Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp
nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của
nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho sự
nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Nông thôn là địa bàn sinh sống chủ yếu của hộ gia đình nông dân, có
chức năng quan trọng là sản xuất và cung ứng nông sản cho xã hội. Phát triển
nông thôn là một vấn đề phức tạp vì nó sẽ liên quan đến nhiều ngành, nhiều
chính sách và hoạt động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khu vực
nông thôn và đời sống của người dân nông thôn.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
Hiện nay có 70% dân số, 57% lao động sinh sống và làm việc ở khu vực nông
thôn và nông thôn đóng góp 20% thu nhập quốc nội (GDP). Vì vậy, phát
triển nông nghiệp, nông thôn (NN,NT) luôn giành được sự quan tâm to lớn
của Đảng và Nhà nước. Vì vậy việc đề ra chính sách đúng đắn về định hướng
phát triển nông nghiệp nông thôn là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất và chủ
yếu nhất.
Do thời gian nghiên cứu và khả năng có hạn, trong khuôn khổ bài viết
này tôi xin đề cấp đến một trong những chính sách có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của ngành nông nghiệp trong nông thôn trong giai đoạn hiện nay đó
là Nghị quyết 24/2008/NQ-CP ban hành ngày 28.10.2008 về Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
1
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH VÀ
THỰC TRẠNG NỀN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN:
1. Các khái niệm:
1.1. Khái niệm chính sách:
Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể hay tổ chức
nhất định khẳng định và tổ chức thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp
đi lặp lại. Chính sách giúp các nhà quản lý xác định những chỉ dẫn chung cho
quá trình ra quyết định. Giúp họ thấy được phạm vi hay giới hạn cho phép của
các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và
những quyết định nào là không thể. Từ đó chính sách sẽ hướng suy nghĩ và
hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện mục tiêu
chung của tổ chức.
1.2. Khái niệm chính sách Nông nghiệp nông thôn:
Chính sách nông nghiệp là tổng thể các giải pháp và công cụ do nhà
nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội xây dựng và tổ chức thực hiện để
giải quyết những vấn đề chính sách nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nông
nghiệp nông thôn.
2. Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam qua các giai đoạn:
Từ khi có Chỉ thị 100 của Ban Bí Thư (1981) và đặc biệt là Nghị
quyết 10 của Bộ chính trị (1986) cùng các chính sách pháp lý về việc giao đất,
đầu tư đã đưa nông nghiệp nước ta có những bước chuyển biến đáng kể từ
một nước phải nhập khẩu gạo đã chuyển sang một nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 thế giới. Thu nhập và đời sống của người dân được cải thiện.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là
giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực
hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
2
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995: Nền kinh tế khắc phục được
tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên
tục và toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Năm 1995, lần đầu tiên, hầu
hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn
thành và hoàn thành vượt mức. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000, là bước phát triển quan trọng
của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng
hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp
đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt
Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc
độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình
quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một
nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su,
thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2006-2010 đạt 3,36%/năm, Cấu trúc kinh tế đã có những thay đổi
tích cực, hứa hẹn sáng sủa hơn trong tầm nhìn dài hạn. Giao lưu kinh tế quốc
tế phát triển. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt 56 tỉ
USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỉ
USD năm 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi. Vốn
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
3
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt
11,5 tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều
so với năm trước. Năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn
FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỉ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỉ vào năm 2010
(tăng 157,5% so với năm 2006). Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình
quân 25,7%/năm. Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm qua theo giá hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng
14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7% GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước
đó.
II. CHÍNH SÁCH TAM NÔNG:
1. Chính sách “Tam nông” và một số chính sách liên quan có ảnh
hưởng lớn đến nông nghiệp:
Nghị quyết 24/2008/NQ-CP ban hành ngày 28.10.2008 về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá 10 về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Nội dung của Nghị quyết này cụ thể hoá đường lối trên với 3 chương
trình mục tiêu quốc gia, 9 dự án quy hoạch và 36 đề án phát triển và các chính
sách liên quan… được xây dựng sát với tình trạng thực tế của nông thôn VN.
Nghị quyết về Chương trình hành động của Chính phủ rất quy mô và khá cụ
thể trong phân công và thời gian thực hiện.
Qua đây chúng ta thấy Đảng và Chính phủ quan tâm rất đặc biệt đến
vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn với quyết tâm cao độ. Đấy là tư
tưởng lớn và hành động đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với nông thôn
trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tiếp đến là Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16.4.2009 về ban hành bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, đây là văn bản mà 11 mô hình thí điểm xã
nông thôn mới phải dùng nó để so sánh với các tiêu chí hiện trạng trước khi
có đề án xây dựng xã nông thôn mới.
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
4
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
Ngày 2/2/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
193/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông
thôn mới. Theo đó, mục tiêu từ nay đến năm 2011 sẽ cơ bản phủ kín quy
hoạch xây dựng nông thôn trên địa bàn cả nước, làm cơ sở để đầu tư xây dựng
nông thôn mới, thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010-2020.
2. Nội dung phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân :
- Đảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế, nâng cao thu nhập cho dân
cư nông thôn :
+ Hỗ trợ phát triển nông nghiệp hiện đại, cạnh tranh để nâng cao thu
nhập nông dân ;
+ Phát triển phi nông nghiệp để rút lao động ra khỏi nông nghiệp và
tăng thu nhập dân cư nông thôn và tạo điều kiện phát triển nông nghiệp ;
+ Hỗ trợ phát triển đô thị vừa và nhỏ, di dân ra đô thị để giảm gánh
nặng cho nông thôn và tăng thu nhập dân cư nông thôn,
- Tăng phúc lợi xã hội, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho
cộng đồng người dân nông thôn :
+ Phát triển xây dựng hạ tầng ;
+ Phát triển dịch vụ công ;
+ Nâng cao dân trí nông thôn,
+ Tăng cuờng các chương trình xóa đói giảm nghèo, hồ trợ phúc lợi xã
hội cho tâng lớp dễ bị tổn thương trong xã hội,
+ Hỗ trợ hình thành các cộng đồng dân cư chuyên nghiệp trong nông
thôn về các ngành nghề sản xuất
- Xây dựng nông thôn hiện đại, văn minh và sinh thái, mang đậm
bản sắc dân tộc:
+ Bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong những điều kiện quá trình đô thị
hoá, công nghiệp hoá diễn ra nhanh ;
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
5
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
+ Phát triển đô thị được qui hoạch cùng phát triển nông thôn ;
+ Qui hoạch phát triển công nghiệp gắn với phát triển nông thôn, Dùng
đô thị, công nghiệp hỗ trợ cho nông thôn ;
+ Bảo vệ không gian mang đậm bản sắc nông thôn
3. Mục đích của phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân :
- Chất lượng cuộc sống người dân nông thôn được nâng cao: thu nhập,
tiếp cận dịch vụ công, vị thế trong xã hội; quản lí tài nguyên
- Nông nghiệp trở nên hiện đại và hiệu quả trong bảo vệ tài nguyên;
sự cần thiết đảm bảo an ninh lương thực, lương thực thực phẩm xã hội, xuất
khẩu ;
- Nông thôn trở nên văn minh, hiện đại và gìn giữ bản sắc dân tộc. sự
cần thiết nhằm đảm bảo không gian nông thôn-đô thị có tổ chức, đảm bảo
quan hệ tổt giữa nông thôn-đô thị
4. Kết quả đạt được sau 3 năm thực hiện chính sách “Tam nông”:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương (khóa X)
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một Nghị quyết có tầm chiến lược
quan trọng, đề cập khá toàn diện và đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước
ta, được cả hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội, nhất là cư dân nông thôn
đồng tình ủng hộ, tích cực đón nhận.
Sau gần 3 năm thực hiện, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực:
tốc độ tăng trưởng GDP trong nông nghiệp bình quân giai đoạn 2006-2010
đạt 3,36%, vượt mục tiêu 3,2%/năm. Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước
chuyển biến tích cực. Năm 2010, ở khu vực nông thôn, công nghiệp và dịch
vụ đã chiếm khoảng 60% cơ cấu kinh tế. Kinh tế hộ tiếp tục phát triển mạnh,
hiện cả nước có trên 135 nghìn trang trại, tăng 22 nghìn trang trại so năm
2008. Việc chuyển đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa sang mục đích
phi nông nghiệp được giám sát chặt chẽ. Đời sống, thu nhập của người dân đã
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
6
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
tăng lên. Năm 2008 thu nhập bình quân của khu vực nông thôn là 762.000
đồng/người/tháng, nhưng năm 2010 là 1.025.000 đồng, tăng 34,5%. Tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm từ 47% (năm 2008), còn 38% (năm 2010); đào tạo cho 10.000
lao động ở huyện nghèo đi xuất khẩu lao động. cụ thể là:
- Trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn nhưng đầu
tư cho nông nghiệp, nông thôn vẫn được ưu tiên, năm 2011 cao gấp hơn 2,2
lần so với năm 2008. Nhìn lại 3 năm (2009 - 2011), cơ cấu vốn đầu tư cho
nông nghiệp - nông thôn trong tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và trái
phiếu Chính phủ của cả nước tăng từ 45% năm 2006 - 2008 lên 52% năm
2009 - 2011. Ngoài ra, hàng năm Nhà nước còn dành một khoản đáng kể để
hỗ trợ khắc phục thiên tai, dịch bệnh; thực hiện chính sách miễn giảm thuế
nông nghiệp, cung cấp tín dụng ưu đãi, thực hiện các chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn ….
- Công tác nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, cơ
giới hóa sản xuất có bước chuyển biến mới, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam. Nổi bật là ứng dụng
khoa học công nghệ trong tạo giống cây trồng cho năng suất, chất lượng cao
như: cây ăn quả, cây công nghiệp (cà phê, điều, cao su).
- Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng nông nghiệp vẫn
tăng trưởng với tốc độ khá cao, giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình quân
3,36%/năm, (vượt mục tiêu Đại hội Đảng X đề ra là 3,2%/năm), góp phần
quan trọng giảm nhẹ tác động của suy giảm kinh tế ở nước ta. Tổng kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản năm 2010 đạt khoảng 20 tỷ
USD, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm:
thủy sản, đồ gỗ, gạo, cao su, cà phê, hạt điều. Cơ cấu kinh tế nông thôn có
bước chuyển dịch tích cực. Đến năm 2010, giá trị sản xuất nông nghiệp chỉ
còn 40%, (trong khi giá trị tuyệt đối tăng). Nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn nên đã giảm được lao động nông nghiệp để chuyển sang các ngành
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
7
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
phi nông nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn theo phương châm:
“ly nông bất ly hương”
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn tiếp tục được nâng cấp và
phát triển đồng bộ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển, nhất là về
thủy lợi, giao thông, điện, thông tin truyền thông, hạ tầng y tế, giáo dục,
thương mại, nước sinh hoạt, văn hóa thể thao.
* Về xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống dân cư nông
thôn:
- Xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai, đã trở thành
phong trào rộng khắp cả nước. Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu
quốc gia với 11 nội dung và 19 tiêu chí; thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia và bộ
máy quản lý, điều hành Chương trình từ Trung ương đến địa phương; đã ưu
tiên dành vốn ngân sách và ban hành nhiều cơ chế chính sách để huy động các
nguồn lực của xã hội vào thực hiện. Đồng thời triển khai cuộc vận
động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng
nông thôn mới”, phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng
nông thôn mới”.
- Trong 3 năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng thu nhập của
người dân tiếp tục được tăng lên, khoảng 8%/năm (đã loại trừ yếu tố giá). Tỷ
lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm từ 13,1% (năm 2008) xuống còn 9,45%
(năm 2010), hộ nghèo ỏ khu vực nông thôn giảm từ 16,2% xuống 11,3%.
Riêng ở 62 huyện nghèo nhất cả nước, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 47% (năm
2008) xuống còn khoảng 37% (năm 2010). Chất lượng nguồn nhân lực nông
thôn ngày càng được nâng cao thông qua việc triển khai các chương trình đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
- Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được hoàn
thiện. Hộ nông dân vẫn là chủ lực nhưng kinh tế trang trại phát triển nhanh,
hiệu quả; kinh tế hợp tác có đổi mới, phát triển đa dạng. Sản xuất gắn kết hơn
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
8
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Hệ thống chính trị nông thôn được tăng
cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn cơ bản
được bảo đảm.
2. Những tồn tại hạn chế:
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết về tam nông, tuy chúng ta đã đạt được
nhiều thành quả tích cực đáng được ghi nhận thì bên cạnh vẫn còn đó nhiều
vấn đề lớn đặt ra:
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu, năng
suất, chất lượng một số sản phẩm còn thấp, sức cạnh tranh chưa cao; việc đưa
tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu
kém.
- Môi trường sống ở nông thôn chưa được bảo đảm, môi trường bị ô
nhiễm, có nơi nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường do khai thác
quặng diễn ra ở nhiều nơi, có nơi đáng báo động; khả năng phòng chống và
giảm nhẹ thiên tai còn hạn chế.
- Đời sống của dân cư nông thôn nhìn chung còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo
cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu,
nghèo ngày càng lớn, nhiều vấn đề xã hội bức xúc, an ninh nông thôn, tội
phạm ma túy một số nơi còn diễn biến phức tạp; hệ thống chính trị một số nơi
chưa đáp ứng yêu cầu.
- Trong nghị quyết “tam nông” chưa có bước đi thích hợp để giải
quyết. Chúng ta quyết tâm không phát triển nông nghiệp theo chiều rộng, mà
sản xuất theo chất lượng để nâng cao giá trị gia tăng, nhưng bước đi để làm
việc này từ tổ chức đến đào tạo, cơ cấu đầu tư chưa có chuyển biến mạnh,
ngay cả trong chính sách.
- Chúng ta cũng nói rằng nông thôn phải phát triển dựa vào cộng đồng,
lấy người dân nông thôn làm chính, để họ là người ra quyết định và làm chủ
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
9
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
quá trình xây dựng nông thôn mới, nhưng thật sự chúng ta vẫn thấy rằng quá
trình phát triển nông thôn còn nặng về cơ sở hạ tầng, nặng về trông chờ vào
nguồn vốn từ Nhà nước.
- Chúng ta cũng biết rằng đời sống của người nông dân đã được cải
thiện hơn, tuy nhiên cùng với quá trình phát triển nông nghiệp, công nghiệp
và đô thị, một phần lớn nông dân sẽ đi ra khỏi nông thôn, họ chưa biết sẽ cư
trú ở đâu trong đô thị ngày mai, chưa biết làm gì để trở thành tầng lớp thị dân
mới
- Cần thấy rằng nghị quyết “tam nông” không phải là một chính sách
cụ thể mà là sự thay đổi về định hướng phát triển. Câu chuyện “tam nông”
phải được đặt trong bối cảnh chung sự phát triển của đất nước. Cho nên cái
chưa được và cần làm nhất hiện nay là tiếp tục thay đổi tư duy về phát triển.
Nhưng tư duy về phát triển “tam nông” lồng trong bối cảnh chung của sự phát
triển đất nước chưa rõ ràng.
- Ngày nay, khi các nguồn tài nguyên đã và đang đi đến giới hạn, tốc
độ phát triển dân số và mức tăng thu nhập của cả loài người vượt lên nhanh
chóng, các cơ quan nghiên cứu lớn của thế giới đều dự báo rằng giá nông sản
trong tương lai sẽ tăng ở mức cao. Đã đến lúc nông nghiệp không chỉ là một
ngành tạo nền tảng ổn định cho xã hội, không chỉ là một ngành làm “phao”
cho đất nước mỗi khi gặp khó khăn, mà còn mở ra triển vọng với tư cách là
một ngành đầu tư có lợi.
III. ĐỊNH HƯỚNG MỤC TIÊU THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TAM NÔNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
Mục tiêu nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới là tập trung phấn đấu
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, phục hồi tăng
trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Giá trị gia tăng nông, lâm, thủy
sản bình quân 5 năm 2,8-3%/năm; tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP cả
nước: 17-18%; thu nhập tăng 1,8 -2 lần so với năm 2010; hàng năm, đào tạo 1
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
10
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
triệu lao động nông thôn; tỷ trọng lao động nông - lâm - thủy sản năm 2015
chiếm 40 - 41% lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng
các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm; tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42-43%;
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; phấn
đấu khoảng 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
IV. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT MỐI QUAN HỆ GIỮA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN:
Từ những thực trạng, nguy cơ mà khu vực nông nghiệp, nông thôn
đang phải đối mặt, Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách về tam nông
trong tình hình hiện nay, cụ thể một số giải pháp trọng yếu sau:
- Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đối với sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới;
- Tăng cường sự tác động của công nghiệp để phát triển nông nghiệp,
nông thôn toàn diện và gắn liền với quá trình đô thị hóa nông thôn. Tăng sự
tác động của công nghiệp đối với quá trình sản xuất nông nghiệp thông qua cơ
khí hóa, điện khí hóa để nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm cũng như tăng năng suất, hiệu quả lao động trong nông nghiệp là một
vấn đề hết sức quan trọng trong việc phát triển nông nghiệ, nông thôn và nâng
cao đời sống của người nông dân; Ứng dụng rộng rãi những thành tựu của
khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Để xây dựng một
nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn hiệu quả và bền vững, có năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
góp phần xây dựng nông thôn giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh…;
- Đẩy mạnh đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn. Đây chính là động lực để ngành nông nghiệp có những
bước phát triển mới;
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
11
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
- Thực hiện liên kết "4 nhà; Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà
doanh nghiệp". Vai trò của nhà nước đặc biệtt là chính quyền địa phương giữ
vị trí quan trọng trong mối liên kết này.
- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn nhằm đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tế nông thôn nước ta hiện nay, phần
lớn người nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và tìm việc làm.
- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Tăng cường việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn
như điện, trường học, trạm xá, công trình văn hóa thể thao, thủy lợi,…
Ngoài ra, cần tạo một quyết tâm chính trị cao và sâu rộng đối với việc
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý, sử dụng đất đai.
Để nông nghiệp, nông thôn thực sự phát triển bền vững và người nông dân
luôn an tâm sản xuất, tin tưởng vào Đảng và Nhà nước.Chính phủ cần tiến tới
một phương án mang tính cơ bản, lâu dài đối với nông nghiệp, nông thôn,
nông dân.
KẾT LUẬN
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc
gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn
ngoại tệ quan trong trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số
người nông dân. Nông thôn là môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo
tồn và phát triển các truyền thống văn hóa dân tộc. Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đề ra các chủ trương chính
sách đúng nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vận
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
12
Chính sách nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển nông nghiệp.
chất, tinh thần của nông dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng có
nghĩa chiến lược trong lãnh đạo phát triển kinh tê của cả hệ thống chính trị.
Nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và là lực lượng quan
trọng đê phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm
bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái của đất nước. Thực tế trong 3 vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân, thực tế khó có thể tách rời hoặc chú trọng một vấn đề
nào mà cần có giải pháp tổng thể, toàn diện, trong đó lấy nông dân là trung
tâm, động lực để giải quyết vấn đề tam nông hiện nay. Chính sách về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn phải giải quyết đồng bộ, gắn với qua trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Trong mối liên hệ mật thiết giữ
nông nghiệp, nâng dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát
triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch
vụ và phát triển đô thị. Vì vậy giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội ./.
Giảng viên: TS. Nguyễn Viết Tuân
Học viên: Nguyễn Tấn Thiện – Cao học PTNT K17
13