Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.35 KB, 17 trang )

Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
A – MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết đối với bất cứ một tội phạm nào trong xã hội đều bị
pháp luật trừng trị một cách chính xác và hợp lý. Tuy nhiên vì lý do gì đó đôi khi
người phạm tội bị xử oan, không đúng với mức mà tòa án đã tuyên phạt. Vậy trong
trường hợp này ai sẽ đúng ra thanh minh cho họ?không ai khác đó chính là người
bào chữa, người bào chữa lúc này sẽ phải đưa ra những luận điểm quan trọng làm
bằng chứng để gở tội cho họ, để làm được điều đó không phải là vấn đề đơn giản,
liệu người bào chữa có làm được điều đó hay không?. Vì vạy mà bài học kì lần này
em đã chọn đề tài: “ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong TTHS và việc hoàn
thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào
chữa”.
B – NỘI DUNG
I).Địa vị pháp lý của người của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1 khái niệm về người bào chữa trong TTHS một số nước.
Pháp luật một số nước quy định chỉ luật sư mới có thể làm người bào chữa: vi
dụ theo pháp luạt trung quốc : “ khi một người bị truy tố và đưa ra xét xử, người đó
có quyền tự bào chữa hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư, trong trường hợp công
tố viên truy tố trước tòa án và nếu bị cáo không yêu cầu người bào chữa thì tòa án
phải chỉ định bào chữa cho người đó. Bào chữa viên do tòa án chỉ định là luạt sư
chuyên nghiệp”. Như vậy, theo pháp luật trung quốc, chỉ có luật sư mới thừa nhận
là người bào chữa và được phép thực hiên vai trò này.
Luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga cũng quy định: “ người bào chữa là người
thực hiện bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị tình nghi và bị can, giúp họ về
mặt pháp lý trong quá trình tố tụng với tư cách của người bào chữa, theo quyết của
tòa án bên cạnh luật sư khác theo yêu cầu của bị can có thể được chấp nhận là
người bào chữa”.
Mặc dù quan niệm về người bào chữa ở các nước trên thế giới có những
điểm khác biệt nhưng nhìn chung, có thể chỉ ra những đặc điểm nổi bật về người
1
1


Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
bào chữa: Người bào chữa là người có kiến thức pháp lý, được bị can, bị cáo hoặc
người được pháp luật cho phép để tiến hành hoạt động bào chữa, nhằm mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ,người bị tình nghi,người bị
can, bị cáo.
Có thể thấy vai trò của người bào chữa đã được pháp luật các nước trên thế
giới thừa nhận và ở những mức khác nhau. Trong sự kế thừa và phát triển,pháp luật
tố tụng hình sự việt nam cũng đã có những thay đổi những quy định về người Bò
chữa theo hướng phù hợp hơm để đảm bảo quyền được bào chữa. bộ luật tố tụng
hình sự việt nam đã có thêm một bước tiến mới khi quy định người bào chữa có
quyền tham gia ngay từ khi có quyết định tạm giữ.
2.Khái niệm về người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.1. cơ sở quy định chế định người bào chữa
Quyền bào chữa được xem như là phương tiện pháp lý cần thiết để những chủ
thể được pháp luật choi phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thừa nhận
quyền bào chữa là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng- điều kiện
không thể thiếu được cho việc xét xử khách quan công minh. Càng mở rộng phạm
vi quyền bào chữa bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết quả
tương ứng là càng hạn chế khả năng làm oan sai ngườ vô tội trong xét xử. với ý
nghĩa đó ,BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giam,tạm giữ,bị can bị cáo, là một trong những nguyên tắc đặc thù
của tố tụng hình sự việt nam, quyền bào chữa là một quyền quan trọng của người bị
tạm giam,bị can ,bị cáo trong tố tụng hình sự. các chủ thể này được sử dụng tất cr
những biện pháp mà pháp luật không cấm đẻ chống lại ,bác bỏ, phủ nhận sự buộc
tội của cơi quan điều tra,kiểm sát,hoặc để giảm nhẹ TNHS của mình trong vụ án.
Như vậy, xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo bào quyền bào chữa của người bị tạm
giam, bị can, bị cáo đã hình thành nên chế định người bào chữa trong tố tụng hình
sự.
2.2 Khái niệm địa vị pháp lý người bào chữa
2

2
Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
Hiện nay trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một khái niệm thống
nhất về người bào chữa, một số các tác giả khi nghiên cứu về chế định người bào
chữa đều tụ xây dung khái niệm người bào chữa từ việc nghiên cứu các quy định
của pháp luật về người bào chữa. có quan điểm cho rằng: “ người bào chữa trong tố
tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp
chế XHCN”, cũng có khái niệm ở mức độ khái quát hơn “ nguwowuif bào chữa là
một loại người tham gia tố tụng, có địa vị pháp lý riêng, không phụ thuộc vào địa vị
pháp lý của người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
Một trong những lý do dẫn đến các tác giả đề xuát các khái niệm khác nhau về
người bào chữa là BLTTHS năm 2003 không đưa ra khái niệm cụ thể về người bào
chữa. Những khái niệm trên đây được đúc kết từ sự nghiên cứu về chế định người
bào chữa trong TTHS Việt Nam.
Hệ thông quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể,
quyền và nghĩa vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong tố tunhj hình sự.
Theo đó Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định: người bào chữa có thể là: luật sư,
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam, bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân
dân.
2.3 Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Nói đến người bào chữa, trước hết phải tháy được vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Pháp
luật quy định người bị tạm giam, bị can, bị cáo có quyền bào chữa thông qua việc
tự bào chữa hoặc lựa chọn người bào chữa cho mình. Tuy nhiên, nếu nhìn từ tính
phức tạp của quá trình giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề bào chữa là việc hết sức
khó khăn. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm những vấn đè pháp lý, ví dụ
như hành vi bị truy tố có tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì là tội gì? Bị cáo
có lỗi khi thực hiện hành vi đó hay không? Lỗi cố ý hay vô ý? Chứng cứ của bên

buộc tội có hợp pháp hay không? Việc bắt người, khám nhà có đúng luật hay không
… Người bị tạm giam, tạm giữ,bị can,bị cáo thường là những người không có hoặc
3
3
Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
hạn chế kiến thức về mặt pháp lý, do đó khi họ tự mình thực hiện việc bào chữa sẽ
không có hiệu quả cao. Mặt khác, yếu tố tâm lí cũng ảnh hưởng không ít đến khả
năng tự bào chữa của họ. vì vậy sự hổ trợ phía người bào chữa - thường là những
người có kiến thức pháp lý chuyên sâu, sẽ góp phần tích cực đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giam,tạm giữ, bị can, bị cáo trên thực tế.
Ở khía cạnh khác, sự tham gia của người bào chữa trong TTHS còn góp phần
giải quyết vụ án một cách khách quan, tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư
pháp, đảm bảo pháp chế XHCN. Hoạt động của người bào chữa một mặt bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, bị cáo. Mặt khác, hạn chế sự
chuyên quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, giúp họ nhìn thấy những khuyết
điểm, thiếu xót nếu có, hướng đến yêu cầu “ không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng
không lam oan người vô tội”, thì sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình
sự chính là một trong những phương tiện để bảo đảm thực hiện mục tiêu trên.
Với ý nghĩa xã hội như vậy, địa vị pháp lý người bào chữa trong TTHS ngày
càng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều đó thể hiện tính dân chủ, khách quan
của nhà nước ta trong hoạt đọng TTHS, cũng như tính văn minh, nhân đạo của
pháp luật TTHS Việt Nam.
II) Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của người bào chữa.
a) Những quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền của người bào chữa.
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81,82 của bộ luật TTHS
năm 2003 thì người bào chữa tham gia tố tụng trừ khi có quyết định tạm giữ. Trong
trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì vienj
trưởng viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng vào một trong
ba thời điểm: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khới tố bị can; người bào

chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp phạm tôi quả
tang hoặc đang bị truy nã (Điều 81 BLTTHS), bắt người trong trường hợp khẩn cấp
( Điều 82 BLTTHS năm 2003 ); người bảo chữa tham gia tố tụng khi kết thúc điều
tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia,
theo quyết định của viện trưởng viện kiểm sát.
4
4
Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
Bộ luât TTHS năm 2003 dành khoản 2 Điều 58 để quy định về quyền của người
bào chữa trong tố tụng hình sự.
* Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giam, khi hỏi cung bị cáo
và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bi tạm giam, bị can, bị cáo và có
mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem có biên bản về hoạt đọng tố tụng có
sự tham gia của mình và các quyết định tố tunhj liên quan đến người bào chữa.
Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động
điều tra, việc tham gia này có ý nghĩa giúp ban đầu với người bị tạm giam, bị can,
bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời khai, khi hỏi cung cho người bị
tạm giam,bị can, bị cáo được ổn định về mặt tâm lý hơn khi trả lời cau hỏi của Điều
tra viên. Điều này sẽ giúp hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hoặc thiếu hiểu biết,
người bị tam,tạm giữ, bị can, bị cáo khai không đúng với thực tế vụ án. Sau đó
chính những lời khai đó có thể trở thành chứng cứ buộc tội đối với họ. Ngoài ra với
sự am hiểu pháp luật của mình, người bào chữa còn có thể giúp người bị tạm giam,
bị can, bị cáo nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời khai.
Như vậy, có thể thấy sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động lấy
lời khai, hỏi cung và sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt đọng điều tra
khác góp phần nâng cao chất lượng điều tra xét xử, đảm bảo công bằng và dân chủ
trong pháp luạt TTHS Việt Nam. Bộ luật TTHS năm 2003 quy định cho người bào
chữa quyền này là hoàn toàn hợp lý.
*Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung
bị can để có mặt hỏi cung bị can. Quy định của pháp luạt về quyền của người bào

chữa được có mặt trong khi hỏi cung bị can, bị cáo sẽ không có ý nghĩa nếu không
được thực hiện trên thực tế. Điều này thể hiện ở chổ, mặc dù pháp luật quy định
người bào chữa có quyền này nhưng địa điểm hỏi cung, thời gian hỏi cung lại thuộc
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan điều tra. Người bào chữa vốn chỉ được mời,
hoặc cử sau khi người bị tạm giam, bị can, bị cáo đã bị bắt giữ hoặc bị khởi tố. Do
đó, họ không thể tự mình nắm rõ những thông tin về địa điểm và thời gian hỏi cung
bị can để có thể chủ động cần thiết. Đây là thông tin mà người bào chữa cần được
cung cấp từ phía cơ quan điều tra. Giúp họ có thể kịp thời chuẩn bị và sắp xếp để
5
5
Bài tập học kỳ môn Luật tố tụng hình sự
thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra, theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự bộ luật TTHS năm 2003 đã khắc phục những thiếu sót của bộ luật
TTHS 1988 khi quy định thêm quyền được đề nghị cơ quan điều tra báo trước về
thời gian và địa điểm hỏi cung bị can của người bào chữa. Đây cũng là điểm mới
tiến bộ và hợp lý của bộ luật TTHS năm 2003 so với bộ luật TTHS 1988.
*Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch, theo quy định của bộ luạt TTHS năm 2003. Với mục đích bảo đảm
công bằng khách quan của quá trình giải quyết vụ án, bộ luật TTHS năm 2003 quy
định những trường hợp phải thay đổi hoặc từ chối người tiến hành tố tụng, quyền
người tham gia tố tụng khác nếu có dấu hiệu cho thấy họ có thể không vô tư khách
quan. Người bào chữa nếu xét thấy việc tham gia của người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch có thể không khách quan vô tư, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình, có thể dựa vào những căn cứ luật
định để đề nghị thay đổi những người này.
*Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giam, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không
thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người

bào chữa phải căn cứ vào các chứng cứ, tình tiết có liên quan vụ án, các tài liệu thu
thập được từ phía cơ quan điều tra. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào chứng cứ,tài liệu do
cơ quan điều tra thu thập được, người bào chữa có thể sẽ không nắm được những
tình tiết liên quan đến việc bào chữa, nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác. Điều này tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với vụ án vùa ở mức
độ khái quát hơn, vừa ở có thể chuyên sâu hơn.
*Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; những tài liệu đồ vật nầy thường là
theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa có thể đua
ra những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau như:yêu cầu cơ quan điều
tra bổ sung chứng cứ, yêu cầu triệu tập them người làm chứng, yêu cầu hoãn phiên
tòa….Người bào chữa phải xem xét tính hợp lý và quan trọng là phải có lợi đối với
6
6

×