Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

luận văn thạc sĩ Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481 KB, 108 trang )

Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc
ít ngời ở tỉnh đắk lắk - thực trạng và giải pháp
Hà Nội 2010
Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc
ít ngời ở tỉnh đắk lắk - thực trạng và giải pháp
Hà Nội 2010
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp
luật cho nhân dân các dân tộc miền núi
của nớc ta hiện nay
8
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật 8
1.2. Quan điểm của Đảng và cơ sở pháp lý về giáo dục pháp
luật cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở tỉnh Đăk Lăk
26
Chơng 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho nhân
dân các dân tộc ít ngời tại tỉnh Đăk Lăk
38
2.1. Đặc điểm điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội và ảnh hởng
của nó đến giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít
ngời tại Đăk Lăk
38
2.2. Thực trạng giáo dục pháp luật ở tỉnh Đăk Lăk 51
Chơng 3: Phơng hớng và các giải pháp cơ bản của
việc tăng cờng giáo dục pháp luật cho
nhân dân các dân tộc ít ngời ở tỉnh Đăk
Lăk
63


3.1. Những yêu cầu thực tiễn của công tác giáo dục pháp luật
cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở tỉnh Đăk Lăk
63
3.2. Phơng hớng tăng cờng công tác giáo dục pháp luật cho
nhân dân các dân tộc ít ngời ở Đăk Lăk
67
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các hình thức giáo dục
pháp luật cơ bản ở tỉnh Đăk Lăk
75
kết luận 95
danh mục tài liệu tham khảo 97
Phụ lục 102
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở nớc ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi x-
ớng và lãnh đạo trong 15 năm qua "đã đạt đợc những thành tựu quan
trọng", tạo tiền đề vững chắc đa đất nớc ta bớc vào một thời kỳ mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Thực tiễn đổi mới đất
nớc đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng rằng: phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc đòi hỏi tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Nhà nớc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cờng pháp chế
xã hội chủ nghĩa (XHCN) là phơng thức không chỉ là để xây dựng hoàn
thiện Nhà nớc pháp quyền mà còn là phơng thức phổ biến, chủ yếu để nhà
nớc quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy "Đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nớc, phát huy dân chủ, tăng cờng pháp chế" đã
trở thành một trong mời nội dung lớn trong Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung ơng khóa VIII trình Đại hội Đảng lần thứ IX. Tăng cờng pháp
chế XHCN là một nguyên tắc hiến định thể hiện trong Hiến pháp của Nhà

nớc ta. Để thiết lập một nền pháp chế thống nhất và vững chắc trên phạm
vi cả nớc; để thiết lập trật tự pháp luật, kỷ cơng phép nớc đợc nghiêm minh,
dân chủ và công bằng, có rất nhiều con đờng với nhiều giải pháp phong
phú. Trong đó, phải kể đến giải pháp trớc mắt và lâu dài đảm bảo việc thực
hiện pháp luật trở thành lối sống, thói quen của Nhà nớc và nhân dân - đó
là đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục pháp luật (GDPL), nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân. Chính vì vậy, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 02/CT-TTg
năm 1998 và Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 về việc ban hành
kế hoạch triển khai công tác phổ biến GDPL. Trong Báo cáo của Chính
phủ do Thủ tớng Phan Văn Khải trình bày tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa
X ngày 20/11/2001 nêu rõ:
Trong xã hội, việc tạo lập nếp sống và làm việc theo pháp
luật phải đợc đặt thành một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đời
sống văn hóa ở các gia đình, các cụm dân c, các đơn vị cơ sở và
phải coi đó là sự nghiệp của toàn dân, đòi hỏi nỗ lực của toàn bộ
hệ thống chính trị trong việc phổ biến tuyên truyền pháp luật, đẩy
mạnh đấu tranh chống các hành vi trái pháp luật, xử lý nghiêm
minh các vi phạm [8, tr. 2].
Với nhận thức trên có thể khẳng định rằng: nếu sự nghiệp giáo dục
là quốc sách hàng đầu thì GDPL có vị trí đặc biệt quan trọng ở nớc ta hiện
nay. Với lôgic ấy, để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị số 22-
NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số chủ trơng, chính sách lớn phát triển
kinh tế xã hội miền núi, trong đó có Tây Nguyên "với vị trí chiến lợc và u
thế về đất đai tài nguyên, xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh
về quốc phòng an ninh, tiến tới có vùng kinh tế động lực" (nh Chiến lợc
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã xác định). Nhà nớc ta phải tăng c-
ờng GDPL cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở Tây Nguyên nói chung và ở
Đăk Lăk nói riêng theo quy định của Điều 36 Hiến pháp 1992: " Nhà nớc
thực hiện chính sách u tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các
vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn".

Thực tiễn vừa qua, công tác GDPL cho nhân dân ở tỉnh Đăk Lăk cha
đáp ứng đợc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. ý thức pháp luật và tình hình
thực hiện pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ và nhân dân nói
chung còn rất hạn chế nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều nhân
dân các dân tộc ít ngời đang sinh sống. Các điều kiện để tiếp nhận thông tin
pháp lý nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nớc đối với đồng bào dân tộc
vùng sâu, vùng xa bị hạn chế so với nhân dân ở thành thị và nông thôn đồng
bằng. Vì vậy, hệ thống luật tục (cả tích cực và lạc hậu) của ngời dân tộc
vốn đã đợc các buôn làng sử dụng từ xa đến nay càng có điều kiện chi phối,
điều chỉnh các quan hệ xã hội ở buôn làng. Bối cảnh đó càng cho thấy việc
tuyên truyền và GDPL Nhà nớc, đa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề
lớn đòi hỏi cần đợc đáp ứng kịp thời.
Trong thời gian gần đây ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Đăk
Lăk nói riêng có những vấn đề chính trị phức tạp và nhạy cảm. Để đảm bảo
sự ổn định và phát triển bền vững cho vùng Tây Nguyên, Nhà nớc ta phải có
kế hoạch, chính sách đồng bộ, nhiều giải pháp thiết thực hữu hiệu, trong đó
công tác GDPL cần đợc coi trọng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng của
giai đoạn mới.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: "

Giỏo dc phỏp lut
cho nhõn dõn cỏc dõn tc ớt ngi tnh k Lk - Thc trng v gii
phỏp " là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn
2.1. Tình hình nghiên cứu
GDPL với t cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của
Nhà nớc trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cờng pháp chế,
vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các
nhà khoa học từ trớc đến nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nớc, đổi
mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

+ Các công trình nghiên cứu ở ngoài nớc nh:
- "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa", Luận án tiến sĩ luật của Trần Ngọc Đờng.
- "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và GDPL cho nhân dân lao
động ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ luật của Nguyễn Đình Lộc.
+ ở trong nớc việc nghiên cứu GDPL đợc nhiều tác giả đề cập đến
những khía cạnh và mức độ khác nhau, thể hiện trong các công trình nghiên
cứu, bài viết đăng trên các báo, tạp chí và GDPL đã là đề tài của nhiều luận
án, luận văn luật học, các công trình nghiên cứu đó có thể kể đến nh:
- "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của tác giả Nguyễn Ngọc
Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, tr.34-38, năm 1983) .
- "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa và xây dựng con ngời mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý
luận, số 4, tr. 18-22, năm 1985) ;
- "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bích (Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 4, tr. 34-35, năm 1989) ;
- "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp
luật" (Đề tài khoa học cấp Nhà nớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nớc - pháp
luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì) ;
- "Một số vấn đề lý luận và thực tiến trong công cuộc đổi mới", đề
tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98, 223 ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý - của Bộ t pháp;
- "Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả trong
một số dân tộc ít ngời", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa
học pháp lý;
- "Giáo dục pháp luật trong các trờng Đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề không chuyên luật ở nớc ta hiện nay", Luận án Phó tiến
sĩ của Đinh Xuân Thắng;
- "Giáo dục pháp luật qua hoạt động t pháp ở Việt Nam", Luận án
phó tiến sĩ của Dơng Thị Thanh Mai;

- "Giáo dục pháp luật cho dân tộc Khơme Nam Bộ (qua thực tiễn
An Giang)", Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Bền;
- "Bàn về giáo dục pháp luật" của phó tiến sĩ Trần Ngọc Đờng - D-
ơng Thị Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn
hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng.
+ Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần
đây:
- "Nhìn lại một năm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Gia
Lai" của Trần Xuân Thiệp, (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2000).
- "Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình
mới" của Hồ Viết Hiệp (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000).
- "Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật
trong nhà trờng", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001, v.v
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể và cá
nhân, các bài viết từ trớc đến nay về GDPL đã có những đóng góp quan
trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay cha có
một công trình luận án, luận văn nào nghiên cứu về GDPL cho nhân dân
các dân tộc ít ngời tại tỉnh Đăk Lăk. Với tính cách là một xã hội thu nhỏ
của nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống ở miền núi. trong giai đoạn hiện
nay cần phải chú trọng đúng mức và cấp thiết của việc GDPL và coi đây là
nhiệm vụ chính trị quan trọng để góp phần vào việc ổn định tình hình và
phát triển kinh tế - xã hội ở một tỉnh miền núi nh Đăk Lăk.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu vấn đề GDPL cho đồng báo các dân tộc ít
ngời trong tỉnh Đăk Lăk nói chung, đặc biệt là nhân dân các dân tộc Êđê và
M'nông.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu kể từ khi có đờng lối đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cờng
giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở tỉnh Đăk Lăk
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận GDPL cho nhân dân các dân
tộc ít ngời.
Hai là: Đánh giá, phân tích thực trạng GDPL cho nhân dân các dân
tộc ít ngời ở tỉnh Đăk Lăk.
Ba là: Đề xuất phơng hớng và giải pháp nhằm tăng cờng ý thức
GDPL cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở tỉnh Đăk Lăk.
4. Phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc xây dựng trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà n-
ớc ta về GDPL nói chung và cho nhân dân các dân tộc ít ngời nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh: phơng
pháp lịch sử - cụ thể, phân tích tổng hợp, thống kê so sánh, điều tra xã hội
học v.v
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu tơng đối có hệ
thống những vấn đề lý luận về GDPL cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở
một địa phơng miền núi.
- Phân tích đánh giá thực trạng GDPL, đồng thời rút ra những kinh
nghiệm về GDPL cho nhân dân các dân tộc ít ngời tại Đăk Lăk.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cờng
giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít ngời ở Đăk Lăk.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực
trạng GDPL hiện nay cho ngời dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk, từ đó nâng cao
nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan

Đảng và nhà nớc trong việc GDPL đối với ngời dân tộc thiểu số tại tỉnh
Đăk Lăk.
- Các giải pháp đợc đề ra trong luận văn có thể đợc áp dụng trong
việc xây dựng chơng trình GDPL và thực tiễn GDPL cho đồng bào dân tộc
thiểu số nói chung và ngời dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các tr-
ờng, lớp, trung tâm đào tạo, bồi dỡng cán bộ pháp lý cho vùng dân tộc thiểu
số nói chung và ngời dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn
đợc chia thành ba chơng, 7 tiết.
Chơng 1
Những Vấn Đề Lý Luận CƠ Bản Về Giáo Dục Pháp Luật
nói chung Và Giáo Dục Pháp Luật CHO NHÂN DÂN
Các DÂN Tộc Miền Núi Của Nớc TA Hiện NAY
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
khoa học giáo dục cũng nh trong sự nghiệp giáo dục ở nớc ta. Khái niệm
GDPL thờng đợc quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển
khai thực hiện pháp luật cũng nh trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật. Với t cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nớc ta hình thành và thực
hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với t cách là
một khái niệm pháp lý - GDPL đợc hình thành trong khoa học pháp lý cũng
nh đợc tiến hành trong thực tế ở nớc ta rất muộn mằn so với nhiều nớc trên
thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nớc ta vẫn còn có nhiều ý
kiến khác nhau, đó là lẽ bình thờng. Song để có một cách nhìn nhận đúng
đắn khoa học về GDPL, trớc hết cần xem xét một số các quan niệm về
GDPL cơ bản sau đây:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục

chính trị t tởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính
trị t tởng, các quan điểm, đờng lối, chủ trơng của Đảng cho nhân dân thì tự
nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác
giáo dục chính trị t tởng, giáo dục đạo đức sẽ đạt đợc sự tôn trọng pháp luật
của công dân. Hay nói cách khác sự hình thành ý thức pháp luật là hệ quả
tất yếu của việc giáo dục chính trị t tởng hay giáo dục đạo đức.
- Quan niệm thứ hai: Xem GDPL chỉ đơn thuần là hoạt động phổ
biến tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phơng tiện thông tin
đại chúng nh đài phát thanh, truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt công
tác thông tin tuyên truyền pháp luật nh vậy là có thể làm tốt công tác
GDPL.
- Quan niệm thứ ba cho rằng: GDPL là lấy "trừng trị" để giáo dục ng-
ời vi phạm và răn đe giáo dục ngời khác. Thông qua việc xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật nh áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội, xử phạt vi
phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng
GDPL cho mọi ngời; không cần phải tuyên truyền hay giải thích pháp luật.
- Quan niệm thứ t: đồng nghĩa GDPL với dạy và học pháp luật ở các
trờng học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì
không phải là GDPL.
Tất cả các quan niệm trên, mặc dù ở những góc độ khác nhau nhng
đều có sự nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định.
Song ở các quan niệm đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện, hoặc đơn giản
đến mức tầm thờng hóa vai trò của GDPL; cha thấy đợc đặc thù và giá trị
vốn có của GDPL. Vì vậy, những quan niệm đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã
hội của GDPL. Mặt khác trong thực tiễn các quan niệm trên đây đã không
tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động có tổ chức
cũng nh quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của
pháp luật trong thực tế không cao. Nhận định trên thể hiện trong quan niệm
thứ nhất; việc hình thành nên ý thức pháp luật của con ngời đợc xem nh là
sản phẩm của quá trình giáo dục chính trị t tởng hay giáo dục đạo đức. Nếu

quan niệm nh vậy thì vấn đề GDPL sẽ không đợc coi trọng đúng mức, do
vậy không đợc đặt ra nh một hoạt động độc lập. Chính quan niệm này trong
thực tiễn đã gây ra một hậu quả tai hại kéo dài trong nhiều năm ở nớc ta dẫn
đến không có nội dung, chơng trình GDPL; pháp luật không đến với ngời
dân nên ý thức pháp luật trong xã hội thấp kém.
Quan niệm thứ hai coi GDPL thực chất là những đợt tuyên truyền,
cổ động không mang tính thờng xuyên, liên tục với nội dung, chơng trình
cụ thể mà theo mùa vụ, mỗi khi có văn bản pháp luật mới đợc ban hành. Ví
dụ: Khi sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự
v.v thì tổ chức tuyên truyền theo đợt. Quan niệm GDPL nh vậy là phiến
diện, thiếu đồng bộ và liên tục nên hiệu quả giáo dục không cao.
Các quan niệm thứ ba, thứ t cũng đều bộc lộ những khiếm khuyết,
phiến diện nên trong thực tiễn đã không tạo ra khả năng triển khai hoạt
động GDPL một cách rộng rãi. Sự nhận thức không đầy đủ về GDPL nên
khó có thể khái quát đợc nội hàm của khái niệm này.
Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đờng duy nhất cần tiếp
cận là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện t-
ợng xã hội và chỉ có trong xã hội loài ngời thể hiện nền văn minh nhân loại.
Giáo dục luôn luôn là nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã
hội. Vì thế mà các nhà nớc của giai cấp cầm quyền để bảo vệ quyền lợi của
mình đều thông qua giáo dục. Trong khoa học s phạm, giáo dục đợc hiểu
theo hai nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hởng, tác động của những
điều kiện khách quan (nh chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi tr-
ờng sống ) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ
định và định hớng của nhân tố con ngời) nhằm hình thành những phẩm
chất, kỹ năng nhất định của đối tợng giáo dục.
- Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hớng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu
tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và t duy, để họ có đầy

đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa
nhận những yếu tố ảnh hởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự
hình thành ý thức cá nhân của con ngời. Song các nhà lý luận khoa học s
phạm đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và
thậm chí quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm
giáo dục hiện nay chúng ta thờng đợc hiểu theo nghĩa hẹp.
Nh vậy quan niệm về giáo dục theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp nh trên
thì GDPL trớc hết cũng là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất
chung của giáo dục nhng nó có những đặc điểm riêng biệt, phạm vi riêng cả
nội dung, hình thức và phơng pháp riêng biệt. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp của giáo dục, GDPL đợc hiểu một cách khái quát nhất: con ngời với t
cách là một thực thể xã hội là một khách thể (hay đối tợng) chịu ảnh hởng
và sự tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình
thành lên ý thức tình cảm và hành vi pháp luật.
Thực tế hiện nay theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp
lý đều xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục. Vận dụng khái niệm giáo dục
theo nghĩa hẹp, các nhà khoa học đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các
yếu tố sau đây:
- Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con ngời là một quá trình chịu
ảnh hởng và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ
quan. Các Mác viết: "Con ngời vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục.
Và do đó con ngời đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và
của một nền giáo dục đã thay đổi" [37, tr. 10].
Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hởng lên ý thức con ngời thì các
nhà lý luận giáo dục đã phân biệt điều kiện khách quan và chủ quan. Điều
kiện khách quan là những yếu tố ảnh hởng hình thành lên ý thức con ngời,
nhân tố chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định hớng, có nội
dung và phạm vi nhất định. Yếu tố ảnh hởng khách quan có thể tự phát, thụ
động, có thể tự phát theo chiều nay hay chiều khác không có chủ đích trớc.

Vậy theo nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL đó
là sự tác động có định hớng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội
dung, chơng trình pháp luật cần đa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.
- Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học s
phạm để xây dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức đợc mối quan hệ
giữa "cái chung" và "cái riêng", "cái đặc thù", "trong mối quan hệ với giáo
dục nói chung là "cái chung" "cái phổ biến" "cái riêng" vừa phải mang
những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù. GDPL
là "cái riêng" cái đặc thù trong mối quan hệ với giáo dục là "cái chung", "cái
phổ biến".
Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một
số điểm sau đây:
- Về mục đích GDPL: Hoạt động GDPL mang tính định hớng,
nhằm nâng cao ý thức pháp luật, hình thành tình cảm lòng tin và sự tôn
trọng đối với pháp luật của Nhà nớc từ đó tự giác xử sự phù hợp với pháp
luật hiện hành.
- Về nội dung, GDPL có nội dung cơ bản riêng biệt, những tri thức
của nhân loại về Nhà nớc và pháp luật cũng nh nội dung của các văn bản
pháp luật thực định sẽ đợc truyền tải đến khách thể (hoặc đối tợng) một
cách thiết thực và có hiệu quả. Việc xác định đúng nội dung pháp luật để
truyền tải cho đối tợng nhất định nào có ý nghĩa quan trọng và quyết định
đến hiệu quả của GDPL.
- Về chủ thể, đối tợng, hình thức, phơng pháp GDPL: Hoạt động này
là một quá trình thờng xuyên, liên tục và lâu dài chứ không phải là tác động
theo sự tác động phong trào, theo thời vụ của chủ thể giáo dục lên đối tợng
GDPL. Cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trờng và xã hội
của các cấp, các ngành cần quan tâm đúng mức cho hoạt động GDPL. Ngời
GDPL (chủ thể) phải là ngời có kiến thức pháp luật, có năng lực thực tiễn
truyền thụ kiến thức, đợc tiếp nhận đầy đủ các thông tin pháp lý để truyền
tải những kiến thức pháp lý cho ngời đợc giáo dục (đối tợng) và chủ thể

phải luôn luôn là ngời gơng mẫu trong chấp hành pháp luật để đối tợng noi
gơng.
Hình thức và phơng pháp GDPL cần phải phù hợp với từng đối tợng.
Chủ thể phải lựa chọn cách thức, phơng pháp cho phù hợp để mang lại hiệu
quả cao trong GDPL. Hình thức có thể đơn giản, từ thấp đến cao hay trực
quan, trừu tợng cũng là yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả của
GDPL.
- Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có
ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt 2 phạm trù: GDPL và phạm trù ý
thức pháp luật. Hai phạm trù này có mối quan hệ với nhau mật thiết nhng
không đồng nhất với nhau.
Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trớc hết là
hoạt động có định hớng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung,
chơng trình, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của
các ảnh hởng của điều kiện khách quan là sự tác động của nhân tố chủ
quan, nhng nhân tố chủ quan này lại có vai trò chủ đạo và quyết định đến sự
hình thành ý thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng
quan trọng trong điều kiện đổi mới ở nớc ta hiện nay. Trong xã hội ta
những yếu tố khách quan mang tính tiêu cực trong cơ chế thị trờng; đó là
tham ô, hối lộ, lối sống không lành mạnh đang tác động đến nhận thức,
tình cảm, lòng tin vào pháp luật,đi ngợc lại mục tiêu của một nền pháp chế
XHCN. Mặt tiêu cực đó, trong xã hội đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn
đến nhân tố chủ quan nhằm tác động định hớng trong quá trình hình thành
nên ý thức pháp luật cho công dân. Trong điều kiện hiện nay ở nớc ta việc
trang bị tri thức pháp luật, bồi dỡng tình cảm và thói quen tuân theo pháp
luật của nhân dân lao động là trách nhiệm của các cơ quan nhà nớc, đặc biệt
là các cơ quan nhà nớc trực tiếp bảo vệ pháp luật, các cơ quan nhà nớc
khác, các tổ chức xã hội ở các cấp, các ngành trong đó trớc hết thuộc về
cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo con ngời. Con ngời trong xã hội cần
phải đợc tổ chức đợc định hớng GDPL cho hoạt động của họ; nếu không sẽ

không hình thành ý thức pháp luật tích cực ở cá nhân con ngời trong xã hội.
Tóm lại: Từ phân tích nh trên có thể định nghĩa GDPL nh sau:
GDPL là hoạt động có định hớng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể
GDPL để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dỡng tình cảm và hành vi hợp
pháp cho đối tợng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ ý thức pháp
luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định pháp luật
và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác
định mục đích để làm gì ? cần đạt đợc mục đích ấy bằng con đờng nào ? tức
là phải lựa chọn hình thức và phơng pháp nhất định. Xác định đúng đắn
mục đích của GDPL chẳng những là căn cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả
mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung GDPL phù hợp với đối tợng đợc
giáo dục. Mục đích của GDPL khác với mục đích của các dạng giáo dục
khác.
Mục đích của GDPL trong điều kiện hiện nay cần xác định cụ thể ở
những vấn đề sau đây:
- Một là: Từng bớc nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân.
Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con ngời trên các lĩnh
vực là một yêu cầu khách quan của công tác giáo dục nói chung. Trong
GDPL thì mục đích đợc đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp lý
cho đối tợng đợc GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt đợc những
tri thức về Nhà nớc về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định. Trong
điều kiện ở nớc ta hiện nay, thực tế cho thấy rằng Đảng và Nhà nớc ta đặc
biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí pháp lý. Tuy nhiên
do đặc điểm và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa nên nhân dân các dân
tộc ít ngời có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc xác định đúng đắn
mục đích GDPL có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể GDPL,
nâng cao nhận thức pháp lý làm cho mọi ngời hiểu một cách đầy đủ và
đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình

thành tâm lý, tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật, tin tởng vào pháp luật
và điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Khi mà mọi thành viên trong xã hội
đã đạt đến một ý thức "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" thì
đó là mục đích cao nhất và đó là hệ quả của quá trình GDPL.
- Hai là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với
pháp luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô
cùng quan trọng nhng bản thân nó cha phải là sự quyết định đến hành vi xử
sự hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhng trong mỗi con ngời cần
phải có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tởng
vào sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành
vi hợp pháp của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi
hành động dễ bị chệch hớng khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục đích,
động cơ cá nhân. Thực tế cho thấy nếu một ngời có sự hiểu biết pháp luật,
có tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ tin theo những quy định của
pháp luật. Tuy nhiên để có đợc tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần
phải giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của
công dân, thái độ không khoan nhợng với kẻ thù. Tất cả những vấn đề đó sẽ
là cơ sở hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.
- Ba là GDPL nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
hợp pháp, tích cực.
Hành vi xử sự theo pháp luật của con ngời là kết quả của một quá
trình nhận thức pháp luật. trong quá trình nhận thức thì có nhiều yếu tố tác
động (chủ quan và khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử
sự theo pháp luật trong đó hoạt động GDPL là yếu tố cơ bản. Bởi lẽ thông
qua GDPL sẽ cung cấp tri thức pháp luật, lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết
vào sự tuân theo một cách tự nguyện những quy định của pháp luật. Để đạt
đợc mục đích này trong quá trình GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, ph-
ơng pháp và thờng xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu đợc sự cần thiết,
tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. Thực tiễn hiện nay ở
nớc ta, mục đích này có quan hệ vô cùng to lớn khi mà đa số nhân dân lao

động vẫn còn tình trạng cha có thói quen xử sự theo pháp luật, việc sử dụng
quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật còn
hạn chế, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng.
GDPL nhằm đạt đợc ba mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của
nó còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa
vào mục đích của GDPL thì không thể đánh giá đợc hiệu quả và các chỉ số
xác định hiệu quả của quá trình GDPL.
1.1.3. Chủ thể và đối tợng của giáo dục pháp luật
Trong hoạt động GDPL những ngời (cá nhân, tổ chức) theo chức
năng của mình tham gia vào việc truyền thụ phổ biến pháp luật nh giảng
dạy, trình bày, giải thích, pháp luật gọi là chủ thể, những ngời đợc truyền
thụ học tập, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật gọi là (đối tợng).
- Về chủ thể của GDPL:
Trong lý luận về giáo dục học chủ thể giáo dục là những thầy giáo,
cô giáo và tất cả những ngời làm công tác giáo dục khác. Theo từ điển
Tiếng Việt: Chủ thể nói chung đợc hiểu "là đối tợng gây ra hành động
mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tợng bị chi phối bởi hành
động tác động, gọi là khách thể" [47, tr. 130]. Vận dụng vào GDPL, có thể
hiểu chủ thể GDPL là những ngời hoạt động GDPL. Hay nói khác đi thì
chủ thể GDPL đợc hiểu là tất cả những ngời, mà theo chức năng, nhiệm vụ
hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục
tiêu GDPL. Việc xác định chủ thể, đối tợng GDPL có ý nghĩa về lý luận và
thực tiễn. Trong mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tợng
GDPL trong quá trình GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL
thì sự tác động đó có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tợng giáo
dục. Trên cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện
tiếp nhận tác động GDPL của đối tợng cũng nh các yêu cầu đòi hỏi khách
quan đối với các chủ thể GDPL trong việc xác định nội dung, hình thức, ph-
ơng pháp phù hợp để tiếp cận GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu quả cao
nhất.

- Về đối tợng GDPL:
Vấn đề đối tợng của GDPL có quan hệ chặt chẽ với chủ thể, bởi lẻ
chủ thể khi tiến hành hoạt động GDPL thì phải xác định đối tợng là ai, cơ
quan, tổ chức hay cá nhân, công dân nào, trình độ tuổi tác. Trên cơ sở xác
định đúng đắn đối tợng cần GDPL thì chủ thể mới lựa chọn hình thức và
phơng pháp thích hợp. Chẳng hạn đối tợng là CBCC nhà nớc thì khi GDPL
phải khác với nhân dân các dân tộc ít ngời, có nh vậy mới mang lại hiệu quả
cao nhất trong tuyên truyền GDPL.
Đối tợng GDPL có thể là những cá nhân công dân, hay cơ quan tổ
chức hoặc một nhóm cộng đồng dân c trong xã hội đợc tiếp nhận tác động
của các hoạt động GDPL trực tiếp hoặc gián tiếp do chủ thể GDPL tiến
hành nhằm đạt đợc mục đích đặt ra.
Năm 1998 Thủ tớng Chính phủ đã ra Chỉ thị 02/1998/CT-TTg và
Quyết định 03/QĐ-TTg ngày 07/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển
khai công tác phổ biến GDPL. Căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ thì đối
tợng GDPL bao gồm:
- CBCC nhà nớc:
Đối tợng này là CBCC Nhà nớc, họ đã đợc đào tạo bồi dỡng nên đã
có trình độ và khả năng nhận thức nhất định. Trong đối tợng này, vấn đề
GDPL phải chú ý hơn đến những ngời đang làm việc trong các cơ quan bảo
vệ pháp luật nh Tòa án, Viện kiểm sát, thanh tra Trong mối quan hệ này,
họ là đối tợng cần đợc GDPL, nhng mối quan hệ khác họ lại là chủ thể của
GDPL cho nhân dân lao động. Trong những năm gần đây đội ngũ CBCC
nhà nớc ta đã đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm đào tạo, bồi dỡng về kiến
thức pháp luật. Tuy nhiên nhiều CBCC Nhà nớc do không đợc đào tạo cơ
bản nên kiến thức pháp luật còn chắp vá, thiếu hệ thống. Điều đó đã hạn
chế rất nhiều đến năng lực quản lý nhà nớc, khả năng giải quyết công việc
trong các cơ quan Nhà nớc. Vì vậy GDPL cho đối tợng là CBCC là vấn đề
vừa cấp bách vừa lâu dài, phải thờng xuyên, liên tục mới có thể đáp ứng đòi
hỏi của quá trình quản lý nhà nớc bằng pháp luật ở nớc ta.

- Học sinh - Sinh viên:
Đối tợng này là những công dân trẻ, khỏe, thông minh và sáng tạo,
là chủ nhân tơng lai của đất nớc. Học sinh, sinh viên đang thực sự là lực l-
ợng xung kích trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tuy nhiên
về ý thức pháp luật của họ vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy tình trạng vi
phạm pháp luật đã xảy ra trong các học đờng, cũng nh ngoài xã hội. Các tệ
nạn xã hội nh ma túy, lối sống buông thả, đồi trụy phần nhiều lại do thanh
thiếu niên mắc phải. Vì thế GDPL cho đối tợng học sinh - sinh viên cũng là
một yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội đang đợc Nhà nớc thực sự coi
trọng. Có nh vậy thì học sinh sinh viên ra trờng họ có kiến thức khoa học
vững vàng, có lối sống lành mạnh và ý thức pháp luật đợc nâng cao.
- Các chủ doanh nghiệp, ngời quản lý, cán bộ công đoàn ở các
doanh nghiệp:
Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế ở nớc ta, chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nớc ta là nhất quán ổn định
lâu dài. Nhà nớc tạo ra môi trờng pháp luật bình đẳng nhằm bảo hộ quyền
và lợi ích hợp pháp cũng nh sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
trong mọi thành phần kinh tế. Song Nhà nớc cũng đòi hỏi nghiêm ngặt các
doanh nghiệp, các thơng nhân phải hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật. Thành tựu kinh tế trong 15 năm đổi mới ở nớc ta có
sự đóng góp đáng kể của hàng vạn doanh nghiệp (đến nay là trên sáu vạn
doanh nghiệp). Tuy nhiên trên thực tế việc sản xuất, kinh doanh vẫn bị ảnh
hởng của cơ chế cũ và trật tự kỷ cơng pháp luật còn lỏng lẻo. Không ít các
doanh nghiệp, các thơng nhân, đặc biệt là những ngời sản xuất nhỏ hay làm
kinh tế gia đình khi tham gia vào nền kinh tế thị trờng, do kiến thức pháp
luật còn hạn chế, nhất là pháp luật kinh tế. Vì vậy, hiện tợng vi phạm hợp
đồng, hoặc bị lừa đảo hoặc dẫn đến thua lỗ là khó tránh khỏi. Đúng nh
Đảng ta đã nhận định: "lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, dẫn
đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế,
xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của công dân, làm cho

kỷ luật, kỷ cơng và pháp luật không nghiêm" [15, tr. 25].
Nh vậy, GDPL là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thân của các nhà kinh
doanh và yêu cầu quản lý kinh tế của nhà nớc. Có nh vậy mới giúp họ có
những kiến thức cơ bản về pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh,
từng bớc tạo cho họ thói quen kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, tránh
tình trạng phá rào, vi phạm pháp luật nh hiện nay.
- Các tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là nhân dân các dân tộc
ít ngời, vùng sâu, vùng xa:
Đây là lực lợng đông đảo những ngời lao động, chiếm đa số trong
xã hội và lao động của họ đang tạo ra một khối lợng lớn giá trị vật chất cho
xã hội.
Tuy nhiên lực lợng đông nhất trong xã hội này lại ít có điều kiện đ-
ợc học tập, nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật. Đặc biệt nhân dân các dân tộc
ít ngời ở vùng sâu, vùng xa miền núi nh Tây Nguyên, ý thức pháp luật còn
rất thấp. Chính vì vậy cần phải GDPL để họ nhận thức đợc trách nhiệm và
nghĩa vụ, quyền lợi của công dân đối với Nhà nớc và xã hội. Tại Đăk Lăk
cần phải chú ý đến vai trò của già làng trởng bản với t cách vừa là chủ thể
giáo dục vừa là đối tợng GDPL. Có thể nói Già làng, trởng bản là những
ngời rất có uy tín ở buôn thôn, những việc xích mích trong buôn làng với
nhau đều do Già làng, trởng bản tham gia giải quyết một cách có hiệu quả.
Già làng, trởng bản khi tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong
nhân dân ở buôn làng thì với t cách là chủ thể của GDPL. Có thể nói các
già làng, trởng bản ở các buôn làng Tây Nguyên thờng chỉ dựa vào uy tín
tập quán, luật tục để chỉ dẫn và giải quyết công việc, còn kiến thức pháp
luật còn hạn chế. Do vị trí vai trò của già làng, trởng bản, nên họ cần phải
đợc bồi dỡng kiến thức pháp luật hơn ai hết ở cơ sở các cộng đồng dân c. Vì
vậy họ có vai trò "kép" vừa là chủ thể vừa là đối tợng của GDPL.
- Hiện nay tại Đăk Lăk có: 655 già làng và 627 trởng bản. Già làng
do dân bầu chọn, suy tôn, trởng bản (thôn) do bổ nhiệm.
Tại tỉnh Đăk Lăk đã mở nhiều lớp tập huấn về kiến thức pháp luật

cho Già làng, trởng bản.
Đối tợng GDPL chủ yếu đợc đề cập ở đây là nhân dân các dân tộc ít
ngời ở tỉnh Đăk Lăk.
1.1.4. Nội dung hình thức phơng pháp giáo dục pháp luật
Nội dung GDPL:
Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Bởi lẽ nội dung GDPL là gì, mức độ nh thế nào cho từng loại đối tợng là
vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của GDPL. Hay nói cách khác trên cơ sở
mục đích và đối tợng mà xác định một nội dung GDPL thiết thực để có
hiệu quả cao.
Nội dung GDPL nói chung là một phạm vi rộng bao gồm kiến thức
pháp luật cơ bản nh lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn
bản pháp luật thực định. Ngoài ra nội dung của GDPL còn bao hàm các
thông tin về việc thực hiện pháp luật, về việc điều tra, xét xử các vụ án hình
sự, dân sự, kinh tế, cả về nghiên cứu điều tra xã hội học pháp luật. Các
thông tin hớng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân nh thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các quy định và thủ tục để bảo vệ lợi ích
của Nhà nớc và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công
dân.
Đối với nhân dân các dân tộc ít ngời ở các tỉnh Tây Nguyên nói
chung và ở tỉnh Đăk Lăk nói riêng theo chúng tôi nội dung GDPL cụ thể là:
- Nghĩa vụ công dân trong việc tham gia đóng góp xây dựng pháp
luật của Nhà nớc, quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Nghĩa vụ công dân trong việc cùng với toàn dân đấu tranh phòng
và chống các vi phạm pháp luật để pháp luật đợc thực hiện công bằng.
- Nghĩa vụ công dân trong việc thực hiện nghiêm chỉnh triệt để và
đúng đắn pháp luật của Nhà nớc cũng nh các quy tắc sinh hoạt trong cộng
đồng dân c.
- Giáo dục về quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và trình tự tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích đó khi có tranh chấp.

- Phổ biến, giải thích các văn bản pháp luật hiện hành cho nhân dân
một cách kịp thời, đặc biệt là những văn bản liên quan trực tiếp thiết thân đến
quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Nh đã đề cập ở trên, việc xác định nội dung giáo dục phải dựa trên
nhu cầu, điều kiện, đặc điểm của đối tợng đợc giáo dục mới có hiệu quả.
Trên phơng diện lý luận nói chung của GDPL do chủ thể GDPL quyết định.
Nội dung ấy phát sinh từ nhu cầu quản lý nhà nớc bằng pháp luật, từ yêu
cầu của việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chính trị, kinh tế xã hội,
chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nớc. Trên thực tế, nội dung của
GDPL phù hợp hay không phù hợp còn phải căn cứ vào thực trạng ý thức
pháp luật của ngời dân, vào điều kiện, khả năng tiếp thu của họ để xác định
nội dung giáo dục từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cộng nhiều nội
dung nhỏ để thực hiện nội dung phong phú đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực
pháp luật hơn.
Đối với đồng bào các dân tộc ít ngời ở Đăk Lăk, ngoài những nội
dung GDPL nêu trên cần hớng dẫn nhân dân thực hiện các tập quán sinh
hoạt tốt đẹp, các luật tục còn phù hợp với pháp luật Nhà nớc. Đồng thời chỉ
ra cho nhân dân thấy đợc những hủ tục lạc hậu, những luật tục trái với lợi
ích cộng đồng và trái với pháp luật của Nhà nớc trong điều kiện đổi mới
hiện nay.
Hình thức, phơng pháp GDPL.
Đối tợng GDPL tiếp nhận đợc tri thức pháp luật và làm biến đổi
về chất trong nhận thức của họ thì bản thân mục đích và nội dung của
GDPL không thể tự nó đi vào nhận thức. Vấn đề là ở chỗ cần phải thông
qua các phơng thức truyền tải thông tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ
thể giáo dục và đối tợng giáo dục bằng những hình thức và phơng pháp
khác nhau.
Nếu chủ thế giáo dục biết lựa chọn các hình thác và phơng pháp nào
phù hợp với đối tợng thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức

và phơng pháp không phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phơng
pháp và nội dung của GDPL cũng có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình
thức và phơng pháp, nó có tác động làm cho việc truyền tải nội dung thấm
sâu vào nhận thức của đối tợng và nội dung đến lợt nó càng trở nên hoàn
thiện hơn, thông qua việc truyền tải thông tin để bổ sung chơng trình nội
dung GDPL.
Hiện nay có một số tác giả quan niệm về hình thức GDPL khác
nhau, nhng chúng tôi đồng ý quan niệm rằng: "Hình thức giáo dục pháp
luật là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật"
[20, tr. 75] với quan niệm này có thể chia hình thức GDPL thành hai loại:
- Các hình thức GDPL mang tính phổ biến, truyền thống đợc sử
dụng trong nhiều loại hình thức giáo dục nh: dạy và học pháp luật trong các
nhà trờng, qua các phơng tiện thông tin đại chúng, báo chí, tác phẩm văn
học nghệ thuật, câu lạc bộ pháp lý, thi tìm hiểu pháp luật, nói chuyện pháp
luật ở các cơ quan Nhà nớc, Tổ chức quần chúng, khu dân c, hội thảo khoa
học pháp lý.
- Các hình thức mang tính đặc thù của GDPL. Tính đặc thù này thể
hiện trong mối quan hệ tác động giữa GDPL là ý thức và hành vi của công
dân.
Nội dung này bao gồm định hớng GDPL trong các hoạt động lập
pháp, hành pháp, t pháp của các cơ quan Nhà nớc. Các cơ quan quản lý Nhà
nớc chuyên ngành, GDPL thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp, tổ hòa giải, dịch vụ t vấn pháp luật.
Về phơng pháp GDPL: có thể nói rằng trong khoa học pháp lý cha
có một định nghĩa nào về phơng pháp GDPL. Tuy nhiên theo khoa học s
phạm thì phơng pháp giảng dạy là các con đờng, cách thức, biện pháp tác
động để chiếm lĩnh nội dung giảng dạy và đạt đợc mục đích giảng dạy.
Phơng pháp giảng dạy pháp luật là cách thức, biện pháp đợc chủ thể
sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tợng nhằm mục
đích nâng cao nhận thức pháp luật, tình cảm và lòng tin cũng nh thói quen

xử sự theo pháp luật. Vấn đề đặt ra là chủ thể GDPL phải có sự lựa chọn ph-

×