Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Nghiên cứu xây dựng khung theo dõi, đánh giá kế hoạch năm năm 2011 -2015 ngành công thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.3 KB, 52 trang )


BỘ CÔNG THƯƠNG

VỤ KẾ HOẠCH







BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC




Đề tài:
NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG KHUNG THEO DÕI, ĐÁNH
GIÁ KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015 CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG


















8718


HÀ NỘI, 12/2010
BỘ CÔNG THƯƠNG
VỤ KẾ HOẠCH







ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC



Đề tài:
NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG KHUNG THEO DÕI, ĐÁNH
GIÁ KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015 CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG





CƠ QUAN CHỦ QUẢN
BỘ CÔNG THƯƠNG
54 HAI BÀ TRƯNG - HÀ NỘI
CƠ QUAN CHỦ TRÌ THỰC HIỆN
VỤ KẾ HOẠCH - BỘ CÔNG THƯƠNG
54 HAI BÀ TRƯNG - HÀ NỘI


CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

ThS. NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT










HÀ NỘI, 12/2010

LỜI MỞ ĐẦU

Công tác kế hoạch (từ khâu lập kế hoạch, theo dõi, đánh giá thực hiện
kế hoạch và điều chỉnh) trong những năm vừa qua của ngành công thương tuy
đã có nhiều thay đổi để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhưng vẫn còn gặp nhiều bất cập, đặc biệt trong việc thu thập

số liệu, đánh giá tình hình thực hiện và việc đưa ra các giải pháp can thiệp kịp
thời khi có những biến động trong kỳ kế hoạch. Xuất phát từ những yêu cầu
phải thay đổi phương thức xây dựng, theo dõi và đánh giá việc thực hiện kế
hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được các chuyên gia của ADB hỗ trợ để
nghiên cứu phương pháp theo dõi, đánh giá kế hoạch d
ựa trên kết quả, từ đó
nhân rộng phương pháp này, phổ biến cho các Bộ, UBND các tỉnh, các Sở
học tập và triển khai thực hiện. Cụ thể, ngày 30 tháng 5 năm 2007, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã ký quyết định số 555/2007/QĐ-BKH ban hành Khung
theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 2006-2010. Trên cơ sở Quyết định này, các Bộ, ngành triển
khai xây dự
ng Khung theo dõi, đánh giá của mình và gửi các báo cáo đánh giá
để Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, việc đổi mới công tác kế hoạch, cụ thể là công tác theo dõi và
đánh giá kế hoạch đã được Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) triển
khai mạnh mẽ. Trước yêu cầu đổi mới này, Vụ Kế hoạch đã đề xuất và được
Bộ giao thực hiện Đề tài “Nghiên cứu, xây dựng Khung theo dõi, đánh giá kế
hoạch 5 năm 2011-2015 của ngành công thương”.
Mục tiêu của đề tài là xây dựng khung theo dõi, đánh giá kế hoạch 5
năm 2011-2015 của ngành công thương để có thể căn cứ vào đó đánh giá và
có biện pháp điều chỉnh phù hợp trong quá trình thực hiện.
Phạm vi của đề tài: Xây dựng các chỉ số/chỉ tiêu tổng hợp, mang tính vĩ
mô để đánh giá tình hình phát tri
ển của toàn ngành công nghiệp và thương
mại nói chung và các chỉ số/chỉ tiêu đánh giá tình hình phát triển của 6 ngành
công nghiệp chính là: điện, khai thác và chế biến dầu khí, phân bón, cơ khí,
thép, dệt may và da giày.
Thời gian nghiên cứu: Các chỉ tiêu kế hoạch giai đoạn 2011-2015.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Báo cáo đề tài gồm 3 phần chính sau

đây :
PHẦN 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ KHUNG THEO DÕI, ĐÁNH
GIÁ
PHẦN 2: XÂY DỰNG BỘ CHỈ SỐ THEO DÕI, Đ
ÁNH GIÁ KẾ
HOẠCH 2011-2015 NGÀNH CÔNG THƯƠNG
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Đề tài được xây dựng trên cơ sở kết hợp các phương pháp sau đây:
- Phương pháp tổng hợp (tham khảo, phân tích, tổng hợp, kế thừa
những kết quả đã có).
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp xử lý thống kê, dự báo
Sau đây là nội dung Báo cáo đề tài.

PHẦN 1:
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ KHUNG THEO DÕI, ĐÁNH GIÁ

I. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH VỀ KHUNG THEO
DÕI, ĐÁNH GIÁ
1. Khái niệm về theo dõi
Theo dõi, theo khái niệm của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) đã được chấp nhận rộng rãi là “thu thập dữ liệu một cách có hệ thống
về những chỉ số cụ thể liên quan đến một hoạt động phát triển đang được thực
hiện, để những người quản lý và các đối t
ượng liên quan có được thông tin về
tiến độ thực hiện các mục tiêu đề ra sử dụng nguồn vốn đã được phân bổ”.
Theo dõi thực hiện kế hoạch là quá trình thu thập liên tục các thông tin
về tình hình và tiến độ thực hiện các mục tiêu, chỉ số, chỉ tiêu và định hướng
mà kế hoạch đã đề ra.

Mục đích của theo dõi kế hoạch là cung cấp một cách kịp thời, chính
xác và hợp lý các thông tin về những gì hiện đang xảy ra, qua đó có thể điều
chỉnh kế hoạch và các nguồn lực sao cho phù hợp nhất đối với những đòi hỏi
và cơ hội của tình trạng thực tế. Nó cũng ghi nhận một cách chi tiết những gì
đang xảy ra nhằm phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình
hay cho việc đánh giá trong tương lai.
Theo dõi kế hoạch được th
ực hiện bắt đầu khi khởi động một kế hoạch,
một chương trình, chính sách hoặc dự án. Theo dõi là một quá trình liên tục,
nó đo lường tiến độ thực hiện mục tiêu.
Việc theo dõi các kết quả thực hiện kế hoạch phát triển, chính sách
hoặc chương trình một cách liên tục có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các
nhà quản lý.
• Có hai hình thức theo dõi là:
- Theo dõi mức độ tuân thủ (theo dõi quá trình): để
đảm bảo rằng các
hành động đã dự kiến phải được thực hiện
- Theo dõi tác động: để đo lường tác động của một vài hoạt động đối
với việc đạt được mục tiêu đã đề ra
2. Khái niệm đánh giá
Đánh giá là một quá trình tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống
một dự án, một chương trình, hay một kế hoạch phát triển đang được thực
hiện hoặc đã kết thúc, bao gồm đánh giá từ việc lập kế hoạch, thiết kế chương
trình, dự án đến quá trình thực hiện và kết quả của kế hoạch, chương trình, dự
án hay chính sách.

Đánh giá là nhận định có phân tích nêu lên kết quả của kế hoạch, là
việc xem xét có hệ thống nhưng định kỳ và khách quan một kế hoạch đang
thực hiện hoặc đã kết thúc thực hiện và các kết quả của chú.
Đánh giá kế hoạch là quá trình tổng hợp, phân tích một cách có hệ

thống từ khi lập kế hoạch, xây dựng các chính sách đến quá trình triển khai
thực hiện và kết quả thực hi
ện kế hoạch.
Đánh giá nhằm mục đích xác định tính phù hợp và mức độ đạt được
các mục tiêu, hiệu quả phát triển, hiệu suất sử dụng nguồn lực, hiệu quả, tác
động và tính bền vững. Đánh giá cũng nhằm cung cấp các thông tin và bài
học giúp cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra các quyết định về các dự
án, chương trình hay các chính sách có hiệu quả.
Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống về
thực hiện một kế hoạch,
một chương trình, một chính sách để đưa ra đánh giá về tiến độ, sự liên quan
những thành công và những tồn tại hạn chế, hiệu quả chi phí…
Đánh giá là việc sử dụng thông tin có được từ quá trình theo dõi để
phân tích các kế hoạch, chương trình và các dự án để xác định liệu có cần sự
thay đổi hay điều chỉnh không. Trong bước thực thi kế hoạch, đánh giá
được
sử dụng để xác định các họat động có đáp ứng các mục tiêu kế hoạch một
cách có hiệu quả và hiệu lực hay không.
Nhiệm vụ của đánh giá là đi xa hơn theo dõi một bước, vì nó là quy
trình phản ánh về những gì đã và đang xảy ra. Thực hiện công tác đánh giá để
đánh giá chung về thực hiện kế hoạch và để đánh giá những thành công và
chưa đủ của chủ tr
ương, chính sách hoặc một chương trình, một kế hoạch. Nó
không chỉ ra giá trị thực của những gì đã thực hiện mà còn đưa ra những lựa
chọn trong tương lai về chiến lược và những ưu tiên cho việc tiếp tục quá
trình phát triển.
3. Mối quan hệ giữa theo dõi và đánh giá
Đánh giá và theo dõi có quan hệ mật thiết với nhau, theo dõi đưa ra các
thông tin về tiến độ thực hiện của một kế hoạ
ch, một chính sách, chương trình

hay dự án tại bất kỳ thời điểm nào cùng với các chỉ tiêu phấn đấu và kết quả
tương ứng. Báo cáo theo dõi chỉ mang tính mô tả. Đánh giá cung cấp những
bằng chứng về và phân tích về việc tại sao các chỉ tiêu phấn đấu và kết quả dự
kiến đạt được hoặc không đạt được. Đánh giá cho thấy rõ các nguyên nhân và
đây là vấn đề quan trọng, đưa ra những v
ấn đề cần làm những gì…
Đánh giá cũng hỗ trợ cho công tác theo dõi và việc theo dõi phục vụ
cho công tác đánh giá, mặc dù chức năng thực hiện của 2 nhiệm vụ này là
khác nhau. Đánh giá nâng cao hiệu quả của công tác theo dõi: khi một hệ
thống theo dõi cho chúng ta biết các tín hiệu về các nỗ lực đang thực hiện là
không đúng. Cần phải có các thông tin đánh giá trong suốt quá trình thực hiện
kế hoạch chứ không phải để đến khi hoàn thành xong k
ế hoạch, để kịp thời

phát hiện ra các điểm không phù hợp, các điểm hạn chế và xác định được các
nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế này.
Theo dõi và đánh giá có chức năng khác nhau nhưng bổ sung cho nhau,
cái nọ củng cố cho cái kia. Theo dõi là một chức năng liên tục, sử dụng việc
thu thập dữ liệu về các chỉ số đã xác định nhằm giúp cho ngưới quản lý và các
bên có liên quan chính thấy được mức độ tiến bộ
và thành tựu đạt được của
các mục tiêu cũng như tiến triển trong sử dụng nguồn vốn phân bổ của một
biện pháp can thiệp phát triển đang diễn ra. Đánh giá là việc đánh giá hệ
thống và có mục tiêu một kế hoạch, dự án, chương trình hoặc chính sách đang
được thực hiện hoặc đã kết thúc, thiết kế, thực hiện và kết quả nhằm mục đ
ích
xác định tính phù hợp và thực hiện mục tiêu, hiệu quả phát triển, hiệu lực, tác
động và tính bền vững của nó.
Công tác theo dõi và đánh giá bổ trợ cho nhau trên nhiều phương diện
như: sự bổ trợ có tính tuần tự, từ các thông tin theo dõi có thể tạo ra các câu

hỏi mà đánh giá sẽ trả lời hoặc ngược lại thông tin đánh giá có thể nay sinh
các lĩnh vực mới cần theo dõi. Sự bổ trợ về thông tin, tứ
c là cả cả hai quá
trình theo dõi và đánh giá cùng sử dụng một thông tin nhưng đặt ra các câu
hỏi khác nhau và phân tích khác nhau. Sự bổ trợ tương tác là các nhà quản lý
sử dụng song song theo dõi và đánh giá để hỗ trợ các hoạt động quản lý của
họ.
Trong khi theo dõi báo cáo tiến độ thực hiện kế hoạch, chương trình,
dự án đang triển khai thì công tác đánh giá là phân tích tại sao đạt được hoặc
không đạt được các kết quả dự tính. Theo dõi sự gắ
n kết các hoạt động và
nguồn lực với các mục tiêu thì đánh giá những đóng góp từ các hoạt động vào
kết quả đạt được…

Bảng 1: Tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa công tác theo dõi đánh giá

Theo Dõi Đánh Giá
- Báo cáo tiến độ thực hiện kế hoạch
đang triển khai về sự thay đổi các
mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch.
- Phân tích nguyên nhân tại sao các kết
quả đạt được hay không đạt được như
các kết quả đã dự tính.
- Sự gắn kết các hoạt động và nguồn
lực với mục tiêu đặt ra
- Đánh giá những đóng góp từ các hoạt
động vào kết quả đạt được.
- Xác định các chỉ số, chỉ tiêu có liên
quan đến các chỉ tiêu đặt ra
- Phân tích và nghiên cứu các kết quả

ngoài ý muốn thông qua việc tổng hợp,
phân tích các cuộc điều tra là chủ yếu
Định kỳ báo cáo với lãnh đạo Đảng,
chính quyền, cơ quan, cảnh báo khả
năng thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu
và những vấn đề tồn tại
Rút ra bài học kinh nghiệm nêu lên
những kết quả quan trọng hoặc các tiềm
năng của kế hoạch, đưa ra những kiến
nghị về cải tiến kế hoạch sau.

Theo Dõi Đánh Giá
- Theo dõi xem xét quá trình thực
hiện thông qua so sánh và phân tích
số liệu theo thời gian
- Đánh giá việc đạt được các mục tiêu đề
ra bằng cách so sánh các chỉ tiêu đề ra
bằng cách so sánh các chỉ số trước và
sau khi có hoạt động
- Theo dõi được thực hiện liên tục và
có hệ thống
- Thực hiện định kỳ như đánh giá giữa
kỳ, đánh giá cuối kỳ hay đánh giá tác
động
- Được thực hiện bởi các cơ quan
quản lý, kế hoạch và các bên có liên
quan
Các chuyên gia đánh giá độc lập chuyên
sâu bên ngoài


4. Khái niệm về chỉ số, chỉ tiêu
Chỉ số là một thước đo để đo lường các tiến bộ đạt được trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Chỉ số là biến số định tính hoặc định lượng, cho ta
các phương tiện đơn giản để đo lường kết quả hoạt động, phản ánh được các
thay đổi liên quan tới một biện pháp can thiệp và hỗ trợ
cho công tác theo dõi
và đánh giá. Chỉ số bao gồm: Chỉ số đầu vào, chỉ số đầu ra, chỉ số kết quả.
Chỉ số là nhân tố hoặc biến số định lượng hoặc định tính đóng vai trò là
phương tiên đơn giản và tin cậy để đo lường thành quả, phản ánh những thay
đổi liên quan đến một can thiệp phát triển hoặc giúp đánh giá tình hình phát
triển.
Chỉ tiêu là lượng hoá của chỉ
số, thể hiện các mục tiêu cụ thể cần đạt
được trong khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu là “… một mục tiêu cụ thể
được biểu hiện bằng con số, thời điểm và địa điểm mà con số đó được thực
hiện”. Về bản chất chỉ tiêu là giá trị định lượng của một chỉ số mà tổ chức,
quốc gia hay xã hội mu
ốn đạt tới trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ
tiêu được đo lường mỗi năm hoặc vào thời điểm cuối của một kế hoạch.
5. Khung theo dõi và đánh giá
Khung theo dõi và đánh giá là một công cụ quản lý ma trận được sử
dụng để phân loại trật tự logic của một chuỗi các sự kiện theo thứ tự và là
công cụ phân tích trong thực hiện kế hoạch.
Khung theo dõi và đánh giá tóm tắt hệ thống theo dõi và đánh giá được
lập trong giai đoạn xây dựng kế hoạch. Về bản chất, khung theo dõi, đánh giá
được xây dựng trên cơ sở khung logic
1
gắn kết giữa các chỉ tiêu, chỉ số đầu

1

Khung logic xác định các yếu tố chiến lược (đầu vào, đầu ra, kết quả, mục tiêu, mục đích) và các mối quan
hệ nhân quả của chúng, các chỉ số và các giả định hoặc rủi ro có thể ảnh hưởng đến sự thành công hay thất
bại, do đó sẽ tạo điều kiện cho công tác lập kế hoạch, thực thi, theo dõi và đánh giá kế hoạch.

vào, đầu ra và các chỉ số kết quả hay tác động, là sự lồng ghép các thành phần
then chốt của theo dõi và đánh giá kế hoạch.
Khung theo dõi và đánh giá là một bản mô tả các câu hỏi hoạt động,
những yêu cầu thu thập thông tin (bao gồm cả các chỉ số) các công tác phản
ánh và rà soát với những cơ quan tham gia, các nguồn lực, các hoạt động cần
thiết để vận hành hệ thống theo dõi kế hoạch.



Bảng 2: Mẫu khung theo dõi và đánh giá


Chỉ số, chỉ tiêu
Cơ quan thực hiện
theo dõi đánh giá và
báo cáo đối với:
Mục tiêu
Hoạt động,
đầu vào
Đầu ra Kết quả, tác động Đầu ra
Kết quả,
tác động
1 2 3 4 5 6







Khung theo dõi đánh giá phải được xây dựng một cách hệ thống, các
tiêu chí và nội dung theo dõi phải đo lường được và phải dễ hiểu và các bên
có liên quan nhất trí tán thành. Khung theo dõi và đánh giá cần phải xác định
được tối thiểu những nội dung sau:
- Lĩnh vực ưu tiên và khu vực kết quả then chốt
- Chương trình can thiệp đối với khu vực kết quả then chốt
- Kết quả mong muốn của ch
ương trình
- Chỉ số thực hiện then chốt đối với kết quả
- Cơ sở dữ liệu ban đầu cho chỉ số then chốt
- Chỉ số then chốt cho từng giai đoạn, từng năm
- Chủ thể chính sẽ chỉ đạo/điều phối chương trình

- Sự đóng góp của các tiểu ngành vào kết quả chung của kế hoạch.
II. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA VIỆC THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ
Công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với các nhà quản lý, các cơ quan tổ chức, cung cấp các thông tin phản hồi,
đo lường việc thực hiện đang diễn ra và đánh giá định kỳ sự tiến bộ đạt được
của kế hoạch đ
ã định ra công cụ chính xuyên suốt trong quy trình này. Đo
lường việc thực hiện và đánh giá giúp hiểu rõ hơn những gì đã đạt được, từ đó
kịp thời điều chỉnh các mục tiêu, các hoạt động để đạt được các kết quả đã
định.
Việc xây dựng hệ thống theo dõi và đánh giá sẽ giúp cho các nhà hoạch
định kế hoạch tiến thêm một bước nữa trên con đường đánh giá
đó là các mục
tiêu đạt ra đã đạt được chưa và làm sao, làm thế nào có thể thực hiện kế hoạch

đạt được mục tiêu này một cách có hiệu quả cao nhất.
Hệ thống theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch cho ta biết
được những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và biết được các nguyên
nhân gây nên.
Giúp cho lãnh đạo, chỉ đạo điều hành biết được tiế
n độ thực hiện các
mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch, từ đó xác định được kế hoạch có đạt được
như mong muốn không? Cung cấp các cơ sở, luận chứng rõ ràng cho việc đưa
ra quyết định đúng đắn hay điều chỉnh các quyết định theo hướng tích cực
hơn.
Mặt khác việc theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch bao gồm
cả một quá trình t
ừ các yếu tố đầu vào, đầu ra hay các tác động, mục tiêu cuối
cùng có thể đạt được của kế hoạch phát triển đã đề ra. Tìm ra các nguyên
nhân, các nhân tố, các giải pháp làm cho mục tiêu chỉ tiêu đề ra đã đạt được
hoặc chưa đạt được
Công tác theo dõi, đánh giá sẽ cung cấp các thông tin liên tục về tình
hình thực hiện các chỉ tiêu đã được đề ra trong kế hoạch về sự thay đổi, mức
độ thay đổi, ti
ến triển, giúp phát hiện các thay đổi bên ngoài ý muốn. Nếu
không thực hiện việc theo dõi, đánh giá hoặc không được tiến hành thường
xuyên, thiếu hệ thống về tình hình thực hiện kế hoạch, chương trình dự án,
các nhà quản lý, các đối tượng liên quan khó có thể có các số liệu chính xác
về việc thực hiện và không thể biết được các chương trình, dự án… có những
vấn đề gì, tình hình chuyển biến đến đâu. Tất cả thông tin thu th
ập được từ
việc theo dõi có thể giúp cho các nhà quản lý, các đối tượng nắm bắt được
tình hình rõ ràng và cụ thể hơn.
Công tác đánh giá và quá trình đánh giá một kế hoạch phát triển, chính
sách hoặc một chương trình dự án đang diễn ra hoặc đã hoàn thành để xác

định mức độ phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, tác động và khả năng duy trì nó. Từ
việc đánh giá này chúng ta sẽ rút ra bài học để phục vụ cho quá trình quy
ết
định các kế hoạch, chính sách, chương trình mới.

Các thông tin được theo dõi chỉ cung cấp các tình hình số liệu, không
phản ánh được nguyên nhân, kết quả, các tồn tại cũng như điểm mạnh, điểm
yếu trong việc lập kế hoạch, chương trình, dự án. Do vậy, từ các thông tin đã
có, việc đánh giá các thông tin có được là hết sức cần thiết.
Theo dõi và đánh giá là thước đo về các tiến bộ nhằm đạt được mục
tiêu đã được đề
ra trong kế hoạch. Hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết
quả sẽ cung cấp những thông tin phản hồi về các kết quả.
Hoạt động theo dõi, đánh giá sẽ cung cấp cho các nhà quản lý và các tổ
chức những cách thức để nắm được kết quả thực hiện và kinh nghiệm trong
việc thực hiện kế hoạch nhằm cải thiện việc cung cấp dịch vụ công, phân bổ
nguồ
n lực hiệu quả hơn và báo cáo các kết quả đạt được như là một phần
trong trách nhiệm giải trình trước các đối tượng có liên quan.
Hệ thống theo dõi và đánh giá là một trong những công cụ quản lý
quan trọng để cải thiện các hoạt động của các cơ quan nhà nước và các bên
hữu quan biết được các cơ quan thực hiện đúng lời hứa của mình chưa. Các
thông tin do công tác đánh giá cung cấp các bằng chứng cho công chúng thấ
y
được tính minh bạch về cách sử dụng nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội
và sự nỗ lực trong việc cải cách có kết quả hay không, mức độ đạt được của
các chương trình, chính sách cũng như các chỉ tiêu đề ra trong bản kế hoạch
đến đâu.
III. CÁC BƯỚC XÂY DỰNG HỆ THỐNG THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ
KẾ HOẠCH DỰA TRÊN KẾT QUẢ

1. Đánh giá mức độ sẵn sàng thực hiệ
n theo dõi và đánh giá dựa
trên kết quả
Bước đầu tiên trong việc thực hiện hoặc xây dựng hệ thống theo dõi
và đánh giá là đánh giá mức độ sẵn sàng và năng lực thực hiện việc theo dõi
đánh giá dựa trên kết quả của tổ chức.
Khi đánh giá mức độ sẵn sàng cần cân nhắc các điểm sau:
+ Liệu nhu cầu và động cơ khuyến khích áp dụng hệ thống theo dõi và
đánh giá đ
ã đầy đủ chưa?
+ Trách nhiệm và việc tổ chức thực hiện đánh giá hoạt động của chính
phủ/địa phương/đơn vị như thế nào?
+ Năng lực hiện hành: công nghệ, nguồn tài chính, hệ thống dữ liệu, kỹ
năng quản lý và kỹ thuật ra sao?
+ Xem xét các nhà lãnh đạo cấp cao, người đứng đầu đã sẵn sàng áp
dụng và có thể hiện quyết tâm cao đối với công tác theo dõi và
đánh giá dựa
trên kết quả?
Đánh giá mức độ sẵn sàng là việc xem xét năng lực hiện hành có đáp
ứng các yêu cầu đặt ra cho việc xây dựng và vận hành hệ thống theo dõi và

đánh giá, để từ đó xem xét việc xây dựng hoặc nâng cao năng lực theo dõi và
đánh giá (Năng lực được hiểu là “khả năng các cá nhân hay tổ chức thực hiện
các chức năng một cách có hiệu suất, hiệu quả và bền vững”). Một yếu tố đặc
biệt quan trọng của hệ thống theo dõi và đánh giá là phải có được những cán
bộ giỏi, có trình độ, được đào tạo bài bản,
để họ có thể hoàn thành các chức
năng và nhiệm vụ theo dõi và đánh giá. Vì vậy để xây dựng năng lực theo dõi
và đánh giá, cần bắt đầu bằng việc xây dựng kế hoạch đào tạo về theo dõi và
đánh giá cho tất cả các đối tượng liên quan.

Một khía cạnh quan trọng trong việc thiết lập hệ thống theo dõi và đánh
giá là đầu tư xây dựng năng lực có sự tham gia của cộng đồng và các đố
i
tượng có liên quan khác, điều này là rất quan trọng đối với việc vận hành
thành công việc theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả. Do vậy, cần có sự phối
hợp chặt chẽ với các đơn vị cơ sở và phải thu hút được sự quan tâm của đông
đảo công chúng đối với việc đo lường các hoạt động
Hơn nữa, phải đánh giá nhu cầu tài chính để thiết lập hệ th
ống theo dõi
và đánh giá. Nguồn lực cần thiết bao gồm nhân sự, nguồn lực để hỗ trợ hệ
thống quản lý thông tin, đào tạo…
2. Thiết kế bản kế hoạch để theo dõi và đánh giá lựa chọn mục tiêu,
kết quả, đầu ra và đầu vào
- Các mục tiêu trong bản kế hoạch phải được xây dựng rõ ràng và cụ
thể, từ đó định hướng được nhu cầu đầ
u tư và dự kiến kết quả đạt được, xác
định được mục tiêu cuối cùng muốn đạt tới là gì và khi đó công tác theo dõi
dõi và đánh giá được thuận lợi.
- Các mục tiêu trong kế hoạch phải được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên
- Các mục tiêu trong kế hoạch phải được sắp xếp theo một thứ bậc, đảm
bảo rằng các mục tiêu này được sắp xếp ư
u tiên ở mỗi cấp độ nhất định.
- Dùng khung logic để kết nối giữa các mục tiêu và các hoạt động: Sau
khi đã xác định các mục tiêu ưu tiên, việc kết nối các mục tiêu và các hoạt
động trong một bản kế hoạch là hết sức cần thiết. Bản kế hoạch cần phải có sự
liên kết giữa các vấn đề để thể hiện được tính logic. Sự kết nố
i giữa các mục
tiêu và các hoạt động trong một bản kế hoạch càn được xây dựng theo một
khung logic.
Khung logic xác định các yếu tố chiến lược (đầu vào, đầu ra, kết quả,

mục tiêu, mục đích) và các mối quan hệ nhân quả của chúng, các chỉ số và
các giả định hoặc rủi ro có thể ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại, do
đó sẽ tạo điều kiện cho công tác lập kế
hoạch, thực thi, theo dõi và đánh giá
kế hoạch.
Khung logic là một công cụ để truyền đạt các thông tin quan trọng
chính của một bản kế hoạch hoặc một dự án thông qua chu trình lập kế hoạch.
Khung logic thường được sử dụng để thiết kế tổng thể bản kế hoạch để cải
thiện việc theo dõi và tăng cường việc theo dõi và đánh giá kế hoạch theo

định kỳ. Thực chất, khung logic là khung “nguyên nhân và kết quả” với một
chuỗi các hoạt động được thể hiện các tác động mong muốn đối với những
người hưởng lợi. Một khung logic thường gặp bao gồm các mục tiêu tổng thể
chính, các kết cục hoặc kết quả mong muốn và các chương trình hoặc các
hoạt động cần thực hiện để đạt kết quả. Khung logic cung cấp một n
ền tảng
cho việc xác định thước đo kết quả thực hiện và hỗ trợ quá trình ra quyết định
cũng là cơ sở cho việc lập các báo cáo.
Thiết kế Khung logic bao gồm các bước sau:
Bước thứ nhất, cần xác định xem kế hoạch sẽ được xây dựng cho cấp
nào và xác định các mục tiêu.
Bước thứ hai, xác định các kết cục/kết quả cụ thể.
Bước th
ứ ba, lập kế hoạch về các đầu ra cần thiết và đầu vào tương
ứng cần thực hiện để đạt được kết cục dự định.
(Xem hình 1)
Khi lập kế hoạch, cần phải bắt đầu từ các mục tiêu tồng quát và xem
xét những hoạt động gì là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó.
Sau khi xây dựng được các mục tiêu thứ bậc trong bản kế ho
ạch, cũng

như xác định được các kết quả cuối cùng, bắt đầu xây dựng khung theo dõi và
đánh giá.
Quá trình thực hiện công tác theo dõi và đánh giá được bắt đầu cùng
với sự khởi động các chương trình hoặc các hoạt động và xác định các chỉ số
đo lường các kết quả và tác động. Theo cách đó, các cấp độ khác nhau sẽ mô
tả những gì diễn ra tại các thời điểm khác nhau trong suôt quá trình thực hiện
kế ho
ạch. Các hoạt động trong bản kế hoạch sẽ đưa ra được những đầu ra nhất
định, từ đó sẽ xác định được các kết quả mong muốn sau một thời gian nhất
định phù hợp với mục tiêu đề ra.
Các hoạt động thường diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn trong
khi các mục tiêu lại chỉ có thể đạt được sau một quãng thời gian dài. Việc
theo dõi và đánh giá sẽ được th
ực hiện trong suốt thời gian thực hiện kế hoạch






Hình 1: Khái niềm về mục tiên, kết quả, đầu ra, đầu vào



3. Lựa chọn các chỉ số then chốt để theo dõi và đánh giá kết quả và
tác động
Như đã nêu ở trên, chỉ số là một thước đo để đo lường các tiến bộ đã
đạt được. Chỉ số là biến số định tính hoặc định lượng, cho ta các phương tiện
đơn giản để đo lường kết quả hoạt động, phản ánh được các thay đổi liên quan
tới một biện pháp can thiệp và hỗ trợ cho công tác theo dõi và đánh giá.

Mục tiêu
¾ Các mục tiêu phát triển của một nước (xu thế hiện nay thường quan tâm
đến vấn đề tăng trưởng và giảm nghèo)
¾ Các mục tiêu liên quan đến nhiều lĩnh vực
¾ Đặt ra cho một thời gian dài
¾ Với mỗi mục tiêu chính, sẽ có thể có nhiều mục tiêu chi tiết và cụ thể
Ví dụ: trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm có 4 mục tiêu chính:
tăng trưởng kinh tế; cải thi
ện đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của
nhân dân; bảo vệ tài nguyên môi trường; tăng cường quản lý và điều
hành nhà nước

Kết
quả/Kết
c

c
Xuất phát từ các mục tiêu chính
Gán kết trực tiếp với các chương trình hoặc chính sách cần theo dõi
Ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của các cán bộ hoặc các cơ quan chính phủ
Có thể là kết quẩ của nhiều nhân tố bên ngoài
Ví dụ: Với mục tiêu giảm nghèo nông thôn, kết quả sẽ là “tăng thu
nhập
cho người nông dân”
Đầu ra
¾ Các hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp từ các
chính sách hoặc chương trình
¾ Không như các kết quả, đầu ra chịu sự kiểm soát trực tiếp từ các cơ
quan cung cấp
Ví d


: “
s

nôn
g
dân đư

c đào t

o v

s

d

n
g
côn
g
n
g
h

mới”
Đầu vào
¾ Nguồn lực được đưa vào
Ví dụ: Với mục tiêu giảm nghèo nông thôn, sẽ thực hiện chính sách “tăng chi
cho chương trình đào tạo cho nông dân”


Chỉ số cần được xây dựng cho mọi cấp của hệ thống theo dõi, đánh giá,
có nghĩa là các chỉ số là hết sức cần thiết để giám sát tiến triển trên phương
diện đầu vào, hoạt động, đầu ra, kết quả và tác động đạt được mục tiêu.
Mỗi mục tiêu cần ứng với ít nhất một chỉ số đầu vào, đầu ra và một chỉ
số kết qu
ả, tác động. Đồng thời các chỉ số đầu vào, đầu ra và kết quả, tác động
phải được gắn kết với nhau để tạo thành một chuỗi logic các kết quả. Một hệ
thống chỉ số gắn kết với từng mục tiêu có thể theo dõi và đánh giá rõ ràng
được toàn bộ tiến trình thực hiện. Do vậy, cần phải chú ý đặc biệt xác định
các chỉ số để đo ti
ến triển của đầu vào, hoạt động, đầu ra và kết quả gắng với
mục tiêu. Các chỉ số này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông
tin phản hồi cần thiết cho hệ thống quản lý. Thông qua việc theo dõi các chỉ
số này sẽ giúp các nhà quản lý tìm ra các bộ phận của tổ chức đã đạt được
hoặc không đạt được các kết quả như dự tính. Bằng cách đo các chỉ số thành
tích m
ột cách thường xuyên, các nhà quản lý, các nhà hoạch định kế hoạch có
thể biết được liệu kế hoạch đã đi dúng hướng chưa, chệch hướng hay thậm chí
tôt hơn dự kiến. Thông qua đó sẽ có cơ hội để điều chỉnh, thay đổi mục tiêu
kế hoạch (nếu cần), cũng như thu nhập các kinh nghiệm và kiến thức quý bàu
về việc thực hiện kế hoạ
ch. Qua đó, sẽ tăng khả năng đạt được các kết quả.
Tiến hành lựa chọn các chỉ số phải tiến hành theo mối quan tâm của các
bên hữu quan. Các nhà quản lý sẽ quyết định việc lồng ghép lợi ích của các
bên hữu quan vào trong các chỉ số kết quả hoạt động tốt và hữu dụng. Do vậy
các kết quả mong muốn cần được chia nhỏ để đảm bảo rằng các ch
ỉ số phù
hợp với mối quan tâm của nhiều bên liên quan, chứ không phải chỉ phù hợp
với một bên hữu quan duy nhất. Ngoài ra các chỉ số lựa chọn cũng phải phù
hợp với các nhà quản lý, bởi vị trọng tâm của các hệ thống này phản ánh kết

quả hoạt động và quá trình cải thiện chúng.
Như vậy, có thể thấy việc xác định chỉ số không chỉ tìm ra các chỉ số
theo yêu cầu của các bên hữu quan. Việc lựa chọn chỉ số là một quá trình
phức tạp hài hòa giữa quyền lợi của tất cả các bên hữu quan. Tuy nhiên ở mức
tối thiểu, cần phải xác định được các chỉ số đo lường trực tiếp kết quả mong
muốn.
4. Kiểm tra xem các chỉ số có đáp ứng tiêu chuẩn SMART hoặc
CREAM
Để đảm bảo lựa chọn chính xác các chỉ
số tốt phản ánh kết quả hoạt
động, các nhà thực hành đã đưa ra một số các tiêu chuẩn có thể áp dụng. Các
tiêu chuẩn này được viết tắt thành cụm từ SMART hoặc CREAM, về ý nghĩa
cụm từ này là tương đối giống nhau.





Bảng 3: Tiêu chuẩn SMART/CREAM trong lựa chọn các chỉ số

TIÊU CHUẨN SMART TIÊU CHUẨN CREAM
Specific (cụ thể) Không nên mơ hồ và
chung chung
Clear (rõ
ràng)
Chính xác và không mập
mờ
Measurable (có
thể đo đếm được)
Có thể đo đếm được,

ít nhất cũng quan sát
được.
Relevant (phù
hợp)
Phù hợp với đối tượng
đang xem xét
Adequate (thỏa
đáng, có thể đạt
được)
Có thể đạt được,
không quá tốn kém
để đo lường
Economcic
(tiết kiệm)
Có được với chi phí phải
chăng
Relevant (phù hợp

Phù hợp với mục tiêu
Adequate
(thỏa đáng, có
thể đạt được)
Có thể đạt được


Time bound (có
mốc thời gian cụ
thể)
Khả thi trong kỳ kế
hoạch

Monitorable
(theo dõi
được)
Thuận tiện cho việc kiểm
chứng độc lập

Nếu một trong năm tiêu chuẩn trên mà không thỏa mãn thì các chỉ số
lựa chọn sẽ có tính khả thi không cao, khó thực hiện thành công việc theo dõi
và đánh giá dựa trên kết quả.
- Các chỉ số hoạt động tốt cần phải:
+ Rõ ràng, trực tiếp và không mập mờ tới mức cao nhất có thể được.
+ Đo đếm được hoặc ít nhất cũng quan sát được, các chỉ số có thể định
tính hoặc đị
nh lượng. Các chỉ số định lượng cần phải được báo cáo thành các
con số cụ thể (số lượng, giá trị trung bình, trung vị) dưới dạng giá trị tuyệt đối
hay số phần trăm, các chỉ số định tính hàm ý cách tính giá định tính
Các chỉ số định tính cho chúng ta biết về sự thay đổi trong quá trình
thực hiện thể chế, thái độ, chính kiến, động cơ và hành vi của các cá nhân.
Chỉ số định tính có thể đ
o sự nhận biết như mức độ hài hòa của dân chúng đối
với các chính sách Chính phủ đưa ra.
+ Có thể theo dõi được (tốt hơn nếu đã được theo dõi), và theo dõi
thường xuyên, không quá tốn kém về chi phí theo dõi. Cần đặc biệt chú trọng
bởi có quá nhiều chỉ số mà chi phí thu thập quá cao, sẽ dẫn đến không thể
theo dõi được.
+ Phù hợp - nghĩa là chỉ số đo lường các nhân tố phản ánh các mục
tiêu. Điều này nhằ
m đảm bảo mối gắn kết rõ rang giữa các mục tiêu và chỉ số.

5. Xác định các số liệu ban đầu

Sau khi đã lựa chọn các chỉ số sẽ phải xác định giá trị định lượng cho
các chỉ tiêu trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng các số liệu ban đầu hoặc tình trạng
ban đầu và dự báo các xu thế tăng giảm trong tương lai.
Xác định các số liệu ban đầu hay tình trạng ban đầu để làm cơ sở cho
việc theo dõi, đánh giá và dùng để đo thành tích trong tương lai. Số liệu tình
tr
ạng ban đầu là thông tin định tính hoặc định lượng, cung cấp số liệu tại thời
điểm bắt đầu hoặc ngay trước giai đoạn theo dõi. Kỳ gốc của các chỉ số ban
đầu là cấp độ kết quả được đưa ra ở thời điểm bắt đầu, là một điểm xuất phát
cho việc đánh giá các thay đổi trong thực hiện và lập ra các mục tiêu hay chỉ
tiêu cho kế
t quả thực hiện trong tương lai. Kỳ gốc là các số đo đầu tiên của
các chỉ số.
Khi thu thập thông tin số liệu ban đầu hay tình trạng ban đầu cho từng
chỉ số, chúng ta cần trả lời 8 câu hỏi cơ bản, đó là:
(1) Nguồn số liệu lấy từ đâu?
(2) Các phương pháp thu thập số liệu là gì?
(3) Ai sẽ thu thập số liệu?
(4) Số
liệu phải được thu thập với mức độ thường xuyên như thế nào?
(5) Mức độ khó khăn và chi phí của việc thu thập số liệu?
(6) Ai sẽ phân tích số liệu?
(7) Ai sẽ báo cáo số liệu?
(8) Ai sẽ sử dụng số liệu?
Như vậy, với mỗi chỉ số chúng ta phải hoàn thành các bước dưới đây:


Bảng 4: Thu thập thông tin tình trạng ban đầu
Chỉ số Nguồn
dữ liệu

Phương
pháp
thu
thập số
liệu
Ai thu
thập
số liệu
Mức
độ
thường
xuyên
của
việc
thu
thập số
liệu
Chi
phí và
khó
khăn
khi thu
thập
Ai sẽ
phân
tích số
liệu
Ai sẽ
báo
cáo số

liệu
Ai sẽ
sử
dụng
số liệu
1.
2.

Các chỉ số kết quả được lựa chọn và phương thức thu nhập số liệu để
theo dõi các chỉ số này phải được dựa trên thực tế hệ thống số liệu hiện có,
các thông tin hiện được cung cấp và năng lực hiện có để mở rộng theo chiều
rộng và chiều sâu của công tác thu nhập và phân tích số liệu.
6. Lựa chọn các chỉ tiêu phản ánh kết quả
Lự
a chọn các chỉ tiêu phản ánh kết quả để xác ddingj mức độ mong
muốn và mức độ kì vọng của kế hoạch, đòi hỏi phải lựa chọn các chỉ tiêu cụ
thể.
Chỉ tiêu là một mục tiêu cụ thể được biểu hiện bằng con số, thời điểm
và địa điểm mà con số đó được thực hiện. Về bản chất chỉ
tiêu là giá trị định
lượng của một chỉ số mà tổ chức, quốc gia hay xã hội muốn đạt tới trong một
khoảng thời gian nhất định.

Hình 2: Xác định các chỉ tiêu kết quả
Mức chỉ số gốc +
Mức cải thiện
mong muốn
(giả định có
được các đầu
vào, hoạt động

đầu ra như dự
kiến)
=
Kết quả hoạt
động theo chỉ
tiêu (Mức kết
quả hoạt đọng
mong muốn cần
đạt đến trong
một khoảng thời
gian nhất định)

Một phương pháp để thiết lập các chỉ tiêu là xem xét mức độ tình trạng
ban đầu và đưa vào các mức cải thiện mong muốn (trên cơ sở nguồn lực xác
định) để đạt tới các chỉ tiêu kết quả. Với quá trình này, chúng ta sẽ biết điểm
bắt đầu và nguồn lực sẵn có để thực hiện các chỉ tiêu trong khoảng thời gian
cụ thể. Điều này cho chúng ta viết chỉ tiêu v
ề kết quả hoạt động.
Hình 2 trên biểu thị quá trình tìm ra các chỉ tiêu về kết quả hoạt động.
7. Xác định nguồn dữ liệu phân công trách nhiệm thu thập, tần
suất thu thập dữ liệu
Việc thu thập các chỉ số kết quả sẽ cần trả lời câu hỏi dưới đây trước
khi lựa chọn nguồn dữ liệu cụ thể:
¾ Những nguồ
n dữ liệu nào là tốt nhất cho các loại chỉ số các nhau
¾ Cơ quan nào sẽ thu thập dữ liệu, phân tích và ai sẽ là người có thể
tiếp cận dữ liệu đó?
¾ Chúng ta có những kỹ năng về thu thập và phân tích dữ liệu chưa?
¾ Tần suất báo cáo và tần suất thu thập
¾ Chi phí thu thập, phân tích và phổ biến dữ liệu là bao nhiên


Khung theo dõi và đánh giá này đã chỉ ra các nguồn dữ liệu phù hợp
cho mỗi số, tần suất thu nhập, và xác đinh cơ quan chịu trách nhiệm thu thập
dữ liệu cho chỉ số đó.
8. Theo dõi và báo cáo kết quả
Dữ liệu phải qua nhiều công đoạn, rồi được chuyển hóa thành thông tin
và thành tri thức làm cơ sở để đưa ra quyết định. Dữ liệu là nguyên liệu chứ
chưa mang ý nghĩa k
ết quả gì. Thông tin bao gồm việc bổ sung ý nghĩa vào đó
thông qua quá trình tổng hợp và phân tích. Tri thức xuất hiện khi thông tin
được liên hệ với một tình huống cụ thể để giải thích và rút ra bài học cho việc
ra quyết định.
Với mỗi lượng thông tin, cần lập kế hoạch về cách báo cáo. Bộ phận
theo dõi và đánh giá cần phải kiểm tra dữ liệu thường xuyên. Dữ liệu từ các
nguồn th
ường xuyên phải được đối chiếu với các nguồn khác. Bước đối chiếu
và tổng hợp thông tin thường bị ẩn trong công đoạn thu thập và phân tích
thông tin. Thực hiện bước này rất quan trọng vì việc tổng hợp tốt các dữ liệu
thồn tin có thể giúp phân tích thông tin tốt, nhưng nếu tổng hợp kém có thể
dẫn đến sai sót. Cần đối chiếu khi mở rộng phạm vi thông tin từ các nguồn
khác với ph
ương pháp khác. Việc đối chiếu dữ liệu định tính cần đặc biệt chú
trọng và phải có kỹ năng phân tích.
Khi quyết định tổ chức lưu giữ thông tin theo dõi và đánh giá, cần trả
lời các câu hỏi sau: Cần lưu giữ thông tin nào? Ai cần đến các thông tin đó và
khi nào? Cần lưu giữ thông tin bằng hình thức nào- bằng văn bản hay dữ liệu
có thể nhập vào máy tính và lưu giữ tập trung?
Cần thườ
ng xuyên đánh giá xem cần giữ thông tin nào và thông tin nào
cần bỏ đi. Để có thể nhân kết quả, có thể cần lưu giữ dữ liệu thô trong một

thời gian nhất định.
Có nhiều đối tượng sử dụng các báo cáo theo dõi và đánh giá từ hệ
thống thông tin này, chẳng hạn như, một bộ, các bộ khác, các tổ chức quốc tế,
các cán bộ nghiên cứu, nhân viên trong cơ quan, các tổ chức phi chính phủ và
các cộng đồng. M
ục tiêu chính của việc truyền đạt các thông tin phát hiện ra
là nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình và khuyến khích các đối tượng liên
quan hành động. Dự thảo báo cáo về những điều phát hiện phải được đưa ra
thảo luận với các đối tác và đối tượng có liên quan ở cơ sở nhằm thu hút ý
kiến phản hồi về tính chính xác của thông tin và thống nhất ý kiến về các kết
luận và các bước tiếp theo. Báo cáo cuối cùng về những điều phát hiện phải
được chuyển cho các tổ chức có liên quan để giải trình và có các hành động.
Bộ phận theo dõi và đánh giá phải lập kế hoạch cẩn thận về cách truyền
đạt các thông tin phát hiện ra. Nhiệm vụ truyền đạt chính là nhằm đảm bảo
các thông tin phát hiện ra là chính xác. Ngoài các ấn phẩm báo cáo thường kỳ,
các cuộc hội thảo, họp hành cũng là những biện pháp quan trọng để lấy ý ki
ến
phản hồi và lập kế hoạch hành động cho tương lai.

9. Đánh giá
Như đã nêu ở trên, theo dõi cung cấp cho chúng ta dữ liệu về việc thực
hiện các kế hoạch, chính sách hoặc chương trình. Tuy nhiên, số liệu theo dõi
không tạo cơ sở để tìm ra nguyên nhân của thay đổi. Các số liệu theo dõi cũng
không cung cấp thông tin về việc thay đổi có xảy ra hay không. Tương tự, số
liệu thu thập từ việc theo dõi không chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu trong thiết kế
c
ủa kế hoạch, chính sách hoặc chương trình/ dự án, chúng ta biết tại sao các
kế hoạch, chính sách hoặc chương trình, dự án lại không hoặc có được thực
hiện. Do vậy, để trả lời câu hỏi liệu kế hoạch, chính sách hoặc chương trình,
chính sách đã đi theo hướng đã định chưa, chúng ta cần phải thực hiện công

tác dánh giá.
Phần trên chúng ta đã định nghĩa đánh giá và quá trình đánh giá một kế
hoạch, chính sách hoặ
c chương trình, đang diễn ra hoặc đã hoàn thành để xác
định mức độ phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, tác động và khả năng duy trì nó. Từ
việc đánh giá này chúng ta sẽ đưa ra các bài học thu được vào quá trình quyết
định mới.
Đánh giá cung cấp các bằng chứng và phân tích về việc tại sao các chỉ
tiêu phấn đầu và kết quả dự kiến đạt được hoặc không đạt được. Đánh giá
nhằm tìm ra các nguyên nhân. Chúng ta cầ
n thiết phải có các thông tin đánh
giá trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch, chứ không chỉ để đến khi hoàn
thành kế hoạch, để kịp thời tìm ra và xác định các nguyên nhân.
10. Sử dụng thông tin phát hiện
Mục đích chính của hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là
sử dụng các bài học rút ra từ các thông tin về kết quả của việc theo dõi và
đánh giá. Các thông tin về theo dõi và đánh giá đều cung cấp những thông tin
phản hồi thi
ết yếu, liên tục về tiến độ của một chương trình, dự án hoặc chính
sách, kế hoạch. Phân tích và báo cáo các phát hiện vê kết quả hoạt động là
một bước thiết yếu vì nó xác định cần báo cáo cái gì, khi nào và cho ai. Bước
này đặc biệt chú trọng đến việc báo cáo những phát hiện. Sử dụng các phát
hiện để nâng cao kết quả là mục đích chính của việc xây dựng hệ thống theo
dõi và đánh giá theo kết quả
. Các phát hiện có thể sử dụng theo nhiều cách
khác nhau dưới đây:
Bảng 5: Tám cách sử dụng các thông tin phát hiện ra từ
hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả
1. Đáp ứng đòi hỏi của Quốc hội, các quan chức và công chức về tính chịu
trách nhiệm

2. Giúp xây dựng và luận chứng các đề nghị cụ thể về ngân sách
3. Giúp đưa ra quyết định phân bổ nguồn l
ực hữu hiệu
4. Bắt đầu cho việc khảo sát sâu những vấn đề nảy sinh từ kết quả thu được,

cần có những giải pháp khắc phục như thế nào
5. Khuyến khích mọi người tiếp tục hoàn thiện mục tiêu của chương trình,
chính sách
6. Cung cấp dữ liệu cho việc đánh giá sâu và chuyên biệt về chương trình,
chính sách
7. Hỗ trợ lập kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn (thông qua việc cung
cấp các thông tin về tình trạng ban đầu và các tiến bộ về sau)
8.
Xây dựng lòng tin từ công chúng vào Chính phủ và hoạt động của Chính
phủ

IV. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP QUẢN LÝ DỰA TRÊN KẾT QUẢ
1. Kinh nghiệm của Canada
Canada là một nước sớm áp dụng phương pháp quản lý dựa trên kết
quả. Năm 1996, Tổng thống ban hành quy chế quản lý dựa trên kết quả. Đến
năm 2007, Quốc hội đã phê chuẩn, ban hành Luật trách nhiệm và kết quả.
Trên cơ sở Luật trách nhiệm, cấp Trung ươ
ng, Bộ Ngân sách là cơ quan chịu
trách nhiệm chung về theo dõi đánh giá cấp quốc gia và phê duyệt khung
logic dựa trên kết quả của các bộ ngành.
Với hệ thống quản lý dựa trên kết quả của các Bộ, ngành ở Canada đã
hoàn thiện được báo cáo và theo dõi tình hình thực hiện theo kết quả từ dưới
lên, từ cấp dự án, đến cấp chương trình và cấp bộ từ đó xác định được các kết
quả

cuối cùng đạt được báo cáo lên Quốc hội và cơ quan kiểm toán. Thông
qua đó, Bộ Ngân sách và Quốc hội đã sử dụng để phân bổ kế hoạch hàng năm
cho các đơn vị.
Trên cơ sở các mục tiêu ưu tiên đã được xác định, Chính phủ bang đã
xây dựng ra các thước đo kết quả, đó là các chỉ số, chỉ tiêu cụ thể hóa các mục
tiêu nói trên. Sau khi xác định được các thước đo (chỉ số
, chỉ tiêu) của từng
mục tiêu ưu tiên, tiến hành xây dựng hệ thống thu thập thông tin. Hệ thống
thông tin này ở Canada xây dựng rất công phu, có bước thử nghiệm trước khi
đi vào vận hành chính thức. Các thông tin thu được từ hệ thống này được sử
dụng là đầu vào của các báo cáo tình hình thực hiện báo cáo hàng năm là cơ
sở cho việc xây dựng ngân sách các bộ, ban ngành cấp Bang.
2. Kinh nghiệm của Bang Ontario - Canada trong việc sử dụng
khung theo dõi và đánh giá, quản lý d
ựa trên kết quả
Tương tự như cấp Liên bang từ năm 1994 chính quyền vùng Ontario
khẳng định quyết tâm xây dựng một hệ thống theo dõi đánh giá, đo lường kết
quả thực hiện để việc đầu tư công được phân bổ đúng mục tiêu và thiết thực
nhất.

Bang Ontario đặt ra 3 mục tiêu kết quả cuối cùng của cả chính quyền
và cộng đồng người dân là công việc và sự thịnh vượng; cải thiện sức khoẻ;
phát triển giáo dục cơ sở. Trên cơ sỏ các mục tiêu ưu tiên đã được xác định,
chính quyền bang xây dựng ra các thước đo kết quả, đó là các chỉ số, chỉ tiêu
cụ thể hoá các mục tiêu nói trên
Tiến hành liên kết các thước đo kế
t quả thực hiện tới các mục tiêu.

Sau khi xác định được các thước đo (chỉ số, chỉ tiêu) của từng thứ tự ưu
tiên, tiến hành xây dựng hệ thống thu thập thông tin. Hệ thống thu thập thông

tin này được xây dựng rất công phu, có bước thử nghiệm trước khi đưa vào
vận hành chính thức và xây dựng chế độ báo cáo tình hình thực hiện hàng
năm tập trung vào các mục tiêu ưu tiên.
3. Kinh nghiệm của Malaysia
Định hướng phát triển kinh tế toàn diện của Malaysia
được tập trung
vào các mục tiêu sau đây:
- Tạo công ăn việc làm;
- Đa dạng hoá và mở rộng nền tảng kinh tế;
- Tạo đà tăng trưởng kinh tế thông qua chiến lược hướng xuất khẩu.

Trong hơn bốn thập kỷ qua, Malaysia đã trải qua hàng loạt quá trình
chuyển dịch cơ cấu, từ một nhà sản xuất các hàng hoá thứ cấp sang một nền
kinh tế đa dạng dựa trên nền tảng công nghiệp vững mạnh.
Mục tiêu
- Tỷ lệ biết đọc cao và đạt được về môn toán
- Trên 7% số học sinh lớp 6 đạt kết quả theo
chuẩn về đọc
Cải tiện sức
khoẻ
Việc làm và
thịnh vượng
- Lực lượng lao động có kỹ năng
Số lao động được đào tạo việc làm trong nền
kinh tế
- Dịch vụ công cộng hiện đại, hiệu quả
- Giảm thời gian chờ đợi khi khám sức
khoẻ
-
- Dễ dàng tiếp cận tới các dịch vụ sức khoẻ

cơ bản.
Phát triển giáo
dục cơ sở
Kết quả

Malaysia lập kế hoạch ngân sách dựa trên kết quả từ những giai đoạn
đầu những năm 90 và coi đây là điểm mấu chốt đối với Quản lý để đạt được
kết quả phát triển. Việc lập kế hoạch ngân sách:
- Ngân sách và các nguồn lực là điểm mấu chốt đầu vào đối với Quản lý
để đạt được kết quả phát triển (MfDR)
- Việc phân phố
i và sử dụng các nguồn ngân sách có liên hệ trực tiếp với
những thành tựu của kết quả phát triển
- Dễ đảm bảo trách nhiệm giải trình hơn bằng việc liên kết giữa ngân
sách và sử dụng nguồn lực của từng bộ phận
- Nhà quản lí ở tầm thực thi có trách nhiệm giải trình các kết quả chương
trình đối với các nguồn lực được cung cấp
- Ngân sách kết n
ối với các hoạt động khác trong một bộ phận
Mô hình lập kế hoạch ngân sách dựa trên kết quả của Malaysia được
xây dựng qua các giai đoạn như sau:




Bắt đầu từ năm 2009, Malaysia sử dụng phương pháp nâng cao kết quả
phát triển thông qua quản lý dựa trên kết quả có sự lồng ghép (IRBM). Những
nội dung cơ bản của phương pháp này như sau:



Lập kế hoạch
ngân sách
hạng mục qui
tắc
tăng thêm
& Ki

m soát
PPBS
(Thực hiện chương
trình hệ thống lập
ngân sách)
• Các hoạt
động của
chương trình
• Kết quả
hoạt động
chương trình
•Các chỉ số
thể hiện hoạt
động đó
1957-1968 1969 - 1990 1990 - 2008 2009 >
RBB (RBM)
(Lập kế hoạch ngân
sách dựa trên kết
quả)
• PPBS
• Ngân sách
được phân bổ
• Mức tối đa

ngân sách
• Thỏa thuận
chương trình
• Báo cáo các
trường hợp
IRBM
(Quản lý dựa trên
kết quả có sự lồng
ghép)

• PPBS
• OB-PBS
• IRBM
• IDP
• PPS
• M&E
• MIS



Với việc xây dựng kế hoạch dựa trên kết quả, đồng thời quản lý dựa
trên kết quả có sự lồng ghép như trên, Malaysia đã vượt qua được cuộc khủng
hoảng kinh tế năm 2008-2009, với tăng trưởng kinh tế quý I/2010 đạt 10,1%
và đạt mức 8,9% trong quý II/2010
1
. Thu nhập bình quân đầu người của
Malaysia hiện nay đang ở mức 7.000 USD. Malaysia đang lên kế hoạch thực
hiện chương trình chuyển đổi kinh tế với mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành
nước có thu nhập cao (15.000 USD/người/năm).


1
GDP của nước này đã đạt mức 383 tỷ USD trong năm 2009 so với mức 94 tỷ USD của Việt Nam
IRBM
H
H


t
t
h
h


n
n
g
g
t
t
h
h
ô
ô
n
n
g
g

t
t

i
i
n
n


q
q
u
u


n
n


l
l
í
í


Cung cấp thông tin được xem xét nhằm hỗ trợ
việc ra quyết định nhằm cải thiện chương trình và
điểu chỉnh chiến lược và chính sách
5
5


L

L


p
p


k
k
ế
ế


h
h
o
o


c
c
h
h


p
p
h
h
á

á
t
t


t
t
r
r
i
i


n
n




C
C
ó
ó


s
s





l
l


n
n
g
g


g
g
h
h
é
é
p
p


1
1


Lập kế hoạch phát triển với sự kết hợp đầy đủ
ngang-dọc (là hoạt động của các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp) tập trung vào kết quả
của chương trình và ảnh hưởng của nó



L
L


p
p
k
k
ế
ế
h
h
o
o


c
c
h
h

n
n
g
g
â
â
n
n



s
s
á
á
c
c
h
h


d
d


a
a


t
t
r
r
ê
ê
n
n



k
k
ế
ế
t
t


q
q
u
u








2
2


Cung cấp một hệ thống lập kế hoạch ngân sách
dựa trên kết quả kết hợp với việc lập kế hoạch và
quản lí các nguồn tài chính giúp các chính sách đi
vào thực tiễn
G
G

i
i
á
á
m
m
s
s
á
á
t
t
&
&

Đ
Đ
á
á
n
n
h
h


g
g
i
i
á

á


4
4


Việc giám sát và đánh giá được xây dựng nhằm
hỗ trợ việc quản lí kết quả chương trình, kế hoạch
đặt ra
K
K
ế
ế
t
t
q
q
u
u


h
h
o
o


t
t


đ
đ


n
n
g
g


c
c


a
a


b
b




m
m
á
á
y

y


n
n
h
h
â
â
n
n


s
s




Đảm bảo kết quả hoạt động của cán bộ ở từng
cấp liên kết có hệ thống với hoạt động bền vững
của dự án
3
3



PHẦN 2:
XÂY DỰNG BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ KẾ HOẠCH 2011-2015
NGÀNH CÔNG THƯƠNG

I. ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
THƯƠNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2015
1.1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trên cơ
sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế. T
ạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tăng nhanh hàm lượng khoa
học và công nghệ cao trong sản phẩm. Cải thiện và nâng cao rõ rệt chất lượng
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tăng cường công tác bảo v
ệ tài nguyên môi
trường và chủ động ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Giữ vững
ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.
1.2. Các chỉ tiêu chủ yếu
1

Về kinh tế
:
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 7,5-8%
/năm, trong đó: giá trị gia tăng ngành công nghiệp và xây dựng tăng 7,5-8,5%.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2015: ngành nông, lâm
nghiệp và thủy sản đạt 19%; công nghiệp và xây dựng khoảng 40,7%; dịch vụ
40,3%.
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 5 năm đạt
12,1%/năm. Kiểm soát nhập siêu ở mức cho phép.
Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội 5 năm 2011-2015 bằng kho
ảng 41,5% GDP

Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2015 đạt 38%.
Về giáo dục, đào tạo và công nghệ;

Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2015 đạt 55% tổng lao động toàn
xã hội.

1
Trích từ dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 5/2010

×