hiện hành. Công tác giáo

dục phạm nhân cũng như GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên không chỉ

thể hiện bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước mà cịn mang tính phịng ngừa xã
hội sâu sắc, lâu dài.

Đối với phạm nhân là người chưa thành niên, GDPL càng có ý nghĩa quan


trọng. Phần lớn ở lứa tuổi dưới 18, họ chưa có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các

quy định của pháp luật, chưa ý thức được hậu quả, tính chất nguy hiểm do hành vi
phạm tội của mình gây ra. Thiếu kiến thức pháp luật, thiếu kinh nghiệm sống, bồng

bột, non nớt trong suy nghĩ nhận thức cùng với sự hạn chế về mặt giáo dục của gia
đình, nhà trường, tác động của các mặt trái tiêu cực trong xã hội đã dẫn họ đi vào
con đường phạm tội.

GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên là một quá trình lâu dài được

tiến hành từ khi phạm nhân vào trại giam chấp hành án đến khi họ chấp hành xong

bản án trở về với gia đình, cộng đồng xã hội. Trong thời gian này nhiệm vụ của lực

13

e


lượng Cảnh sát THAHS & HTTP là phải cung cấp cho phạm nhân là người chưa

thành niên những kiến thức cơ bản về chính trị, xã hội, văn hóa, các quy định của

pháp luật, các quyền và nghĩa vụ của phạm nhân cũng như của công dân… để phạm
nhân là người chưa thành niên nhận thức được hành vi của mình là đi ngược lại các
chuẩn mực đạo đức xã hội, chà đạp lên các truyền thống đạo lý của dân tộc. Từ đó,

họ thừa nhận tính đúng đắn của bản án, tích cực chấp hành các quy định của trại
giam, tự giác học tập, lao động, lập công chuộc tội, trở thành những cơng dân có ích

cho xã hội.

Như vậy, có thể hiểu: GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên ở trại

giam là quá trình lực lượng Cảnh sát THAHS & HTTP sử dụng tổng hợp các biện

pháp theo quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện, khả năng nhận thức, đặc
điểm tâm lý của phạm nhân là người chưa thành niên để tác động, hình thành ở họ

những hiểu biết đúng đắn về các quy định của pháp luật làm cho họ nhận thức được
tội lỗi, ăn năn hối cải, từ đó xây dựng thói quen sống và làm việc tuân theo pháp
luật.

GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên có ý nghĩa hết sức quan

trọng không chỉ trong thời gian phạm nhân chấp hành án ở trại giam mà kết quả của
công tác này còn phát huy tác dụng khi phạm nhân hết án trở về với cuộc sống xã

hội. Khác với cơng tác GDPL cho những cơng dân bình thường ngồi xã hội hay

công tác GDPL được tiến hành trong các trường phổ thông, đại học, GDPL cho
phạm nhân là người chưa thành niên được tiến hành với những đặc điểm mang tính

đặc thù và chắc chắn điều này sẽ ảnh hưởng tới nội dung, phương pháp giáo dục và

cả chất lượng của công tác này. GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên có
các đặc điểm sau đây:

- GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên được tiến hành trong môi


trường đặc biệt là trại giam. Trại giam là những công cụ đặc biệt của nhà nước để tổ

chức thi hành án phạt tù đối với người phạm tội bị xử phạt tù có thời hạn, tù chung
thân; Là nơi thi hành bản án đối với người vi phạm pháp luật phải đưa vào quản lý
và giáo dục.

14

e


Quá trình CHAPT ở các trại giam, phạm nhân bị tước hoặc bị hạn chế một số

quyền công dân, bị cách ly mơi trường xã hội bên ngồi để tước bỏ những nguyên
nhân, điều kiện tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật nhằm mục đích cải tạo, biến

đổi để trở thành người tốt có ích cho xã hội. Trại giam là môi trường riêng biệt,

nhưng không tách biệt với xã hội bên ngoài. Bởi các hoạt động giáo dục, học tập,
lao động, cũng như mọi hoạt động khác của phạm nhân ở trại giam đều có những

định hướng tới các thang chuẩn giá trị xã hội. Sống trong môi trường giáo dục ở trại

giam là môi trường mới, khác hẳn với cuộc sống phạm tội ở ngoài xã hội trước đây.
Trong trại giam với những quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt, quan hệ với xung quanh

một bên là những phạm nhân khác, một bên là những cán bộ đại diện cho Nhà nước

thừa hành pháp luật để quản lí, giáo dục họ. Do phần lớn tư tưởng phạm nhân,
những người đã quen sống lối sống tự do, vô tổ chức, coi thường, bất chấp pháp luật


và chỉ biết hưởng thụ khi vào trại giam họ cảm thấy gị bó, mất tự do và thường tìm
cách vi phạm để bù đắp những cái họ bị mất bằng nhiều thủ đoạn, mánh khóe khác
nhau rất tinh vi, thơ bạo, trắng trợn, dưới các hình thức vi phạm NQTG cả cơng khai
và bí mật…

- Trong thời gian CHAPT, phạm nhân bị cách ly khỏi đời sống xã hội, mọi

hoạt động của họ chịu sự quản lý, giám sát của cán bộ trại giam và quy định của

NQTG. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật THAHS trong thời gian chấp hành án,
phạm nhân chỉ được giao tiếp với cán bộ trại giam, với phạm nhân khác và với thân
nhân, gia đình phạm nhân khi họ thăm gặp. Chính những yếu tố trên sẽ tạo điều kiện

thuận lợi và quyết định tới nhiệm vụ, nội dung hình thức GDPL cho phạm nhân là
người chưa thành niên. GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên sẽ được tiến

hành đồng thời với nhiều nội dung giáo dục khác trong điều kiện phạm nhân bị tước
bỏ, hạn chế một số quyền công dân.

- GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên trong các trại giam chịu sự

ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố chủ quan (ý thức
trách nhiệm, năng lực tổ chức, thực hiện của chủ thể GDPL; trình độ học vấn, khả
năng tiếp nhận kiến thức pháp luật của các phạm nhân là người chưa thành niên; các

15

e



nhân tố tâm lý) và các yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế; môi trường giáo dục cải
tạo, lao động, sinh hoạt trong TG; chính sách và thực hiện chính sách của Nhà nước
đối với phạm nhân là người chưa thành niên...). Điều đó giúp giải thích tại sao trong

cùng điều kiện, hồn cảnh như nhau, có thể hoạt động GDPL cho phạm nhân là

người chưa thành niên ở TG này thì diễn ra chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao;
còn ở TG khác lại thụ động, cầm chừng và kém hiệu quả.

1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên

Vai trò của GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên trong các trại

giam ở Việt Nam thể hiện trên các phương diện sau:

- GDPL giúp cho phạm nhân là người chưa thành niên nhận thức đầy đủ, sâu

sắc hơn về tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà họ đã gây ra.

Thực tế cho thấy, nhiều người chưa thành niên khi thực hiện một hành vi vi

phạm pháp luật đã không biết rằng hành vi đó đồng thời là hành vi phạm tội được
quy định trong Bộ LHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; khơng hình dung
được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, những thiệt hại mà hành

vi đó gây ra cho xã hội, cho cá nhân và khơng lường trước được hậu quả pháp lý
hình sự mà họ phải gánh chịu. Nguyên nhân của tình trạng đó là do họ thiếu một

nền tảng trình độ học vấn, hiểu biết xã hội nhất định; đặc biệt là thiếu kiến thức,

hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật LHS nói riêng bởi “Về nguyên tắc, người
thực hiện hành vi phạm tội thì phải chịu hình phạt, hình phạt là hệ quả của việc họ

đã thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội và theo quy định của pháp luật họ phải
gánh chịu những hậu quả pháp lý hình sự bất lợi đó là hình phạt” [Trần Minh

Hưởng, (2011), Bình luận khoa học Luật THAHS và các quy định mới nhất về
THAHS 2011, nxb Hồng Đức, Hà Nội ; tr. 40].

- GDPL có vai trị cung cấp, trang bị những thông tin, kiến thức pháp luật cần

thiết cho phạm nhân là người chưa thành niên trong quá trình CHAPT.

Mục đích của việc GDPL là để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, trang bị

những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết từ đó giúp cho phạm nhân uốn nắn
những tư tưởng lệch lạc trong hành vi, hành động của phạm nhân, dần dần hình

16

e


thành ở họ thói quen chấp hành pháp luật, chấp hành NQTG, những quy định của
pháp luật.

Theo số liệu khảo sát thì phạm nhân có nhận thức pháp luật rất cao đối với các

nội dung được giảng dạy sau khi vào trại giam như: “Quyền cơ bản của công dân


(71,6%), quyền và nghĩa vụ của PN (80%); Nội dung cơ bản về các loại tội phạm
quy định trong Bộ LHS (63,2%). Nội dung cơ bản quy định về hoãn, tạm đình chỉ,

miễn giảm thời hạn chấp hành án (70,4%)”. Nhận thức pháp luật của phạm nhân
như vậy là điều kiện rất thuận lợi cho công tác giáo dục cải tạo phạm nhân trở thành
người có ích cho xã hội.

- GDPL góp phần định hướng, hình thành thái độ tích cực, xây dựng, củng cố

niềm tin đối với pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên.

Trong môi trường TG, các phạm nhân là người chưa thành niên sẽ chấp hành,

thực hiện nghiêm túc và phát huy hiệu quả các quy định liên quan đến cuộc sống,
học tập, lao động, sinh hoạt của họ khi họ thực sự tin tưởng vào tính đúng đắn, cơng
bằng, nghiêm minh của pháp luật. Khi và chỉ khi nào từng phạm nhân là người chưa

thành niên nhận thức đúng, đầy đủ các quy định pháp luật điều chỉnh việc CHAPT,
thấy được triển vọng ra khỏi TG trước thời hạn nếu chấp hành tốt pháp luật thì họ

mới có thể tự nguyện, tự giác, chủ động, tích cực tn thủ, chấp hành pháp luật mà
khơng cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế. Từ việc cung cấp, trang bị những

thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết cho phạm nhân là người chưa thành niên
trong q trình CHAPT, hoạt động GDPL góp phần làm hình thành ở phạm nhân là

người chưa thành niên thái độ tích cực trước các yêu cầu pháp luật, xây dựng, củng
cố niềm tin của phạm nhân là người chưa thành niên đối với pháp luật.

- GDPL trong các TG góp phần củng cố, nâng cao ý thức tôn trọng, chấp


hành pháp luật, tự giác và chủ động thực hiện hành vi hợp pháp cho phạm nhân là
người chưa thành niên.

Để có thể củng cố, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tự giác và chủ động

thực hiện hành vi hợp pháp cho phạm nhân là người chưa thành niên trong q trình

CHAPT thì trong cơng tác GDPL cần chú trọng lồng ghép việc giáo dục tình cảm

17

e


cơng bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm khơng khoan nhượng với các hành vi

vi phạm pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên. Theo đó, cần giáo dục
cho phạm nhân là người chưa thành niên biết nhìn nhận, đánh giá một hành vi nào

đó xảy ra là đúng hay sai để từ đó, bày tỏ thái độ bất bình, phê phán, lên án cái sai;
bênh vực, ủng hộ và đấu tranh bảo vệ cái đúng dựa trên cơ sở những kiến thức, hiểu

biết pháp luật có được; đồng thời làm cho phạm nhân là người chưa thành niên ý
thức được bổn phận, nghĩa vụ pháp lý của mình để thực hiện hành vi pháp luật phù

hợp, biết rõ trách nhiệm pháp lý của mình và sống có trách nhiệm trong quan hệ với
các phạm nhân khác. Bên cạnh đó, cần giáo dục cho phạm nhân là người chưa thành

niên có ý thức, tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng trước hành vi vi


phạm pháp luật, hành vi phạm tội của các phạm nhân khác trong q trình CHAPT;
từ đó, hình thành ở họ thái độ phê phán, lên án hành vi phạm pháp, phạm tội, không

a dua theo cái sai, ngăn ngừa phạm nhân tiếp tục phạm pháp, phạm tội trong quá
trình CHAPT. Tình cảm cơng bằng, tình cảm trách nhiệm pháp lý, tình cảm không

khoan nhượng trước các hành vi phạm tội là những nhân tố thuộc về niềm tin đối
với pháp luật, là động lực nội tâm thúc đẩy phạm nhân là người chưa thành niên
thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp.

- GDPL góp phần chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật cần thiết để phạm

nhân là người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn hạn CHAPT,
trở thành cơng dân có ích cho xã hội.

Khác với các đối tượng phạm nhân là người thành niên, cuộc sống sau khi

mãn hạn tù của phạm nhân là người chưa thành niên còn rất dài. Do vậy, cần trang
bị cho phạm nhân là người chưa thành niên những thông tin, kiến thức pháp luật

hữu ích, cần thiết cho phạm nhân, giúp họ chuẩn bị sẵn sàng về tâm lý, xác định tâm
thế để xóa bỏ mặc cảm tội lỗi, tự tin trở về với cuộc sống đời thường. Điều đó nói
lên vai trị rất quan trọng của GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên trong

các TG ở Việt Nam, góp phần chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật cần thiết để

phạm nhân là người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn hạn
CHAPT, trở thành cơng dân có ích cho xã hội.


18

e


1.2. Các yếu tố cấu thành của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa
thành niên

1.2.1. Mục tiêu của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên

Mục tiêu chung của GDPL cho phạm nhân nói chung cũng như phạm nhân là

người chưa thành niên nói riêng trong các TG ở Việt Nam là cung cấp, trang bị cho
phạm nhân những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết liên quan đến quá trình

CHAPT; từ đó, làm hình thành ở họ tình cảm, niềm tin đối với tính cơng bằng,
nghiêm minh của pháp luật; tạo thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực theo

pháp luật cho Phạm nhân là người chưa thành niên trong thời gian CHAPT cũng
như sau khi trở về tái hịa nhập cộng đồng. Thơng thường, GDPL cho phạm nhân là
người chưa thành niên trong các TG ở Việt Nam phải đạt được ba mục tiêu chủ yếu
sau:

Thứ nhất, về nhận thức: Nghĩa là phải cung cấp, trang bị được cho phạm nhân

là người chưa thành niên những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết liên quan
đến quá trình phạm nhân CHAPT trong trại giam;

Thứ hai, về thái độ: Tức là phải làm hình thành, củng cố cho mỗi phạm nhân


là người chưa thành niên tình cảm, niềm tin đối với pháp luật.

Thứ ba, về hành vi: GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên phải

hướng tới làm hình thành trong mỗi phạm nhân ý thức tự giác tuân thủ, chấp hành
pháp luật và hành vi xử sự tích cực theo các yêu cầu của pháp luật.

1.2.2. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho phạm nhân là người chưa thành niên

Chủ thể GDPL cho phạm nhân là người chưa thành niên là lực lượng Cảnh

sát THAHS & HTTP bao gồm: Giám thị, Phó Giám thị, trưởng phân trại, phó
trưởng phân trại, CBQG, CBGD, cán bộ trinh sát, cán bộ trực trại, cảnh sát bảo vệ.

Trong đó, chủ thể chính, trực tiếp tiến hành GDPL cho phạm nhân là người chưa
thành niên là CBQG, CBGD [6].

Các chủ thể nêu trên có thể coi là các chủ thể giáo dục đặc biệt khác hẳn với

các chủ thể trong các môi trường giáo dục khác. Bởi lẽ, các chủ thể GDPL là lực
lượng Cảnh sát THAHS & HTTP, họ là nhà giáo dục nhưng đồng thời là lực lượng

19

e


×