Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.96 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ BÀI ………………………………………………………………………… …2
NỘI DUN ……………………………………………………………………………2
I. Lý luận chung về người bào chữa………………………………………………… 2
1. Một số khái niệm …………………………………………………………………2
2. Phân loại người bào chữa………………………………………………………… 3
II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành………………… … 4
1. Quyền của người bào chữa………………………………………………………….4
2. Nghĩa vụ của người bào chữa…………………………………………………… 7
3. Những điểm mới về địa vị pháp lí của người bào chữa theo BLTTHS 2003 so với
BLTTHS 1988……………………………………………………………………… 8
4. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lí của người bào chữa trong pháp luật hiện hành …11
III. Thực trạng về địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay…… 12
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn
hiện nay…………………………………………………………………………… 15
KẾT LUẬN………………………………………………………………………….16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… 17
1
A. MỞ BÀI
Trong những người tham gia tố tụng hình sự thì người bào chữa là người có vị
trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và
thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống
nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Tìm
hiểu khía cạnh của vấn đề “ Địa vị pháp lí của người bào chữa” từ lí luận, quy định
của pháp luật đến thực tiễn thực hiện chế định về người bào chữa hiện nay nhằm hiểu
rõ hơn các quy định của pháp luật và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị
pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về người bào chữa
1. Một số khái niệm


* Địa vị pháp lí:
Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật qui định cho
một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một
cách độc lập.
* Người bào chữa:
Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa là người tham gia tố tụng
để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một
nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho
một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho
đương sự đó đang bị lên án.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan
đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là
người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa.
“Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động
2
chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa,
người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không
được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng
Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về người bào
chữa. Dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể hiểu người bào chữa như sau:
“Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố
tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm
chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
* Địa vị pháp lý của người bào chữa:
Dựa theo khái niệm về địa vị pháp lí và người bào chữa, ta có thể hiểu địa vị
pháp lí của người bào chữa như sau: “Địa vị pháp lí của người bào chữa là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người bào chữa, tạo cho người bào

chữa có khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ pháp
luật”. Như vậy, trong tố tụng hình sự người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực
hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người
bào chữa thực hiện chức năng của mình BLTTHS quy định cụ thể các quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lí của
người bào chữa trong tố tụng hình sự.
2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có
thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa
viên nhân dân.
- Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham
gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư
là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp (1), đây là đội ngũ chính tham gia bào chữa
3
trong TTHS. Hiện nay, Luật luật sư đang điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về
luật sư, theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 thì luật sư phải đáp ứng được các yêu
cầu: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm”, Khi muốn hành nghề
luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”.
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại
diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần. Ngoài ra theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có các chủ
thể khác là đại diện hợp pháp như: bố nuôi, mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột
và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất
hoặc tinh thần. Người địa diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

- Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy
ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình. Về mặt pháp lý,
bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận
tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được
hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ.
II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành.
1. Quyền của người bào chữa
Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một cách
khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này đã
4
khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong quá
trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi
tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được:
- Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người bị tạm
giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị
can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực
hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội.
- Thứ hai, Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Cũng như quy định ở
trên quy định quyền này của người bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa
có thể chủ động hơn trong việc có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can
- Thứ ba, Theo điều 43 và điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào

chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch nếu có căn cứ theo Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc
thay đổi người tiến hành tố tụng, và nếu xét thấy việc những người này tiến hành hoặc
tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người mà mình bào chữa.
- Thứ tư, Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Muốn bào chữa tốt
được cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài
liệu do cơ quan điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều
tra mà cơ quan điều tra đã đưa ra hoặc kết luận. Vì vậy, người bào chữa phải có quyền
5
tự mình đi thu thập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các
quyền khác của người bào chữa, ví dụ như quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và có
mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết mới
hoặc bị can, bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng, vật chứng
(tài liệu, đồ vật) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo.
- Thứ 5, Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào
chữa có quyền đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm
nguời làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho
người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu,
đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
- Thứ sáu, Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo
đang bị tạm giam. Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi tiếp xúc với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các
đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện vọng của người được bào
chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm
nhẹ tội để bào chữa cho những người này.

- Thứ bảy, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến người bào chữa. Qua việc đọc
và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được
những chứng cứ buộc tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa
chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
- Thứ tám, Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tại
phiên tòa xét xử vai trò của người được bào chữa thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa
có quyền tranh luận dân chủ trước tòa án ( Điều 19 BLTTHS 2003).
Như vậy, quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa được
BLTTHS năm 2003 quy định rất chi tiết và rõ ràng. Người bào chữa có quyền hỏi bị
cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được có những câu trả lời
6
theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận người bào chữa phải phần tích, lập luận,
đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Ngoài ra, khi
tham gia phiên tòa, người bào chữa còn có quyền xem xét vật chứng, tài liệu liên quan
đến vụ án (Khoản 4 Điều 209 BLTTHS năm 2003).
- Thứ chín, Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền này đảm bảo cho các hoạt
động tố tụng được khách quan và toàn diện. Về thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải
giải quyết các khiếu nại tại các điều 329, 330, 331, 332 của BLTTHS năm 2003, theo
đó thì: Thời hạn giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền cùng cấp là không
quá 7 ngày, cơ quan có thẩm quyền cấp trên trực tiếp là không quá 15 ngày. Đối với
khiếu nại kiểu này thì về nguyên tắc phải xem xét giải quyết ngay. Trong trường hợp
phải có thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá 3 ngày.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết và tiếp tục khiếu nại thì thời hạn giải quyết
lần cuối cùng là không quá 7 ngày.
- Thứ mười, Người bào chữa còn có quyền kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này. Đây là quyền độc
lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo

cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải
theo hướng có lợi cho bị cáo.
2. Nghĩa vụ của người bào chữa
Tương ứng với những quyền mà người bào chữa có được theo quy định của
BLTTHS năm 2003 thì theo khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa
có những nghĩa vụ sau:
- Một là, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những
tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo.
7
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến
vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến
hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
- Hai là, Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Ba là, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà
mình đã đăm nhận bào chữa, nếu không có lí do chính đáng.
- Bốn là, Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc
xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
- Năm là, Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
- Sáu là, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện
việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án
vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ
chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà
bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật
3. Những điểm mới về địa vị pháp lí của người bào chữa theo BLTTHS 2003 so
với BLTTHS 1988

BLTTHS năm 1988 đã quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tại
Điều 36 BLTTHS năm 1988. Nhưng khi bộ luật TTHS năm 2003 ra đời thì địa vị
pháp lý của người bào chữa đã được ghi nhận một cách đầy đủ và toàn diện nhất cũng
như có các cơ chế đảm bảo cho quyền đó được thực hiện trong thực tế, nó là cơ sở
pháp lí chắc chắn nhất về quyền và nghiã vụ của người bào chữa có thể thực hiện việc
bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo một cách hiệu quả. BLTTHS năm 2003 quy định
một cách chi tiết hơn quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS năm
8
1988. Sau đây là những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong
BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988:
- Thứ nhất, về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa BLTTHS năm
2003 đã quy định thêm thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi có
quyết định tạm giữ: “ Trong trường hợp bắt người khẩn cấp; bắt người phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định
tạm giữ.” Đây là một bước phát triển mới trong luật TTHS. Để đồng bộ với quy định
về thời điểm tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2003 cũng ghi nhận thêm tại khoản 2,
điểm a, Điều 58: “ Người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị
tạm giữ, và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”
việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, biết
được và thu thập được những chứng cứ, lí luận chứng minh cho sự vô tội hoặc giảm
nhẹ tội của thân chủ, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong biên bản lời khai có
chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà sau này cơ quan điều tra có
thể sử dụng để buộc tội để yêu cầu thân chủ khai lại, giải thích lại hoặc đính chính
lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình trạng sau này khi đã có chữ kí xác nhận
rồi thì đó đã được coi là chứng cứ.
- Thứ hai, BLTTHS năm 2003 đã thể hiện sự tiến bộ so với BLTTHS năm 1988
khi quy định người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian
địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can ( khoản 2, điểm b, Điều 58).

Tiếp đó là những quy định mới về quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ người bị tạm giam, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, các nhân theo yêu cầu của người bị tạm giam, bị
can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. BLTTHS năm 2003 đã
tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp và có quy định hoàn toàn mới so với BLTTHS năm
1988 về quyền của người bào chữa ở điểm d, đ khoản 2 Điều 58 như trên, đã quy định
9
về phạm vi, cách thức thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan đến việc bào chữa
của người bào chữa.
- Thứ ba, Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị
cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Mặc
dù nội dung quyền này không thay đổi nhiều so với BLTTHS năm 1988, nhưng
BLTTHS năm 2003 tiến bộ hơn BLTTHS năm 1988 khi quy định những đảm bảo cho
quyền này của người bào chữa được thực hiện, đó là quy định về trách nhiệm của các
cơ quan tiến hành tố tụng phải trả lời cho người bào chữa biết về việc giải quyết
những yêu cầu của người bào chữa: “ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi
trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của người bào chữa báo cho họ biết kết
quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm
sát phải trả lời và nêu rõ lí do.Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan
điều tra hoặc viện kiếm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại ”
(BLTTHS năm 2003, Điều 122)
- Thứ tư, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Quy định này
đã loại bỏ được quy định chỉ mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước
đây của BLTTHS năm 1988 “ có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết
sau khi kết thúc điều tra” . Việc quy định thêm quyền sao chụp những tài liệu hồ sơ
vụ án sau khi kết thúc điều tra, làm cho quyền nghiên cứu hồ sơ của người bào chữa
được thực tế hơn, phù hợp với thông lệ của pháp luật các nước trên thế giới.
- Thứ năm, Quyền tham hỏi và tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa
được BLTTHS năm 2003 ké thừa và phát triển hơn BLTTHS năm 1988 nhờ các thay

đổi trong các điều luật quy định về tranh luận, xét hỏi, đối đáp tại phiên tòa ( Điều
209, 217, 218, 222 BLTTHS năm 2003). Đồng thời khi tham gia phiên tòa BLTTHS
đã quy định người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ở đây, BLTTHS năm 2003 đã quy định
thêm việc khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
10
tụng. Việc quy định này đã làm cho quyền của người bào chữa được nâng cao và nâng
cao tính khách quan trong việc tiến hành tố tụng so với BLTTHS năm 1988.
Cùng với việc sửa đổi bổ sung về quyền của người bào chữa, nghĩa vụ của
người bào chữa cũng có một số điểm mới được quy định tại khoản 3 và 4 Điều 58
BLTTHS năm 2003 so với những quy định tại khoản 3 Điều 36 của BLTTHS năm
1988.
Tùy theo mỗi gia đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến
vụ án, Người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản theo quy định của BLTTHS; Người bào chữa có nghĩa vụ
tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
Đây là quy định đã giải tỏa được một số quan điểm hiện này vẫn còn đang thắc
mắc là: Mục đích của người bào chữa là bảo vệ thân chủ của mình có mâu thuẫn với
việc tuân thủ pháp luật bảo vệ pháp chế hay không? Điều luật quy định như vậy đã
giải quyết được vấn đề trên, tức là người bào chữa tham gia bào chữa cho thân chủ
của mình nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự thật ( Trích: Địa vị
pháp lí của người bào chữa, luận văn tốt nghiệp, Đỗ Đình Nghĩa). Nhìn chung, Nghĩa
vụ của người bào chữa được BLTTHS năm 2003 bổ xung và làm rõ hơn các nghĩa vụ
mà người bào chữa phải thực hiện ở quy định của bộ luật năm 1988, đây là một điểm
mới và tiến bộ rõ rệt của BLTTHS năm 2003 so với năm 1988.
4. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lí của người bào chữa trong pháp luật hiện hành.
* Ý nghĩa pháp lí.
Về mặt pháp lý việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa có một ý

nghĩa rất quan trọng, với những biểu hiện cụ thể sau:
Thứ nhất, Sự tham gia tố tụng của người bào chữa có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp
và sự hiểu biết của mình người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để
11
giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Qua đó sự tham gia
của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng
đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai. Việc có mặt của người bào chữa lúc
này sẽ là cơ sở để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của bị cáo.
Thứ hai, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng. Đảm bảo cho các cơ quan
tiến hành tố tụng và các chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện đúng đắn các quy định
của pháp luật. Với tư cách là người bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo người bào chữa tìm các chứng cứ, chứng minh nhằm gỡ tội, giảm tội cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đó. Đồng thời, cũng giám sát việc thi hành pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có quyền. Do đó các cơ quan và chủ
thể này phải cẩn thận trong các hoạt động thực thi pháp luật của mình.
Thứ ba, Việc quy định địa vị pháp lí của người bào chữa sẽ đảm bảo được tính
công khai minh bạch trong các quá trình của thủ tục tiến hành tố tụng. Dựa vào các
quyền mà pháp luật trao cho người bào chữa trong quá tình tố tụng từ khi khởi tố vụ
án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi thi hành án người bào chữa tham
gia vào qua trình đó sẽ khiến cho các tình tiết vụ án được công khai và minh bạch
* Ý nghĩa chính trị xã hôi
Quy định địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự sẽ là cơ sở
đảm bảo cho sự công bằng xã hội chủ nghĩa.
Việc quy định địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự thể hiện
sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả các quyền cơ bản của công
dân trong lĩnh vực tư pháp, một lĩnh vực mà từ xưa đến nay bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải thừa nhận là vô cùng quan trọng của đời sống xã hội. Quy định địa vị pháp
lí của người bào chữa trong TTHS tạo điều kiện để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có

thể gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự
dân chủ trong tố tụng hình sự so với các nước trên thế giới
III. Thực trạng về địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay
12
Mặc dù, BLTTHS năm 2003 đã có nhiều sửa đổi và bổ sung về địa vị pháp lí
của người bào chữa so với năm 1988 nhưng các quy định và việc thực hiện các quy
định này hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định cần được nghiên cứu xem xét và
sửa chữa:
Xét trên phương diện các quy định của pháp luật:
- Thứ nhất, Hiện nay BLTTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập
chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật sư chỉ thu
thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích
của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác. Nhưng
thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà
còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi
cho họ.
- Thứ hai, BLTTHS quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai
của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu được điều tra viên đồng
ý thì được hỏi những người này là quy định quyền nhưng không đảm bảo quyền cho
người bào chữa. Vì vậy cần quy định người bào chữa tham gia hỏi cung được hỏi bị
can và những người khác (nếu là đối chất) sau khi cán bộ điều tra đã hết câu hỏi như
trình tự hỏi tại phiên tòa là phù hợp.
- Thứ ba, BTTHS 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa nhưng những
quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết.
Điều 62 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và bảo
đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và cả Chương
XXXV quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chủ yếu vẫn chỉ là những
quy định về thủ tục, chưa có những chế tài cụ thể xử lý những người tiến hành tố tụng
cố ý không thực hiện các yêu cầu, kiến nghị hợp pháp đó của người bào chữa. Những
quy định chế tài này không chỉ chỉ là những "quy định ngành" chỉ những người tiến

hành tố tụng biết mà cần phải được quy định cụ thể trong BLTTHS để những người
13
tham gia tố tụng cũng biết và thực hiện vai trò giám sát của mình một cách hiệu quả
hơn
Xét trên phương diện thực hiện các quy định này trên thực tế:
- Hiện nay trên thực tế trường hợp bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép
mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm
uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất
dân chủ, không khách quan Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng
chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia từ giai đoạn
điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra người bào
chữa chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có
mặt của người bào chữa. Về nguyên tắc, khi người bào chữa tham gia đã được cấp
giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi
hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có
người bào chữa mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy
định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Người bào chữa muốn hỏi bị can
phải được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có người bào
chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung
buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt người bào chữa(mặc dù Điều
305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa)
nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối người bào chữa
trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định người bào chữa thì bản cung lại
được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị
pháp lý buộc tội. Thiết nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà chúng ta cần phải quan tâm và sửa
đổi.
- BLTTHS quy định cho phép luật sư sử dụng các biện pháp nhằm làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án nhưng thực tiễn còn nhiều hạn chế liên quan đến việc tham gia
của luật sư như luật sư không được quyền có mặt chứng kiến việc khám nghiệm hiện
trường, thực nghiệm điều tra, thu giữ vật chứng, định giá hoặc bán đấu giá tài sản thu

14
giữ trong vụ án Như vậy, việc bào chữa của luật sư đôi lúc sẽ không đạt chất lượng
cao.
- Việc xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa chưa được đảm bảo theo quy
định. Quy trình, thủ tục hành chính khi đề nghị và xem xét chưa được quy định cụ thể
và rõ ràng. Quy định về các loại giấy tờ, tài liệu có trong hồ sơ đề nghị người bào
chữa để cơ quan tiến hành tố tụng có thể xét giấy chứng nhận hiện chưa cụ thể và
thực hiện thiếu thống nhất trên thực tế.
- Người bào chữa chưa thực sự phát huy hết được vai trò của mình trong việc
bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa,
người bào chữa gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình.
Ví dụ: Khi tham gia tranh tụng, người bào chữa có thể bị chủ tọa phiên tòa hạn chế về
mặt thời gian; Tại phiên tòa, người bào chữa được Hội đồng xét xử tạo điều kiện khi
trình bày ý kiến nhưng sau đó Hội đồng xét xử lại không chấp nhận ý kiến của người
bào chữa mà không nêu lý do không chấp nhận.
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai
đoạn hiện nay
Từ thực trạng của pháp luật quy định về địa vị pháp lí của người bào chữa và
thực trạng áp dụng các quy định này hiện nay. Bài viết xin đưa ra một số ý kiến nhằm
có thể nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay như sau:
- Thứ nhất là nên bổ sung vào điểm a Điều 58 BLTTHS quy định “Đối với
những người bào chữa tham gia theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật
này thì có quyền có mặt trong tất cả các buổi hỏi cung bị can”. Theo đó thì sự tham
gia của người bào chữa trong các buổi hỏi cung những bị can này là rất cần thiết và
hợp lí.
- Thứ hai là tại điểm e của Điều 58 BLTTHS có quy định quyền gặp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam của người bào chữa thì người viết cho rằng ở
đây cần quy định rõ là được gặp riêng và không bị hạn chế về số lượng lần gặp và
thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự
15

gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình
thức và hạn chế thời gian được gặp.
- Thứ ba, Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy
tố mà không có sự tham gia của người bào chữa thì không được công nhận là chứng
cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những
nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu
vắng mặt người bào chữa. Sự có mặt của người bào chữa trong các buổi lấy cung có 2
ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không để
xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc
lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến.
Ngoài những giải pháp nói trên thì chúng ta cũng cần phải xây dựng, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ người bào chữa có trình độ pháp lý phù hợp với vai trò của người
bào chữa trong tố tụng hình sự. Phát triển đội ngũ người bào chữa là luật sư. Đồng
thời, tăng cường Phổ biến tuyên truyền pháp luật giúp người dân hiểu được các quyền
và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng để họ hiểu được quyền được bào chữa của
mình, từ đó người bào chữa sẽ được mời tham gia tố tụng nhiều hơn và có thể nâng
cao kinh nghiệm cho người bào chữa. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi hơn về vai trò
của người bào chữa trong tố tụng hình sự nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào
chữa trong giai đoạn hiện nay.
C. KẾT LUẬN
Cùng với xu thế hội nhập của thế giới, nền kinh tế đất nước ta ngày một phát
triển thì những vấn đề liên quan đến người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào
chữa ngày càng được đặc biệt quan tâm. Việc xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của
người bào chữa trong tố tụng hình sự sẽ góp phần rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt
động tố tụng hình sự và công cuộc cải cách tư pháp nói chung. Hướng tới một nền tư
pháp tiến bộ, làm cho tố tụng hình sự thật dân chủ , thật khách quan.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Trường ĐH Luật Hà Nội- NXB Công an nhân
dân, 2008

2. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003
3. Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự : Khoá luận tốt nghiệp /
Văn Hoàng Anh; Người hướng dẫn: PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn- Hà Nội, 2010
4. Nguồn internet
17

×