Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

luận văn thạc sĩ Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.7 KB, 121 trang )

Mục lục

Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức
6
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật 6
1.2. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức 23
Chơng 2: thực trạng công tác giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức ở bình định
33
2.1. Những đặc trng của cán bộ, công chức ở Bình Định 33
2.2. Tình hình giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở
Bình Định
45
Chơng 3: tăng cờng giáo dục pháp luật cho cán bộ
công chức trên địa bàn tỉnh bình định -
phơng hớng và giải pháp cơ bản
69
3.1. Chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc ta về giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức
69
3.2. Những nhu cầu về hiểu biết pháp luật của cán bộ, công
chức ở Bình Định trong giai đoạn hiện nay
77
3.3. Các giải pháp cơ bản về tăng cờng giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định
83
kết luận 107
danh mục tàI liệu tham khảo 110


Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nớc là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nớc pháp
quyền của dân, do dân, vì dân", "Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật.
Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp
hành Hiến pháp và pháp luật".
Để có đợc "Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nớc ta
hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng đợc một đội ngũ cán
bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con ngời có bản lĩnh
chính trị vững vàng trên cơ sở lập trờng của giai cấp công nhân, tuyệt đối
trung thành với lý tởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ
Chí Minh. Đó là những con ngời có ý thức và năng lực đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đờng lối của Đảng, nắm vững chính sách và pháp luật của Nhà
nớc.
Để quản lý đợc Nhà nớc và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí
của một nhà nớc pháp quyền, cán bộ, công chức phải đợc trang bị những
kiến thức về nhà nớc và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhng hiện
nay, qua các phơng tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phơng,
việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công chức không
phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó, có một
nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức cha nắm vững kiến thức về
nhà nớc và pháp luật.
ở Bình Định, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dỡng cán
bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi dỡng, giáo dục pháp luật nói riêng
đã đợc cấp ủy Đảng và chính quyền địa phơng quan tâm hơn. Việc mở
các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại tỉnh và tham gia thi tuyển, cử tuyển
cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành về nhà nớc và
pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào tạo, bồi dỡng, giáo dục

pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nớc và quản lý xã
hội cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phơng trong tỉnh hiện nay
đang còn là vấn đề bức xúc.
Là một giảng viên, công tác nhiều năm ở Trờng Chính trị tỉnh
Bình Định, tôi đã tham gia nhiều đợt nghiên cứu thực tế ở các địa phơng
trên địa bàn tỉnh. Qua tiếp xúc, trao đổi, khảo sát và làm việc với nhiều
cán bộ, công chức ở các huyện, thành phố trong tỉnh, nhất là với đội ngũ
cán bộ, công chức ở các xã, phờng, thị trấn, đã cho thấy: Còn một bộ
phận khá lớn cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt.
Nhiều cán bộ, công chức cha phân biệt đợc giữa các loại vi phạm pháp
luật hành chính, dân sự, hình sự Có trờng hợp vi phạm pháp luật hình
sự nghiêm trọng, nhng chính quyền địa phơng chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn
giản trong nội bộ thôn ấp. Ngợc lại, có vụ việc đơn giản thì quan niệm là
nghiêm trọng và xử lý khá nặng nề.
Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở
các địa phơng trong tỉnh, khi đã tham gia quản lý nhà nớc, quản lý xã hội
phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một
cách đúng đắn, trớc hết là trong lĩnh vực mà mình thực hiện chức năng quản
lý.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn địa phơng Bình Định
cũng nh thực tiễn giảng dạy bộ môn Nhà nớc và pháp luật ở Trờng Chính trị
tỉnh Bình Định; đợc sự hớng dẫn khoa học của GS.TS Hoàng Văn Hảo, tôi
chọn đề tài: "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh
Bình Định - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi
hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào công tác giáo dục pháp luật nói chung và
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nớc ta trong
giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang đợc các nhà khoa học pháp lý

quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã đợc công bố, nh:
"Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà n-
ớc hiện nay", Luận án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và
lối sống theo pháp luật", Đào Trí úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", của
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ T pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn
đề giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trờng đại học, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nớc ta hiện nay",
Luận án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục pháp luật
qua hoạt động t pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật", Luận án
tiến sĩ của Dơng Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật ở nớc ta - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc
Dũng, 1997; "Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện
nay", của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ T pháp, Nxb Thanh niên,
1997; "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trờng Chính trị ở n-
ớc ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp Bộ, Khoa Nhà nớc pháp luật, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ
đào tạo trung học chính trị ở nớc ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý
luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy
nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay cha có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói
chung và Bình Định nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có
hệ thống vấn đề này trên địa bàn Bình Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của luận văn
* Mục đích:
Đánh giá đúng thực trạng và xác định đợc phơng hớng, giải pháp
nhằm bổ sung, hoàn thiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức

trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục pháp luật;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức ở Bình Định;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phơng hớng, giải pháp nhằm tăng c-
ờng hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị ở Bình Định hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trên địa bàn tỉnh Bình định, ngoài cán bộ, công chức trong hệ thống
chính trị ở địa phơng còn có các cơ quan trung ơng đóng trên địa bàn. Luận
văn này chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng
cờng giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống
chính trị của Bình Định.
4. Phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và
t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật. Quan điểm, đờng lối, chủ tr-
ơng, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nớc pháp
quyền XHCN Việt Nam. Phơng pháp luận trong nghiên cứu là phơng pháp
duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh: Phơng
pháp xã hội học pháp luật; phơng pháp lịch sử cụ thể; phơng pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh; phơng pháp khảo sát thực tế; phơng pháp thống kê.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
- Luận văn đề xuất phơng hớng và các giải pháp cơ bản về giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp ở Bình
Định.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định và các địa phơng có cùng đặc điểm
về lịch sử, kinh tế, văn hóa - xã hội Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất
lợng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở Bình
Định.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác
giáo dục pháp luật cho riêng từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa ph-
ơng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục
pháp luật cho Trờng Chính trị tỉnh Bình Định; các Trung tâm giáo dục
chính trị các huyện và thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định; các cơ sở
giáo dục khác và Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp ở Bình Định.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo
dục pháp luật ở các trờng Chính trị, các cơ quan giáo dục pháp luật thuộc
các tỉnh trong khu vực duyên hải miền Trung (khu V).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
Chơng 1
CƠ Sở Lý Luận về Giáo Dục Pháp Luật
CHO Cán Bộ, CÔNG Chức
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Đến nay, khái niệm về giáo dục pháp luật ở nớc ta vẫn cha đợc
nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau
về khái niệm giáo dục pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
- Trớc hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó
không cần đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc
tính tuyên truyền vận động, ngợc lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện

chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các
chế tài đối với những ngời tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật
điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là
một bộ phận của giáo dục chính trị, t tởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần
thực hiện tốt quá trình giáo dục chính trị t tởng, giáo dục đạo đức là mọi
ngời đã có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Quan niệm này đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nớc ta. Vì
vậy, việc đào tạo chuyên ngành luật không đợc Nhà nớc chú ý, dẫn đến
hậu quả là các cơ sở đào tạo của ngành luật hầu nh không có. Mãi đến
năm 1979 mới có cơ sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học
và đến những năm 1987-1988, việc giáo dục pháp luật mới bắt đầu đa
vào chơng trình giáo dục ở bậc phổ thông.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này,
việc giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có
văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành nh: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Dân sự hoặc trớc các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân
dân các cấp.
Các quan niệm nói trên đều mang tính phiến diện, một chiều, cha
thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố
ý hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp
luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng".
Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm
các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra
giám sát. Trong cơ chế đó "yếu tố con ngời là cơ bản và là linh hồn của cơ
chế" [21, tr. 14]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con ngời phải suy
nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý
phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. ở giai đoạn
này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân nh

khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó,
việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhng cha đủ để cá
nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là
cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải đợc hình thành d-
ới sự tác động liên tục, thờng xuyên của các điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo
luật này cha phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo
dục lâu dài mới thực hiện đợc tốt" [32, tr. 244].
Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, trớc hết cần
xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học s phạm. Trong khoa học s
phạm, giáo dục đợc hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hởng của nhiều điều
kiện khách quan nh: Môi trờng sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán và sự tác động của nhân tố chủ
quan nh: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hớng
của con ngời lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định
của đối tợng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt đợc
các mục tiêu nhất định nh: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất,
trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và t duy để khách thể
(hay đối tợng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hởng của các điều kiện khách
quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con ngời, các nhà lý
luận, các nhà khoa học s phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng
đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ
quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thờng đợc hiểu
theo nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trớc hết là một hoạt
động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhng nó cũng có những

nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con ngời. Theo cả
nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, giáo dục pháp luật đợc hiểu là: Con
ngời nói chung là khách thể (hay đối tợng) chịu ảnh hởng và tác động của
các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức,
tình cảm và hành vi pháp luật.
Giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung
của nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục, "cần
vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo
dục pháp luật" [19, tr. 8]. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp
luật xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn đợc xác định qua các yếu tố
sau đây:
- Mặc dù, sự hình thành ý thức con ngời là quá trình ảnh hởng tác
động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan,
những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận
giáo dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động,
nhân tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hởng còn
nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hởng
có thể tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao
giờ cũng là tự giác, có ý thức, có định hớng rõ ràng, cụ thể "mà hoạt động
giáo dục định hớng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà n-
ớc, các tổ chức xã hội là yếu tố hàng đầu" [16, tr. 9].
- Khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong
việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật.
Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhng không phải là một.
Hoạt động giáo dục pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan
mà trớc hết là hoạt động có định hớng, có tổ chức, có chủ định thành một
hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm
của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan
trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động
giáo dục pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc

giáo dục pháp luật thì các nhân tố tiêu cực nh: hiện tợng vi phạm pháp luật,
phạm tội cha đợc xử lý nghiêm minh; hiện tợng nhận hối lộ, tham nhũng
trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất
mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó,
có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngợc với mục tiêu của nền pháp chế
và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngợc lại, nếu xác
định đúng đắn các yếu tố của giáo dục pháp luật nh nội dung, hình thức, ph-
ơng pháp và định hớng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp
luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt đợc tác
động của các tiêu cực, giúp cho đối tợng đợc giáo dục có ý thức pháp luật
vững vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện
thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành
động phù hợp với pháp luật.
- Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học s
phạm, để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật. Từ đó cho ta thấy rõ hơn
mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái
chung, cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc
điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phơng pháp của giáo dục
nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên
hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác nh giáo dục chính trị, đạo đức
Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở
cả hình thức, phơng pháp.
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tơng đối với các dạng giáo
dục khác ở chỗ:
+ Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động
nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định
của pháp luật.
+ Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hớng
với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một
nhà nớc nói riêng về hai hiện tợng nhà nớc và pháp luật. Trong đó, pháp

luật thực định hiện hành của Nhà nớc là bộ phận vô cùng quan trọng.
+ Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tợng, hình thức và ph-
ơng pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp
luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là
quá trình tác động liên tục, thờng xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác
động một lần của chủ thể lên đối tợng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật
trở thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trờng, các tập thể lao động,
các tổ chức Đảng, Nhà nớc, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con ngời với hành
vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa ngời
giáo dục (chủ thể) với ngời đợc giáo dục (đối tợng). Ngời đợc giáo dục là
ngời chịu sự tác động có tổ chức, có định hớng các thông tin pháp luật. Vì
vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của ngời đợc giáo dục là
đòi hỏi hàng đầu đối với ngời giáo dục. Đồng thời, ngời giáo dục pháp luật
cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa
phải là tấm gơng, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi vì,
trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc "làm gơng", "làm mẫu", "anh hãy
làm nh tôi làm" có ảnh hởng to lớn đối với ngời đợc giáo dục.
Tóm lại: Khái niệm giáo dục pháp luật đợc xây dựng xuất phát từ
nghĩa hẹp của giáo dục và theo đó, giáo dục pháp luật đợc hiểu: là hoạt
động có định hớng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động
lên đối tợng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm giáo dục pháp luật nh đã nêu trên, trong điều kiện
hiện nay ở nớc ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói
quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nớc, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trớc hết thuộc về hệ thống
các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có
chức năng giáo dục pháp luật của Nhà nớc nói riêng.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý
nghĩa đặc biệt trong việc tăng cờng pháp chế XHCN. Bởi vì, giáo dục pháp

luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công
dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiện nay, nh Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ là, tiếp
tục "xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc" [15, tr. 131], chúng ta đang
từng bớc phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật.
Trong phơng hớng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phơng hớng có khả
năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động
trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp,
"pháp luật và kỷ cơng của Nhà nớc bị vi phạm ngày càng phổ biến" [48, tr.
14]. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang
tầm chiến lợc của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây
dựng nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc
biệt quan trọng trong chiến lợc con ngời của Đảng và Nhà nớc ta hiện nay.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên
cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục
đích xã hội cần phải đạt đợc trong quá trình giáo dục pháp luật, có vai trò
quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Bởi vì, các phạm
trù, nội dung, hình thức, phơng pháp giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc
vào việc xác định những mục đích xã hội nào đợc đặt ra trớc quá trình giáo
dục. Mục đích của giáo dục pháp luật phải đáp ứng đợc các yêu cầu cụ thể
của xã hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện
lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục
pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc và từng bớc mở rộng

hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục
đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về
giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để
hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri
thức pháp luật còn giúp cho con ngời tổ chức một cách có ý thức hoạt động
của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp
luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nh nớc ta hiện nay,
khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh hởng t tởng
và nếp sống của ngời sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của
công dân cha đầy đủ. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật cha đợc coi
trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của
pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nớc. Do
đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nớc ta luôn
coi trọng công tác giáo dục pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục, tuyên
truyền, giải thích pháp luật Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ơng đến đơn
vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật.
Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật và làm t vấn pháp luật cho nhân dân" [10, tr. 121], "thờng xuyên
giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [11,
tr. 92], "phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cơng, tăng cờng
pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật" [15, tr. 135].
- Mục đích thứ hai: Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp
luật (mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức
pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng
nh các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con ngời rất dễ hành động chệch khỏi
các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng t (các vụ án gần đây cho ta thấy
rõ điều đó, điển hình là vụ án Mai Văn Huy, vụ án Năm Cam). Nội hàm
của mục đích cảm xúc đạt đợc thông qua việc: Một là, giáo dục tình cảm
công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của

pháp luật, biết đối xử với ngời khác và với chính mình bằng các tiêu
chuẩn công bằng thể hiện qua các qui phạm pháp luật. Hai là, giáo dục
tình cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê
phán, lên án những biểu hiện coi thờng pháp luật, các hành vi phạm
pháp. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của
pháp luật. Có đợc tình cảm trên, con ngời sẽ có đợc lòng tin vững chắc
vào sự cần thiết tuân theo những qui phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin
vào pháp luật, con ngời sẽ có những hành vi hợp pháp.
- Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
theo pháp luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả
cuối cùng của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dới tác
động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin Thói quen xử sự hợp
pháp đợc hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm hớng dẫn của pháp luật,
thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói
quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật
cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của ngời khác,
của Nhà nớc và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ mang
tính tơng đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong mối liên hệ
hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến
tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngợc lại,
khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại đợc
củng cố. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật đều phải hớng hoạt động
vào cả ba mục đích của giáo dục pháp luật.
Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật trong quá trình giáo
dục pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn
giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của giáo
dục pháp luật sẽ dẫn đến chất lợng tốt hay không tốt tới giáo dục pháp luật.
1.1.3. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật

Nội dung giáo dục pháp luật đợc xác định trên cơ sở ba mục đích
của giáo dục pháp luật nói trên, là sự hình thành ở đối tợng giáo dục hệ
thống tri thức pháp luật. Tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp
với yêu cầu của pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật là một thành tố
quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật, nó đợc xác định trên cơ sở mục
đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tợng
giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bảo
đảm cho chất lợng của việc giáo dục pháp luật có hiệu quả cụ thể, thiết
thực.
Trong lý luận về giáo dục pháp luật cần làm rõ một số vấn đề liên
quan tới nội dung giáo dục pháp luật nh: phạm vi, đặc điểm, những yếu tố
chủ yếu của nội dung giáo dục pháp luật.
Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện
nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản
pháp luật thực định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm
pháp luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực
hiện áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối t-
ợng, các tầng lớp dân c. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng,
ý kiến, đề xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Các thông tin hớng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (nh
các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các
quyền hợp pháp).
Từ phạm vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn
pháp luật ở nớc ta hiện nay cũng cần lu ý tới những đặc điểm của nội dung
giáo dục pháp luật. Đó là trạng thái động của các thông tin trong nội dung
giáo dục pháp luật. Những đặc điểm này cần đợc nhận thức đầy đủ đối với

những ngời làm công tác giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó họ lựa chọn ph-
ơng pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục pháp luật của từng đối tợng một
cách phù hợp, giúp cho đối tợng giáo dục có cách nhìn nhận đúng đắn, biện
chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đa pháp luật vào cuộc sống, cũng
nh những điểm mâu thuẫn và thống nhất của tiến trình đổi mới, phát triển
khoa học pháp lý và pháp luật thực định ở nớc ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật, trên cơ sở lý luận
và thực tiễn, đợc xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy
theo từng loại đối tợng phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tợng
giáo dục pháp luật. Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tợng giáo dục
pháp luật, ngời ta phân định nội dung giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp
độ khác nhau sau đây:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi
công dân. Sống trong một xã hội đợc quản lý bằng pháp luật thì mỗi công
dân phải cơ những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối
thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp và thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các
công dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ
cần những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang
tính định hớng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ
bản thờng gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề
còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt
động của đối tợng. Các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt
động và các trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh
vực nghề nghiệp.
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội
dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy
nhà nớc và các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết
của đối tợng này bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về nhà n-

ớc và pháp luật trong lịch sử và hiện tại. Những hiểu biết tơng đối toàn diện
về hệ thống pháp luật trong nớc và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu của
từng ngời (về hình sự, về dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia đình, về luật
quốc tế, ). Kỹ năng của họ không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà
chủ yếu là vận dụng chính xác, linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử
lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật (hoặc t vấn cho việc giải
quyết các vấn đề về pháp luật, nh các tranh chấp, các vi phạm pháp luật ).
Kỹ năng quan trọng và đặc thù của đối tợng là sáng tạo pháp luật, là khả
năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội
dung giáo dục pháp luật có thể thấy rằng: Không thể có một hình thức hay
một chủ thể giáo dục pháp luật riêng biệt có thể đáp ứng đợc tất cả các yêu
cầu, nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục pháp luật đặt ra cho mọi đối t-
ợng. Do đó cần phải có sự phối hợp nhiều hình thức, phơng tiện, chơng
trình, mục tiêu giáo dục pháp luật của các chủ thể khác nhau để hỗ trợ, bổ
sung cho nhau nhằm đạt đợc mục đích của giáo dục pháp luật mà nội dung
giáo dục pháp luật đề ra.
1.1.3.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Mục đích và nội dung của giáo dục pháp luật không thể tự thân đi
vào nhận thức, tình cảm của ngời đợc giáo dục pháp luật, mà phải qua
những kênh chuyển tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức
quá trình giáo dục pháp luật, thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các
dạng hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tợng.
Do đó, hiệu quả của giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào việc xác
định đúng mục đích và nội dung giáo dục pháp luật mà còn phụ thuộc vào
việc xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Có nhiều quan niệm khác
nhau về hình thức giáo dục pháp luật. Xuất phát từ giáo dục học, khái
niệm hình thức giáo dục đợc hiểu là: Các hình thức tổ chức hoạt động
phối hợp giữa ngời giáo dục và ngời đợc giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội
dung giáo dục và đạt mục đích giáo dục. Trên cơ sở của khái niệm này,

hình thức giáo dục pháp luật đợc coi là các dạng cụ thể, có tổ chức phối
hợp giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tợng giáo dục pháp luật để thể
hiện nội dung giáo dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật. Từ
khái niệm hình thức giáo dục pháp luật, ngời ta còn phân chia hình thức
giáo dục pháp luật ra thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn cũng nh
qua nghiên cứu lý luận về nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tợng giáo dục
pháp luật, hình thức giáo dục pháp luật đợc chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống
của giáo dục chính trị t tởng nh: phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ
quan nhà nớc, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân c; các hội nghị, hội
thảo pháp luật; các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ động pháp
luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và các phơng
tiện thông tin đại chúng khác; các hình thức văn học nghệ thuật; dạy và học
pháp luật trong các nhà trờng.
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù nh: Các hoạt động định
hớng giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và t pháp
của các cơ quan nhà nớc (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát);
giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức quần chúng (tổ hòa giải, t vấn pháp lý ).
1.1.4. Chủ thể, khách thể, đối tợng giáo dục pháp luật
1.1.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật
Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất
cả những ngời làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp
luật, có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những ngời mà theo
chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực
hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn
đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể
chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu
cầu trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau. Từ đó, có các hình
thức, phơng thức và phơng pháp tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật khác

nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những ngời mà chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội
dung giáo dục pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền
viên về pháp luật ).
Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những ngời mà
chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật, nhng một trong các
nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực
hiện mục đích giáo dục pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, t pháp ).
Tóm lại, chủ thể giáo dục pháp luật đợc hiểu là tất cả những ngời
mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp phần vào
việc thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật.
1.1.4.2. Khách thể (đối tợng) giáo dục pháp luật
Khách thể theo quan niệm chung nhất là "đối tợng chịu sự tác động,
chi phối của hành động trong quan hệ đối lập với đối tợng gây ra hành động
gọi là chủ thể" [60, tr. 487]. Từ quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách
thể với đối tợng chịu sự tác động. Trong lý luận giáo dục ngời ta cho rằng:
Khách thể (hay đối tợng) giáo dục là cá nhân hay tập thể học sinh.
Nh đã đề cập ở phần trên, khái niệm giáo dục pháp luật đợc xây
dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học s phạm,
nó chỉ là một dạng đặc thù mang nét riêng, nằm trong cái chung của hoạt
động giáo dục. Mặt khác, khi xem xét đến khách thể, đối tợng giáo dục
pháp luật không thể không tính đến các mục đích của giáo dục nói chung và
mục đích của giáo dục pháp luật nói riêng.
Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một
bên là ngời giáo dục (chủ thể) và một bên là ngời đợc giáo dục (khách thể
hay đối tợng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
bên tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác
động, chi phối của ngời giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những

hoạt động có ý thức, có định hớng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục
tiêu, mục đích nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc,
mục đích hành vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể
giáo dục pháp luật tác động lên khách thể (đối tợng) giáo dục với những
mong muốn cụ thể là xây dựng đợc ý thức và những hành vi hợp pháp cho
khách thể (đối tợng) giáo dục pháp luật.
Nh vậy, khách thể (đối tợng) giáo dục pháp luật ở đây không chỉ là
cá nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm cả những yếu tố
bên trong của họ nh: nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi cụ thể của họ
phù hợp với pháp luật.
Từ phân tích trên cho thấy, khách thể của giáo dục pháp luật cũng
giống nh khách thể của giáo dục nói chung, nó mang tính đồng nhất với đối
tợng giáo dục pháp luật. Vậy khách thể của giáo dục pháp luật đợc hiểu là
những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật
của họ.
Việc xác định chủ thể, khách thể (đối tợng) giáo dục pháp luật có ý
nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp
luật trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và
khách thể trong quá trình giáo dục pháp luật. Trong đó, chủ yếu là sự tác
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của ngời giáo dục pháp luật lên
ngời đợc giáo dục pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể xác định các nội dung,
hình thức, phơng tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với khách thể (đối t-
ợng) giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính
trị t tởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác
Giáo dục pháp luật tuy có những nét đặc thù riêng, nhng phải đợc
đặt trong mối quan hệ chung đợc coi nh một dạng giáo dục trong hệ thống
giáo dục. Giáo dục pháp luật khi đặt trong tổng thể của hệ thống giáo dục
thì giáo dục pháp luật có mối quan hệ khá mật thiết với các dạng giáo dục
khác nh: giáo dục chính trị, đạo đức, lao động, kinh tế

- Giáo dục pháp luật tác động tơng hỗ một cách sâu sắc với giáo dục
chính trị t tởng. V.I. Lênin đã chỉ rõ rằng: "Luật là biện pháp chính trị, là
chính trị" [28, tr. 99]. Hiện nay, đờng lối chính trị của Đảng ta - chỗ dựa
của đổi mới mọi mặt về chính trị, kinh tế, xã hội đã đi vào tất cả các mặt
hoạt động lập pháp, hành pháp và t pháp. Có thể nói rằng, mỗi một quy
phạm pháp luật đều là phơng tiện để củng cố, ghi nhận, một quy tắc mà xã
hội cần, xã hội ủng hộ nhằm bảo vệ không những lợi ích của Nhà nớc mà
còn là của mỗi công dân. Bởi vậy, khi thực hiện giáo dục pháp luật sẽ tạo ra
khả năng cho việc giáo dục chính trị t tởng, góp phần hình thành ở đối tợng
giáo dục những quan hệ giá trị xác định với chính trị t tởng. Ngợc lại, trong
giáo dục chính trị t tởng có chức năng đan xen trong nội dung của mình
những hiện tợng của pháp luật, củng cố những quan hệ tích cực đối với
những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích điều chỉnh bằng pháp luật.
Mối quan hệ mật thiết qua lại chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục
chính trị t tởng đòi hỏi các chủ thể giáo dục pháp luật phải biết kết hợp và
bổ sung cho nhau trong quá trình giáo dục.
- Giáo dục pháp luật có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đạo đức,
Đảng ta đã nhận thức rõ điều đó, nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Tăng cờng
pháp chế, xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản
lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức"
[14, tr. 45]. Giữa pháp luật và đạo đức không có sự đối lập nhau, pháp luật
là chỗ dựa và là cơ sở của việc hình thành đạo đức; các nguyên tắc căn bản
của đạo đức đợc thể chế hòa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp
luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, nhân đạo, tự do,
lòng tin và lơng tâm con ngời. Vì vậy, giáo dục đạo đức tạo nên những tiền
đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật.
Ngợc lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trên thực tế những
nguyên tắc đạo đức mới. Quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều h-
ớng tới điều chỉnh hành vi của con ngời, giữa chúng có một số điểm chung

là cùng tác động lên con ngời, những điểm chung đó là:
+ Tạo ra lòng tin và giá trị xã hội của pháp luật;
+ Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các chuẩn
mực đạo đức và pháp luật.
Nh vậy, sự thống nhất giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
thể hiện ở hành vi của con ngời. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng
hợp của cả hai dạng giáo dục. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, các tổ chức
chính trị, các cơ quan nhà nớc, các tổ chức chính trị xã hội phải sử dụng
đồng bộ các hình thức, các biện pháp của cả hai dạng giáo dục để bổ sung
cho nhau, tác động lẫn nhau với mục đích hình thành các hành vi hợp pháp,
hợp đạo đức ở các đối tợng đợc giáo dục.
- Hiện nay, "Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ
nghĩa" [15, tr. 23]. Để thực hiện đờng lối kinh tế nói trên của Đảng và Nhà
nớc, cần đẩy mạnh hoạt động giáo dục kinh tế trong mối quan hệ với sự
nghiệp đổi mới. Tất nhiên, giáo dục kinh tế trong giai đoạn hiện nay là
những t duy và phơng pháp của "cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa". Các quan hệ kinh tế ở nớc ta ở mức độ này hay mức độ khác đợc thể
hiện thành các hình thức pháp lý. Thiếu các hình thức pháp lý thích hợp,
các quan hệ kinh tế khó lòng thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng, bên cạnh
giáo dục kinh tế, cần phải tiến hành giáo dục pháp luật bao gồm việc giải
thích, phổ biến, học tập, nghiên cứu những văn kiện liên quan trực tiếp đến
việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Ngoài những dạng giáo dục có mối quan hệ mật thiết với giáo dục
pháp luật nh đã nêu trên, còn nhiều dạng giáo dục khác. Trong điều kiện
đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu mối quan hệ tổ hợp, đan xen giữa các
dạng giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Việc giáo dục pháp
luật chỉ có thể đạt đợc mục đích và hiệu quả trong mối quan hệ thống nhất,
tổ hợp của cả hệ thống các hình thức giáo dục. Tất cả các dạng giáo dục

phải đợc phối hợp và tiến hành thờng xuyên trong mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau.
1.2. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.2.1.1. Quá trình hình thành khái niệm công chức ở Việt Nam
Khái niệm công chức ở nớc ta đợc đánh dấu từ Sắc lệnh 76/SL ngày
20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ban hành "Quy chế công chức của n-
ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa". Sau đó, trong một thời gian dài do nhiều
nguyên nhân chúng ta ít sử dụng thuật ngữ "công chức" mà thờng dùng cụm

×