Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.89 KB, 19 trang )








1
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................................................................1
1. Giải pháp hoàn thiện pháp luât tố tung hình sự.................................................................................13
2. Một số giải pháp khác.........................................................................................................................15
KẾT LUẬN..........................................................................................................................................................16
PHỤ LỤC...........................................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................18
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề bảo đảm làm sao cho người bào chữa thực hiện được những quyền mà
pháp luật tố tụng hình sự quy định là hết sức cần thiết cho việc đảm bảo dân chủ trong
hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 đã có những quy định hết sức tiến bộ để nâng cao vị trí và vai trò và địa vị
pháp lý của người bào chữa nhưng việc áp dụng và triển khai nó trên thực tế còn nhiều
bất cập hạn chế cần phải khắc phục để người bào chữa thực sự phát huy hiệu quả của
mình trong hoạt động bào chữa. Đồng thời đảm bảo cho người bị tam giam, bị can, bị
cáo có thể thực hiền quyền được bào chữa của mình. Đó chính là lý do tôi lựa chọn
cho mình đề tài: “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào
chữa”
NỘI DUNG


I. Khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
1. Cơ sở quy định chế định người bào chữa







1
2
Quyền bào chữa được xem như là phương tiện pháp lý cần thiết để những chủ
thể được pháp luật cho phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thừa nhận
quyền bào chữa là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng – điều kiện không
thể thiếu được cho việc xét xử khách quan, công minh. Càng mở rộng phạm vi quyền
bào chữa bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết quả tương ứng
là càng hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội trong xét xử. với ý nghĩa đó,
BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ (NBTG), bị can, bị cáo(BCBC) là một trong những nguyên tắc đặc thù của TTHS
Việt Nam
1
.
2. Khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa
Hiện nay khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một khái niệm thống nhất về
người bào chữa. Có quan điểm cho rằng : “ Người bào chữa trong TTHS là người
tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị buộc, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”
2
. Cũng có khái

niệm về người bào chữa ở mức độ khái quát hơn “Người bào chữa là một loại người
tham gia tố tụng, có địa vị pháp lý của NBTG, BCBC”
3
. Một trong những lý do dẫn
đến việc các tác giả trên đề xuất các khái niệm khác nhau về người bào chữa là
BLTTHS năm 2003 không đưa khái niệm cụ thể về người bào chữa. Hệ thống quy
định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể, quyền và nghĩa vụ, lựa
chọn và thay đổi người bào chữa trong TTHS. Theo đó Điều 56 BLTTHS năm 2003
quy định người bào chữa có thể là: Luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tam
giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân.
2.1. Luật sư
Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham
gia TTHS theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.
4
Theo quy định của pháp luật TTHS và theo Luật Luật sư năm 2006, một người
muốn trở thành luật sư bào chữa trong TTHS phải đủ điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật luật sư 2006 và được NBTG, BCBC hay người đại diện hợp pháp yêu
cầu hoặc được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Luật luật sư năm 2006 quy định người được hành
nghề Luật sự là người đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau: là công dân Việt Nam, trung thành
với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luât, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời
gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe đảm bảo hành nghề luật sư, được cáp chứng
chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập đoàn luật sư.
1
Điều 11 BLTTHS
2
Trần Văn Bảy, “Người bào chữa trong TTHS”, tạp chí khao học pháp lý số 01/2001.
3
Phạm Văn Thiệu, “Về người bào chữa trong TTHS”, tạp chí tòa án nhân sân số 06/2008.

4
Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 2006, tr117.







1
2
BLTTHS năm 2003 đã quy định tại khoản 2 Điều 57 về việc CQTHTT phải yêu
cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho những đối tượng
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên đến năm 2006, Luật luật sư được ban hành và
có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 đã mở rộng phạm vi tổ chức hành nghề luật sư: cụ thể khi
áp dụng các quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, CQTHTT có quyền yêu cầu Đoàn
luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc công ty luật, Luật sư hành nghề với tư cách
cá nhân bào chữa cho bị can, bị cáo theo những trường hợp quy định tại điều khoản
này. Đối với những trường hợp Luật sư được cử tham gia TTHS, CQTHTT cấp giấy
chứng nhận bào chữa cho luật sư nếu họ xuất trình đầy đủ giấy tờ theo quy định tại
Điều 27 Luật luật sư. Đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư có đủ
các loại giấy tờ: Thẻ luật sư, văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi
nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề. Đối với luật sư hành nghề
với tu cách cá nhân cần xuất trình thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư.
2.2. Người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC:
BLTTHS 2003 cũng quy định tại Điều 305, người đại diện hợp pháp của
NBTG, BCBC là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần có thể tự mình bào chữa cho NBTG, BCBC hoặc lựa chọn người bào chữa. Người
đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị
tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam trừ trường hợp pháp luật quy

định khác đối với NBTG, BCBC là người có quốc tịch nước ngoài, người không có
quốc tịch, hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài. Như vậy, BLTTHS năm 2003 không
quy định rõ khái niệm người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC. Trong khoa học
pháp lý hiện nay, vẫn có hai luồng ý kiến về vấn đề nay. Quan điểm thứ nhất cho rằng,
người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC là người đại diện theo pháp luật. Nhưng
theo quan điểm thứ hai, người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC có thể là người
đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền.
Các luật gia có quan điểm thứ nhất cho rằng, người đại diện theo pháp luật của
NBTG, BCBC là đối tượng duy nhất được coi là “người đại diện hợp pháp của
NBTG, BCBC” để tham gia TTHS với tư cách người bào chữa.
Dựa trên các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005(BLDS) về người đại diện
theo pháp luật, theo quan điểm này, người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC là cha
mẹ hoặc người giám hộ của NBTG, BCBC chưa thành niên hoặc người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất. Người giám hộ có thể là người giám hộ đương nhiên hoặc
người giám hộ được cử.
5
Những người theo quan điểm thứ hai lại diễn giải khái niệm người đại diện hợp
pháp của NBTG, BCBC có nghĩa là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện
theo ủy quyền của NBTG, BCBC. Theo quy định của BLDS 2005, người đại diện theo
ủy quyền là người đại diện được xác lập theo quy định ủy quyền giữa người đại diện
và người đại diện và người được đại diện. Như vậy, người đại diện theo ủy quyền có
5
Phụ lục 1








1
2
thể là bất kỳ ai nếu được NBTG, BCBC ủy quyền, việc ủy quyền được thành lập theo
văn bản đúng quy định pháp luật. Hiện nay, chưa có sự thống nhất về cách hiểu người
đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC đã dẫn đến nhiều cách áp dụng khác nhau trên
thực tế.
2.3. Bào chữa viên nhân dân
Thuật ngữ bào chữa viên nhân dân xuất hiện lần đầu trong BLTTHS 1988 và
được tiếp tục sử dụng ở BLTTHS 2003 nhưng không quy định cụ thể thế nào là "Bào
chữa viên nhân dân" cùng những điều kiện cụ thể trở thành bào chữa viên nhân dân.
Tuy nhiên trên thực tế loại chủ thể này được thừa nhận ngay từ những năm sau Cách
mạng tháng Tám, với việc Nhà nước ta ban hành văn bản pháp luật quy định cho bị
can có quyền nhờ người không phải là luật sư bào chữa cho mình(quy định tại Điều 1
Sắc lệnh 69/SL và Nghị định 01/NĐ-VY
6
).
Xem xét khoản 2 và khoản 3 Điều 57 của BLTTHS 2003 có thể thấy những
người được làm bào chữa viên nhân dân phải là thành viên Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
hoặc tổ chức thành viên mặt trận; và tham gia TTHS để bào chữa cho thành viên tổ
chức mình.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm Người bào chữa như sau:
“Người bào chữa là người tham gia BLTTHS theo yêu cầu của NBTG, BCBC hoặc
người đại diện hợp pháp của họ, hay theo yêu cầu của CQTHTT và được CQTHTT
chứng nhận nhằm chứng minh NBTG, BCBC vô tội hoặc giúp họ giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC và giúp đỡ họ về
mặt pháp lý”. Do đó, khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa là tổng thể các
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa mà pháp luật quy định cho người bào chữa khi
tham gia TTHS.
II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
người bào chữa

1. Những quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền của
người bào chữa
1.1. Quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung BC và nếu ĐTV
đồng ý thì được hỏi NBTG, BC và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem
các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng
liên quan đến người mình bào chữa.
Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động
điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung có ý nghĩa
trợ giúp ban đầu đối với NBTG, BCBC. Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời
khai, khi hỏi cung giúp cho NBTG, BCBC được ổn định về mặt tâm lý hơn khi trả lời
những câu hỏi của ĐTV. Điều này sẽ giúp hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hoặc thiếu
hiểu biết, NBTG, BCBC khai không đúng với thực tế vụ án. Ngoài ra, với sự am hiểu
pháp luật của mình người bào chữa còn có thể giúp NBTG, BCBC nhìn ra những điểm
6
Phụ lục 2







1
2
sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản ghi lời khai, giúp NBTG, BCBC khai lại, giải
thích lại đúng với sự thật vụ án. Sự tham gia của người bào chữa ngay trong hoạt động
lấy lời khai, hỏi cung còn bảo đảm cho những hoạt động này được tiến hành đầy đủ,
tuân thủ pháp luật hơn. Bởi lẽ, sự có mặt, tham gia của người bào chữa, những người
tiến hành tố tụng sẽ thận trọng và làm việc đúng pháp luật hơn. Trên thực tế, đã có
những trường hợp khi không có sự tham gia của người bào chữa, ĐTV rất dễ duy ý

chí, chủ quan, thậm chí còn có hành vi bức cung, ép cung, mớm cung… để làm cho hồ
sơ vụ án theo hướng suy đoán của bản thân.
Người bào chữa còn có thể hỏi NBTG, BCBC nếu được sự đồng ý của ĐTV
đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Trong biên bản hỏi cung không
chỉ có những tình tiết mang tính buộc tội, mà những câu hỏi của người bào chữa cũng
có thể dẫn đến những luận cứ cho thấy NBTG, BCBC không có tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định người bào chữa chỉ được hỏi
NBTG, BCBC nếu được ĐTV đồng ý. Quy định như vậy mặc dù đảm bảo cho trật tự
lấy lời khai, hỏi cung nhưng có thể dẫn tới tình trạng người bào chữa không được thực
hiện quyền này, vì quyết định này hoàn toàn phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của ĐTV.
Người bào chữa cũng có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác, ví dụ: hoạt
động đối chất, nhận dạng; hoạt động khám nghiệm, thực nghiệm hiện trường; khám
xét, thu giữ tài sản… Khi tham gia các hoạt động diều tra, người bào chữa được quyền
xem xét các biên bản về các hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng có liên quan mà mình bào chữa. Khi xem xét, người bào chữa có thể đối
chiếu biên bản phù hợp với quá trình tiến hành hoạt động điều tả hay không. Nếu nhận
thấy hành vi tố tụng của ĐTV không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc biên
bản có những yếu tố vi phạm pháp luật, người bào chữa có thể khiếu nại đến cơ quan
thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, có thể thấy, sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động lấy
lời khai, hỏi cung và sự có mặt tham gia của người bào chưa trong các hoạt động điều
tra khác góp phần nâng cao chất lượng điều tra xét xử, đảm bảo công bằng, dân chủ
trong pháp luật TTHS Việt Nam. BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa
quyền này là hoàn toàn hợp lý.
1.2. Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi
cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can
Mặc dù pháp luật quy định người bào chữa có quyền có mặt trong khi hỏi cung
BCBC, nhưng địa điểm hỏi cung, thời gian hỏi cung lại thuộc quyền hạn, trách nhiệm
của cơ quan điều tra. Người bào chữa chỉ được mời hoặc cử sau khi NBTG, BCBC đã
bị bắt, bị tam giam hoặc bị khởi tố. Do đó, họ không thể tự mình nắm rõ những thông

tin về địa điểm và thời gian hỏi cung bị can để có sự chủ động cần thiết. Đây là thông
tin mà người bào chữa cần được cung cấp từ phía cơ quan điều tra, giúp họ có thể kịp
thời chuẩn bị và sắp xếp để thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra theo
quy định của pháp luật TTHS, BLTTHS năm 2003 đã khắc phục thiếu sót của







1
2
BLTTHS 1988 khi quy định thêm quyền được đề nghị cơ quan điều tra báo trước về
thời gian và địa điểm hỏi cung bị can của người bào chữa. Đây cũng là điểm mới tiến
bộ và hợp lý của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988.
1.3. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch
Với mục đích đảm bảo sự công bằng khách quan của quá trình giải quyết vụ án
BLTTHS năm 2003 quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến
hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng khác nếu có dấu hiệu cho thấy họ không thể
vô tư khách quan. Một trong những chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành
tố tụng và tham gia tố tụng khác là người bào chữa. Người bào chữa nếu xét thấy việc
tham gia của người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể không
khách quan vô tư, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình, có thể
dựa vào những căn cứ luật định đề nghị thay đổi những người này.Đối với người tiến
hành tố tụng, những căn cứ này được quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003
7
. Đối
với người giám định, họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một

trong những trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 60 BLTTHS năm 2003
8
. Ngoài ra,
nếu người giám định không đủ khả năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu giám định
họ cũng có thể bị thay đổi. Đây cũng là những căn cứ tương tự để thay đổi người phiên
dịch theo quy định tại Điều 61 BLTTHS 2003
1.4. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
NBTG, BCBC, người thân tích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của NBTG, BCBC nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công
tác.
Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa phải căn cứ vào các chứng cứ, tình tiết có liên
quan đến vụ án, các tài liệu thu thập được từ phía cơ quan điều tra. Tuy nhiên, nếu chỉ
dựa vào những chứng cứ, tài liệu, do cơ quan điều tra thu thập được, người bào chữa
có thể không nắm bắt được những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC hoặc sẽ có cái
nhìn về vụ án thoe hướng kết luận của cơ quan điều tra. Vì vậy, pháp luật cho phép
người bào chữa được tự mình thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào
chữa nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Điều này tạo điều kiện cho
người bào chữa tiếp xúc với vụ án vừa ở mức độ khái quát hơn vừa có thể chuyên sâu
hơn. Mặt khác, đối với NBTG, BCBC và người thân thích của những người này thì
người bào chữa đóng vai trò quan trọng trong việc trợ giúp chứng minh NBTG, BCBC
vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đương nhiên, khi tiếp xúc người bào chữa,
NBTG, BCBC và người thân thích của họ sẽ cởi mở hơn về mặt tâm lý, từ đó có thể
cung cấp thêm những tình tiết mới của vụ án hoặc có thể yêu cầu người bào chữa tìm
nhân chứng, đồ vật có lợi cho NBTG, BCBC.
1.5. Quyền đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu
7
Phụ lục 3
8
Phụ lục 4








1
2
Những tài liệu, đồ vật này thường là theo hướng có lợi cho NBTG, BCBC.
Người bào chữa có thể đưa ra những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau
như: yêu cầu cơ quan điều tả bổ sung chứng cứ, yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám
định trước đó không đúng sự thật, yêu cầu hoãn phiên tòa,… Người bào chữa phải
xem xét tính hợp lý và quan trọng là phải có lợi đối với việc bào chữa cho NBTG,
BCBC để đưa ra những đồ vật, tài liệu, yêu cầu của người bào chữa. Sự bảo đảm này
được luật hóa tại Điều 122 BLTTHS năm 2003:
“Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết
yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu
cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm
sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại…”
1.6. Quyền gặp người bị tam giữ, bị can, bị cáo bị tạm giam
Người bào chữa muốn thực hiện tốt chức năng của mình cần phải tiếp xúc trực
tiến với NBTG, BCBC chứ không chỉ tìm hiểu vụ án qua các chứng cứ, tài liệu được
cơ quan điều tra cung cấp. Việc gặp gỡ thường xuyên, trao đổi với NBTG, BCBC giúp
cho người bào chữa biết rõ tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân cũng như diễn
biến tâm lý của người được bào chữa và những tâm tư, nguyện vọng của họ. Người
bào chữa cũng tìm hiểu được nguyên nhân, động cơ, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội
nếu NBTG, BCBC thực sự có phạm tội. Từ đó, người bào chữa có thể xác minh lại

chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra, hoặc tìm ra những tình tiết gỡ tội cho NBTG,
BCBC. Ngoài ra, khi gặp người bào chữa NBTG, BCBC thường thấy tin tưởng hơn
nên dễ dàng cung cấp sự thật vụ án. Việc gặp gỡ NBTG, BCBC không chỉ tạo điều
kiện cho người bào chữa đề ra phương hướng phù hợp, mà họ còn có thể giải thích rõ
những vấn đề pháp luật cho NBTG, BCBC. Qua đó, người bào chữa có thể phát hiện
những sai lầm nếu có của CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án. Hơn thế nữa
được hiểu rõ quyền của mình khi tham gia tố tụng là một trong những điều kiện đảm
bảo quyền bào chữa của NBTG, BCBC.
1.7. Quyền đọc, ghi ghép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa theo quy định pháp luật
Qua việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bào chữa, người bào chữa nắm được nội dung vụ án, biết chính xác người
được bào chữa bị buộc tội gì và dựa trên những luận cứ buộc tội nào. Từ đó, người bào
chữa có sự chuẩn bị xác đáng để tìm ra những luận điểm gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho người được bào chữa. Thông qua việc thực hiện quyền này, người
bào chữa được chủ động chuẩn bị việc bào chữa và tham gia tranh tụng tại tòa. Ngoài
ra, đọc hồ sơ, tài liệu vụ án còn giúp người bào chữa phát hiện ra những sai lầm, thiếu
sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra. Trên cơ sở đó, người bào chữa kết hợp

×