Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

tư tưởng hồ chí minh về giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.48 KB, 56 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục
Viết bởi Lê Gia Thanh
Chủ nhật, 22 Tháng 8 2010 07:36
Điều 3, Luật giáo dục, năm 2005 của nước ta đã khẳng định: “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo
dục Xã hội chủ nghĩa, có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”.
Tư tưởng phát triển toàn diện con người của Mác và Ăngghen trong “Tuyên Ngôn của Đảng
Cộng Sản” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo công cuộc giáo dục ngày nay.
Một tư tưởng vĩ đại mà Mác và Ăngghen đã tuyên bố trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” đó là:
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [19].
Tư tưởng coi con người là trung tâm của cuộc sống gắn liền với tiến trình phát triển văn hoá của
loài người và ngày nay, phát triển toàn diện con người đã trở thành một tư tưởng chỉ đạo của thời
đại.
“Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản ” còn nhấn mạnh làm cho con người được phát triển tự do đó là
phát triển trí tuệ và thể lực, đạo đức và tay nghề, tính độc lập cá nhân, cá tính và tính cộng đồng,
trách nhiệm và quyền hạn, lợi ích và đóng góp, dân chủ và kỷ cương là những điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người.
Tại diễn đàn Đại hội giáo dục toàn Nga lần thứ nhất, ngày 28-8-1918 [20] LêNin đã khẳng định
vai trò to lớn của công tác giáo dục, coi đó là một điều kiện đảm bảo thắng lợi trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm coi giáo dục như là bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội, trong văn kiện “Những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” (26-4-1918) Lênin đã coi giáo dục như giao thông, bưu
điện, Lênin đã khẳng định vai trò kết cấu hạ tầng của giáo dục trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một tư tưởng hết sức có ý nghĩa đối với thời kỳ công nghiệp hoá là tư tưởng về giáo dục kỹ thuật
tổng hợp. Từ đó tất cả các trường phổ thông đều mang các tính chất: giáo dục phổ thông, giáo dục
lao động, giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
Khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” đã trở thành triết lý sống của hàng triệu,
hàng triệu con người trong các thế hệ. Uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa giáo dục
suốt đời thành một nguyên lý của nền giáo dục mở đầu thiên niên kỷ mới.
Những quan điểm giáo dục của Mác-Lênin đã rất gần gũi với thực tiễn giáo dục của đất nước ta.


Đảng ta đã gắn cuộc đấu tranh chống chính sách ngu dân với cách mạng giải phóng dân tộc khỏi
ách thực dân đô hộ, coi dốt nát là một thứ giặc như giặc đói và giặc ngoại xâm, trong nửa thế kỷ
đã thực hiện ba cuộc cải cách giáo dục, để đào tạo các thế hệ phục vụ đắc lực các nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VIII đã tiếp thu tinh hoa của tư tưởng giáo dục của thời đại Cách mạng Tháng Mười Nga, tổng
kết 50 năm phát triển giáo dục nước ta, đưa truyền thống hiếu học của dân tộc ta lên một trình độ
mới, đã đưa ra các định hướng chiến lược nhằm chấn hưng giáo dục đúng quy luật, hợp lòng dân,
hoà vào trào lưu chung của nhân loại tiến bộ, đưa nước ta thành một nước giàu mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh.
Giáo dục và văn hoá như hình với bóng, cái này sinh ra cái kia, hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo ra sự
sinh tồn của loài người. Nhà văn hoá lớn thường là nhà sư phạm lớn, liên kết trong nhân cách ý
tưởng và phương châm hành động. Hồ Chí Minh là một trong những nhân cách lớn như vậy.
Người là anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, vì trước hết Người đã là một nhà
giáo dục, một nhà sư phạm.
Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh , tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho
con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng lại vô cùng sinh động và thiết thực, nhằm tạo ra
những con người toàn diện, có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khoẻ, thẩm mĩ…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân
tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục
và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết
UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các
lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân
dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc
trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn
nhau”. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội
dung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò của giáo dục:
Nói đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu giáo dục thường nhấn mạnh đến

sự đặc sắc trong quan điểm của Người về vấn đề nhân cách, việc học tập để rèn luyện phát triển
nhân cách đối với mỗi người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thiện ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục
mà nên”. Người muốn nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc hình thành phẩm chất nhân
cách con người, “thiện”, “ác” không phải là bản chất sẵn có của con người mà chủ yếu là do quá
trình giáo dục hình thành nên.
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc đổi bảo vệ và xây dựng đất
nước. Người kêu gọi: “Quốc dân Việt Nam! muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh
nước giàu, mọi người Việt Nam…phải có kiến thức mới, để có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Hồ Chí Minh còn quan tâm chỉ đạo cho giáo dục tích cực phục vụ hoạt động kinh tế, làm cho hai
lĩnh vực này liên hệ chặt chẽ với nhau. Người đánh giá tác dụng tích cực của giáo dục trong quá
trình phát triển kinh tế: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế”.
Về mục đích giáo dục:
Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời phấn đấu của Hồ Chí Minh đó là mong cho dân tộc, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Ngày nay nước ta đã được độc lập, dân ta đã được tự do, thanh niên đã là người làm chủ đất
nước, vì vậy mục đích của nền giáo dục là đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà,
phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ yếu.
Người đã chỉ rõ mục đích của việc học đó là: học để yêu Tổ quốc, học để yêu nhân dân, học để
yêu lao động, học để yêu đạo đức, học để phụng sự Tổ quốc, học để phụng sự nhân dân.
Mục đích giáo dục lớn nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là
xây dựng con người mới, đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà.
Nhiệm vụ giáo dục:
Người đã đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp học, cấp Đại học, cấp Trung học, cấp tiểu học. Ở
cấp trung học, Người nói rằng cần phải đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn,
thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần
thiết cho đời sống thực tiễn.
Về nội dung giáo dục:
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa theo Người: “trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”.

Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khao
học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn
diện trong thời đại mới. Hồ Chí Minh cho rằng phải xây dựng cho ngưoiừ học toàn diện những
mặt chính sau: trí dục, đức dục, thể dục, mĩ dục, giáo dục lao động kỹ thuật. Ngoài ra cần phải
học lý luận Mác Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày, phải luyện tài, rèn đức,
trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới giáo dục đạo đức. Người nói “dạy cũng như học là
phải biết chú trọng cả tài và đức”, đức được coi như là “cái gốc” của cấy, “nguồn” của sông, nếu
không có đức thì người có tài cũng vô dụng.
Về phương pháp giáo dục:
Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp
giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm
chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nó được coi như
"kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi
người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở
thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học
phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân
chủ, thẳng thắn, không thức nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối
tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác
ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có
phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo
dục với đối tượng giáo dục.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ
một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu
giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp
học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp
giữa gia đình, nhà trường và xã hội đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và

tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này vừa
mang tính truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn
gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc
chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền
giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành,
không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn
soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác
định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt
Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực
tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói
riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng với việc phát huy dân chủ trong Đảng hiện nay.
Tác giả : Th.s Dương Thanh Bình - Gv Khoa Xây dựng Đảng
File đính kèm: Không có
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân chủ là chìa khoá vạn năng để
giải quyết mọi công việc khó khăn của cách mạng. Trong Đảng không có dân chủ
thì đời sống của Đảng sẽ trở nên “âm u” (1). Trước khi đi xa trong di chúc Người
căn dặn: “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người nhấn
mạnh thực hành dân chủ chứ người không nói là dân chủ.Phải chăng, Người thấy
việc nói về dân chủ trong Đảng nhiều nhưng thực hành dân chủ rộng rãi thì còn có
những hạn chế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ để làm cho Đảng mạnh, thì
phải mở rộng dân chủ”(2), trong Đảng “ phải thật sự mở rộng dân chủ để bày tỏ hết
ý kiến của mình” (3).
Như vây, phát huy dân chủ trong Đảng là phát huy dân chủ nội bộ. Trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy nhiều lần Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề

dân chủ trong Đảng. Trong bài viết “Xây dựng những con người của Chủ nghĩa xã
hội” in trên báo Nhân dân, ngày 25-3-1961, Bác viết: “Chúng ta phải làm đúng lời
dạy của Lê – nin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của Đảng nhưcon ngươi của mắt.
Phải hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ; tuyệt đối không được đôci
đoán cá nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”
(4), tập 10, trang 311.
Người nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự đoàn kết trong Đảng, nhất là
đoàn kết giữa các đồng chí cán bộ lãnh đạo.Khối đoàn kết đó được xây dựng trên
cơ sở sự thống nhất về tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ.Đồng thời cần tiến hành
phê bình và tự phê bình một cách rộng rãi, nhất là cần tổ chức cho nhân dân phê
bình cán bộ.“Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan.Phải luôn luôn dùng cách
thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên
quyết chống cái thói “ cả vú lấp miệng em”, ngăn cản quần chúng phê bình. Một
đảng viên ở địa vị càng cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm
gương dân chủ” (5).
Trong tác phẩm “Sửa đối lối làm việc” đăng báo vào tháng 10 năm 1947, phần
“Sáng kiến và hăng hái” Bác viết: “ Chúng ta thường nêu vấn đề đó. Nhưng đến
nay cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì?
Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách
công tác của ta không được tích cực…
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán
bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê
bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau.Quần chúng đối với Đảng rời
xa nhau.Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp.Dưới thì có gì không dám nói ra.
Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên
cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác.
Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh
ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng
nhiều mồm”, sinh ra nói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác…
Dân chủ, sáng kiến, hăng hái ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm

cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì
nhưnmgx người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi
tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự
sửa chữa được nhiều. Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra”. (6)
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ trong nhân dân, Đại hội X của Đảng đã tổng
kết: “ Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc có tiến bộ” (7).
Tuy nhiên, Đại hội X cũng thẳng thắn chỉ ra: “ Dân chủ trong Đảng và trong xã
hội còn bị vi pham. Kỷ cương, kỷ luật nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự
đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ còn yếu”(8). “ Công tác tổ chức trên một số
mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.
Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ chức và cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ
thống chính trị, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước và
cán bộ, đảng viên. Còn thiếu những quy chế cụ thể đảm bảo phát huy dân chủ, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo
thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán
bộ một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình
thức”. (9).
Từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong Đảng và thực tiễn
mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và xã hội trong thời gian qua, để tiếp tục
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng hiện nay cần thực hiện tốt những vấn đề
sau:
Thứ nhất, cần sớm xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong Đảng. Từ đó
mỗi đảng viên và tổ chức Đảng, mọi cấp uỷ và người đứng đầu đều thấy được
quyền hạn và trách nhiệm của mình về thực hiện dân chủ trong Đảng, đồng thời đó
cũng là căn cứ đê giám sát dân chủ trong Đảng.
Mặt khác, các tổ chức cơ sở Đảng cần xây dựng quy chế nội bộ. Trong quy chế,
cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa bí thư với các thành
viên của cấp ủy; giữa đảng ủy, chi ủy với chính quyền, mặt trận và các đoàn thể

nhân dân Mọi hoạt động của cấp ủy, chi bộ phải theo quy chế. Việc thực hiện
nghiêm quy chế sẽ giúp đảng ủy, chi ủy, chi bộ giữ vững được nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức, hoạt động, trong lãnh đạo và sinh hoạt; là cơ sở bảo đảm;
giữ vững và tăng cường khối đại đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, trong chi bộ,
cơ sở cho sự đồng thuận giữa tổ chức Đảng và chính quyền; ngăn ngừa những biểu
hiện chuyên quyền, độc đoán của cá nhân người đứng đầu. Đồng thời, cũng góp
phần ngăn chặn tình trạng lợi dụng dân chủ bôi nhọ, công kích lẫn nhau gây mất
đoàn kết nội bộ. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc, một mặt vừa đề cao vai trò
người đứng đầu, mặt khác vừa tạo điều kiện cho các cấp ủy viên và đảng viên phát
huy tinh thần chủ động sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, đề cao vai trò trách
nhiệm cá nhân trong xử lý công việc.
Thứ hai, thực hiện dân chủ trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của
Đảng.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam là nhờ có sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, trong đó vấn đề hàng đầu là Đảng phải xây dựng được
đường lối chủ trương đúng đắn. Để xây dựng đường lối đúng đòi hỏi Đảng ta phải
luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo, phải nắm bắt quy luật khách quan và xu thế phát
triển của thời đại; phải huy động được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Trong những thời gian gần đây, nhiều nghị quyết của Đại hội Đảng và Ban chấp
hành trung ương được lấy ý kiến đến từng chi bộ và tổ chức quần chúng.Tuy nhiên
vấn đề này chưa thành nề nếp trong nhiều tổ chức Đảng. Do đó trong thời gian tới
cần có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của tất cả các đảng viên trong những vấn
đề quan trọng của toàn Đảng, đồng thời cần phát huy dân chủ, đảm bảo tôn trọng ý
kiến của Đảng viên trong việc thông qua các nghị quyết chủ trương của tổ chức
Đảng.
Thứ ba, đảm bảo việc thực hiện các quyền của Đảng viên một cách thực sự. Quyền
của Đảng viên như đã được giải thích tại Đại hội IV của Đảng là quyền dân chủ
của Đảng viên. Nói cách khác, đó là quyền làm chủ của Đảng viên đối với các
công việc của Đảng. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội X đã xác định 6
quyền của đảng viên như sau:

1. Quyền được thông tin.
2. Quyền được thảo luận và biểu quyết.
3. Quyền được ứng cử, đề cử và bầu cử .
4. Quyền được phê bình, chất vấn kiến nghị và yêu cầu trả lời.
5. Quyền được trình bày ý kiến về bản thân mình.
6. Quyền được bảo lưu ý kiến khi ý kiến của mình thuộc về thiểu số.
Tất nhiên, việc mở rộng và dân chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật, đấu
tranh, xử lý những trường hợp lợi dụng dân chủ để có hành vi vu cáo hoặc gây rối
nội bộ.
Thứ tư, phát huy dân chủ trong công tác cán bộ.
Phát huy dân chủ, đặc biệt là dân chủ trong công tác cán bộ là một nội dung quan
trọng. Bởi vì cán bộ là gốc của công việc, mọi việc thành bại là do cán bộ tốt hay
kém. Thực tế cho thấy, trong Đảng có thực hành dân chủ và mở rộng, phát huy dân
chủ hay không, vai trò của cấp uỷ Đảng và người đứng đầu cấp uỷ là rất quan
trọng.Các cấp uỷ Đảng và người đứng đầu có nhận thức đúng, có thực hành dân
chủ trong nội bộ hay không thì nguyên tắc tập trung dân chủ và các quyền dân chủ
và quy chế làm việc mới thành hiện thực. Do đó cần phát huy dân chủ trong Đảng
để đảng viên có quyền lựa chọn được đội ngũ cán bộ của Đảng có phẩm chất chính
trị, có uy tín và năng lực lãnh đạo, thật sự tâm huyết với Đảng với dân. Đồng thời
cần đổi mới phương thức bầu cử, thực hiện rộng rãi việc bầu cử trực tiếp đối với
các chức danh trong Đảng
Thứ năm, xây dựng chế độ và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra
của cấp ủy cấp trên và giám sát của quần chúng.
Kiểm tra là một nội dung và hình thức lãnh đạo. Công tác kiểm tra của cấp uỷ cấp
trên nhằm phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ các tổ chức. Nhờ có
kiểm tra thường xuyên mà phát hiện được việc chấp hành đúng hay không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm chủ trương chính sách, điều lệ Đảng; phát
hiện kịp thời những vi phạm dân chủ để uốn nắn, khắc phục nhằm giữ vững kỷ
luật; kỷ cương của Đảng; giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo hoặc những thắc mắc
của cán bộ, đảng viên hoặc nhân dân. Đồng thời, cũng nhờ kiểm tra mà phát hiện

những điển hình tiên tiến để nhân rộng. Nhìn chung, việc kiểm tra của cấp ủy cấp
trên và giám sát của quần chúng được xây dựng thành chế độ sẽ góp phần xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đảng viên.
Muốn Đảng mạnh thì chi bộ phải mạnh, muốn chi bộ mạnh thì đảng viên phải
mạnh. Đảng viên là lực lượng quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên là yêu cầu quan trọng
để đảm bảo việc thực hiên dân chủ trong Đảng. Thực tế ở đâu chất lượng đảng viên
thấp thì ở đó cơ sở Đảng yếu kém, không phát huy dân chủ, phong trào yếu kém.
Đảng viên yếu kém hoặc hạn chế về năng lực trình độ thì khó tham gia đóng góp
được gì nhiều cho Đảng, thậm chí không dám đấu tranh chống lại các hiện tượng
sai trái mất dân chủ. Chất lượng đảng viên thể hiện ở trình độ chuyên môn, trình độ
chính trị, năng lực công tác, khả năng vận động, thuyết phục, tổ chức quần chúng
thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, ở tấm gương mẫu mực cho nhân dân noi
theo.
Phát huy dân chủ trong Đảng không chỉ là yêu cầu nội tại của công tác xây dựng
chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn là quy
chế bắt buộc để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
khắc phục bệnh độc đoán, chuyên quyền; bảo đảm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân. Để phát huy được sức mạnh của việc thực hiện dân chủ trong
hoạt Đảng cần phải thực hiện tốt những giải pháp từ việc làm tốt công tác chính trị
tư tưởng; nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; gắn việc thực
hiện dân chủ với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Trong phiên bế mạc sáng 19/1, Đại hội XI đã thông qua Nghị quyết
các mục tiêu phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015, như xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả giám sát cán
bộ.
Phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả giám sát cán bộ
Theo đó, mục tiêu 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp hiện đại.
Đại hội cũng đã thông qua năm nhiệm vụ chủ yếu là:
1- Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
2- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực;
phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc
làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội. Bảo vệ môi trường.
3- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
4- Tiếp tục phát huy dân chủ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp
quyền. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính
phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp;
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.
5- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm
tra, giám sát. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội cũng Quyết nghị, ngay trong nhiệm kỳ khoá XI, cần tập trung tạo chuyển
biến mạnh mẽ bảy nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục liên quan đến DN và dân;
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;
- Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống

giao thông;
- Cần đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập;
- Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống,
tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội);
- Đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí.
Tránh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng
Trong Đại hội, BCH Trung ương cũng điểm lại một số bài học trong nhiệm kỳ vừa
qua làm kim chỉ nam cho chỉ đạo, điều hành sắp tới.
1- Đầu tiên là mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân.
2- Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững.
3- Ba là, coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
4- Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng.
5- Cuối cùng, công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo,
bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp
phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận.
Đại hội xác định, 5 năm tới là giai đoạn kinh tế đứng trước nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường
thách thức nào.
- Đáng chú ý là, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn
nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

- Bên cạnh, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình",
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.
BCH Trung ương Đảng khoá XI và các cấp uỷ, tổ chức đảng xây dựng chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết.
Các chỉ tiêu chủ yếu của Nghị quyết phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm.
+ Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%;
+ Giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm.
+ Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD.
+ Cơ cấu GDP:
- Nông nghiệp 17 - 18%,
- Công nghiệp và xây dựng 41 - 42%,
- Dịch vụ 41 - 42%;
+ Sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng
GDP;
+ Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%.
+ Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến
năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu.
+ Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP.
+ Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP;
+ Giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015.
+ Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động.
+ Tỉ trọng lao động nông - lâm - thuỷ sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã
hội.
+ Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
+ Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%.
+ Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi.
+ Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm.

+ Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 – 43%.
TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CHĂM LO, BỒI DƯỠNG THẾ
HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU

I/ Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh vềchăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ với cách mạng và sự
phát triển của dân tộc.
- Thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng,
của dân tộc.
+ Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã
nhắc nhở: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu
đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” . Cũng năm
1925, khi truyền bá tư tưởng cách mạng cho dân tộc, Hồ Chí Minh chọn
đối tượng đầu tiên là thanh niên và Người tập hợp họ trong tổ chức Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Ngay ngày khai trừơng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hồ
Chí Minh căn dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà
trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tời đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc nam châu được hay không chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh niên:
“Người ta thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”.
- Thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử
đó.
+ Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai
cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng

của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”.
+ Với tuổi nhi đồng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nay các cháu là
nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế
giới.Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bìnhvà dân chủ, sẽ không có
chiến tranh.
Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm được việc gì
có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”
- Trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định, thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế
hệ đi trướng, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ
trẻ. Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy
trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau:
- Truyền thống dân tộc:
+ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam ta có truyền
thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dân ta vì trọng đạo làm người mà
tôn sư và coi trọng giáo dục.Mục tiêu là học để làm người, để trở thành
tài.Phương châm giáo dục truyền thống là “Tiên học lễ, hậu học văn” và
“cần khổ học”.
+ Hồ Chí Minh hấp thụ truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
của dân tộc ngay từ cái nôi gia đình và quê hương.Xứ Nghệ tuy đời sống
vất vả nhưng rất hiếu học, thời nào cũng sản sinh người hiền tài.Hồ Chí
Minh ảnh hưởng sâu sắc tấm gương kiên trì học tập của người cha, tấm
gương nhà giáo mẫu mực của ông ngoại.
- Sự khổ công học, khổ công luyện ngay từ nhỏ theo truyền thống
dân tộc và gia đình và trong suốt cuộc đời của Người.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa, những tri thức của
giáo dục phương Đông từ nhỏ và không ngừng bồi đắp thêm cho mình.

Sau khi đi khắp thế giới trở về nước, Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở
mọi người hãy nhớ lời Khổng Tử dạy “Học không biết chán, dạy không
biết mỏi”.
+ Hồ Chí Minh đi nhiều, học nhiều, tiếp xúc với văn minh và nền
giáo dục phương Tây, thấy rõ mối quan hệ giữa học đi đôi với hành, lý
luận kết hợp với thực tiễn.
- Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của
chủ nghĩa Mác-LêNin về giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ.
+ Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Bộ phận giác ngộ nhất của giai
cấp công nhân nhận thức rất rõ ràng tương lai của họ và do đó tương lai
của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công
nhân đang lớn”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc
trước hết phải thức tỉnh thanh niên”.
+ Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: “Không học thì không trở
thành người cộng sản được”, Hồ Chí Minh nói: “Đốt nát cũng là kẻ
địch”. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, và người cán bộ cách mạng
Việt Nam phải nhớ: “cán bộ phải có văn hóa làm gốc”, vì “muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức”; và khi “chủ nghĩa xã
hội gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật” thì đó là “bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.Vì vậy “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

II. Những nội dung chính cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:

1. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân.
- Tố cáo thực dân Pháp thực thi ở Việt Nam chính sách ngu dân.
+ Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí Minh tố
cáo: “Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một

cách êm thắm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân
dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách
ngu dân triệt để”.
+ Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp cấu kết với phong kiến hạn
chế giáo dục và thực hiện giáo dục nhồi sọ làm hư hỏng các thế hệ trẻ
Việt Nam. Người viết: Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong
kiến đã dùng giáo dục nô lệ để nhồi sọ thanh niên ta, làm cho thanh niên
ta hư hỏng.
- Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện
nền giáo dục cách mạng. Nhưng “trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh
hưởng của giáo dục thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rồi đời sống lao động và đầu tranh của nhân dân; học để lấy bằng
cấp; học theo lối nhồi sọ”.
2. Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo
trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Giáo dục là bước đầu tiên.
+ Sau hơn một tháng đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác
định: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí”
1
, vì
“Nuớc nhà cần phải kiến thiết.Kiến thiết cần phải có nhân tài”
2
.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có
cán bộ không làm được.Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng
không nói gì đến kinh tế văn hóa.Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là
bước đầu.”
3
.

- Xây dựng nền giáo dục kháng chiến.
Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải phát triển
mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt
trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”
4
.
- Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định rõ: “Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp
giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”
1
.
Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi
đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải được nâng cao,
giáo dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ
cách mạng, trong đó đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ.
3. Mục đích của giáo dục là chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng.
- Đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho
dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân
dân”
2
. Cụ thể là nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo con em những
người lao động thành “những người công dân có ích cho nước Việt Nam,
một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lục sẵn só của
các em”.
- Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất

nước .
Về nhà trường, Người nói: “Trường học của chúng ta là trường học
của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân
và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt,
trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong
kiến.”
1
- Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.
+ Với các cháu thiếu nhi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách dạy trẻ, cần
làm cho chúng biết: Yêu tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động,
giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hoá”
2
. Đó chính là con đường “làm cho
con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt và mai sau là
những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của
chế độ xã hội chủ nghĩa”.
+ Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tinh thần
yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối
với công nông, tuyệt đối trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà
Đảng và nhân dân giao cho”
3
.
+ Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng
giáo dục họ để “làm việc, làm người,làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn
thể, “giai cấp và nhân dan, Tổ quốc và nhân loại”.Muốn đạt mục đích,
thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”
1
.
4. Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách

toàn diện.
- Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú
trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn
hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”
2
; “thành những người thừa kế xây
dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”
3
.
- Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được
trong bồi dưỡng giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964
Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, là rất quan trọng”
4
; “Trên nền tảng
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao
chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề
do cách mạng nước ta và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh
cao của khoa học và kỹ thuật”
1
.
- Bồi dưỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể, mỹ”.
Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Giáo dục toàn diện, nhưng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối
tượng.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng
(ngày 30/10/1955) Người đã chỉ ra: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ
nhiệm vụ của mình trong lúc này”:
+ Đại học thì cấn kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức
học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực

tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước
nhà.
+ Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông
chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước
nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy
phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người
lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
5. Phương châm giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh.
- Học đi đội với hành, giáo dục gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết:
“Đối riêng với các em lớn, …Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp
nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến
tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài
giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho
quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong
cuộc phòng thủ đất nước”
2
.
Với các em nhỏ, Người khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức
thành một đội, giúp nhau học hành.Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả
đội đem nhau đi giúp đồng bào”
3
.
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương: “Chúng ta cần phải
có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc

cho các trường”
1
.
+ Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh,
sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: “Giáo
dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền
với sản xuất và đời sống của nhân dân”
2
.
- Phối hợp nhà trường – xã hội – gia đình.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một
phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho
việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn”.
Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết:
“Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà
trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt
lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”
3
.
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ
trẻ, nhất là Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: “Trường học, gia
đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái
độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến
khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên
phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn
đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát
biểu.Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt.Dân chủ nhưng
trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng

đầu”.Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho
nhà trường.Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành
canh ngọt để cho học sinh ăn no, học tốt.
+ “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huyđầy
đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa
cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ đó”
1
.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.
Người dạy: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc,
thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn
hóa”
1
; “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài
kháng chiến và kiến quốc”
2
.
- Giáo dục là một khoa học.
Người nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học” do vậy, cách dạy
trẻ “phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ
trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”.
Nhiều thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một
triệu chứng già sớm nên tránh)”
3
; ở bậc tiểu học, “cách dạy phải nhẹ
nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải
đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”

4
.

Những mặt trái của vấn đề tự chủ đại học
Thứ Tư, 26-05-2010 CHER
ThS. Trịnh Văn Anh
Bài viết được trích trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở các
trường đại học và cao đẳng Việt Nam" do Ban liên lạc các trường ĐH&CĐ Việt Nam (VUN) tổ
chức vào tháng 10/2009.
1. Đặt vấn đề
Ở nước ta, thời gian qua và hiện nay dư luận xã hội rất quan tâm đến vấn đề trao quyền tự chủ
cho các trường đại học. Thế nhưng, trao quyền tự chủ như thế nào, mức độ và nội dung, tiến
trình ra sao vẫn còn là ẩn số. Và, mặt trái của tự chủ ít được chúng ta nhìn nhận đánh giá đầy đủ
mà chủ yếu nhìn vào khía cạnh tích cực của vấn đề này khi thấy ở một số nước phát triển.
2. Sự mong muốn của các trường đại học về quyền tự chủ cần trao cho họ
Trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, các trường đều mong muốn rằng trường
đại học không phải chỉ là nơi cho "ra lò" những người có bằng cấp mà còn phải chịu trách nhiệm
trước xã hội về những sản phẩm đã tạo ra. Muốn vậy, các trường cần phải có quyền tự chủ và
chịu trách nhiệm. Những mong muốn đó là:
- Quyền quyết định mở ngành và quyết định về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy
để đạt các mục tiêu, cách thức đánh giá kết quả học tập; quyết định về ngành học phù hợp với
khả năng của trường để đáp ứng được nhu cầu xã hội.
- Tự quyết định quyền tuyển chọn người học và số lượng người học; thời điểm tuyển chọn, cách
thức tuyển chọn phù hợp với tiêu chí của từng trường.
- Tự quyết định tuyển chọn, bố trí cán bộ, giảng viên, công nhân viên và chịu trách nhiệm về số
lượng, chất lượng chuyên môn đảm bảo đời sống của họ trong quá trình thực hiện mục tiêu phát
triển trường.
- Tự quyết định về việc thu - chi tài chính (đề ra mức học phí và cách thức huy động tài chính,
cách thức đầu tư, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia phát triển quy mô cơ sở vật
chất, phục vụ đào tạo); quyền quyết định trả lương và các khoản đầu tư khác trong quá trình hoạt

động
Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ nhìn thấy những mặt mong muốn đạt được như đã nêu ra, không
phải trường nào cũng có thể làm được, lĩnh vực nào cũng có thể làm được mà phải xem xét và
lường trước những mặt trái của nó.
3. Những mặt trái khi trao quyền tự chủ hoàn toàn cho tất cả các trường đại học, cao đẳng
a/ Nếu như sự chuyển giao ồ ạt xảy ra với các trường thì: Một số trường chưa đủ khả năng,
năng lực, chủ động dễ gặp lúng túng khi tiếp nhận tự chủ, dẫn đến sai lầm. Trao quyền tự chủ
cho cơ sở có đủ năng lực, đủ điều kiện sẽ đem lại hạnh phúc ấm no cho mỗi gia đình và xã hội.
Trái lại, quyền tự trao cho những cơ sở chưa đủ điều kiện, cán bộ quản lý không đủ năng lực,
tâm không sáng, khó lường trước được hậu quả. Do vậy, Bộ cần nghiên cứu sao cho phù hợp với
hoàn cảnh từng địa phương, khả năng và vị thế người lãnh đạo của trường, tránh chuyển giao ồ
ạt, đốt cháy giai đoạn, hy vọng "toàn thắng ắt về ta".
Sẽ có trường biết rõ mình không đủ năng lực nhưng vẫn tiếp nhận cho "bằng chị bằng em" và
làm ẩu, bởi trách nhiệm thuộc về lý do "chưa có kinh nghiệm, không biết, không có tội"; hoặc vì
"bệnh thành tích" hay lý do nào đó không dám từ chối; cũng có thể nhận những quyền mang tính
"lợi nhuận" cao, từ chối cái khó khăn. Tất nhiên, có trường không đủ khả năng họ từ chối và chỉ
nhận những quyền phù hợp với khả năng, năng lực.
b/ Chuyển giao không phù hợp hoàn cảnh, thiếu cân đối, khoa học.
Có trường nhận quá nhiều, quá sâu rộng tận dụng không hết, ngược lại có trường bị giới hạn một
số mặt sẽ rất khó triển khai, hoặc tỉ lệ phân chia quyền tự chủ thiếu cân đối, khó thực hiện.
Chẳng hạn, khi cho tự chủ, có trường làm theo tiến trình về học thuật/chương trình/giáo viên/tài
chính/tuyển sinh, họ cần căn cứ chương trình như thế nào, mời những ai, lương bổng ra sao, cần
bao nhiêu tài chính Như thế, trường phải được giao đầy đủ các quyền, thiếu một mặt không
thể tiến hành. Ngược lại, có trường muốn tự chủ về tuyển sinh, tài chính để căn cứ vào đó làm
kinh phí hoạt động thì yêu cầu tự chủ không cần rộng như trường trên.
Như vậy, Bộ nên căn cứ vào khả năng của từng trường giao quyền tự chủ. Các trường không thể
thiếu việc trình kế hoạch tự chủ của mình để Bộ có thông tin chuẩn xác, khoa học hơn trong việc
giao quyền.
c/ Chuyển giao tự chủ cho công lập cần tính đến khả năng cạnh tranh của hệ thống các
trường ngoài công lập, các trường trung cấp, trường nghề.

Nếu cho công lập tuyển sinh ồ ạt về thời gian, không gian, chất lượng đầu vào thì chắc chắn nảy
sinh tình trạng chạy theo lợi nhuận, bỏ quên chất lượng - điều này cực kì nguy hiểm vì "sản
phẩm giáo dục một khi hỏng thì không thể sửa chữa mà cũng không thể vứt đi, di hại của nó kéo
dài đến hàng 3 - 4 thập kỉ" - một giáo sư thổ lộ.
Sự tuyển sinh ồ ạt của công lập, mở và "nâng cấp" quá nhiều trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn có diện tích nhỏ, các trường ngoài công lập sẽ không tuyển sinh được, các trường trung cấp,
trường nghề công lập vắng bóng sinh viên, nguy cơ phá sản. Nếu các đại học công mở thêm hệ
cao đẳng, ngành "hot", ngành có lợi nhuận cao và tuyển "vét" cả học sinh mới tốt nghiệp THCS
ở cấp đào tạo này thì chương trình phân luồng học sinh của Bộ có nguy cơ phá sản, bởi ai cũng
mong con cho cháu của mình được vào trường công lập danh tiếng để liên thông. Đây không
phải là ý kiến của cá nhân tôi, báo Người Lao động ra ngày 10/09/09 có nêu "Đến nay, số hồ sơ
trường nhận được chỉ hơn 50% trong tổng số 800 chỉ tiêu tuyển sinh ( ) hầu hết hồ sơ là của học
sinh lớp 9, chẳng thấy hồ sơ nào của học sinh lớp 12" - ông Nguyễn Phan Hoà, Hiệu trưởng
Trường TCN Nhân Đạo, cho biết.
Công lập được giao quyền quá rộng, lại có sự tiếp sức từ ngân sách Nhà nước, ưu đãi về giá thuê
mặt bằng chắc chắn gây cho ngoài công lập nhiều khó khăn. Họ tận dụng lợi thế được ưu đãi
về thuế, mặt bằng rẻ, đẹp, không tổ chức đào tạo (hoặc đào tạo cầm chừng), chuyển nhượng, cho
thuê lại, hưởng chênh lệch. Điều này, Bộ cần lưu ý trong chế độ ưu đãi, phân quyền sao cho hợp
lý công bằng hơn.
Ngoài khó khăn trên, hệ thống ngoài công lập hiện nay còn phải cạnh tranh khốc liệt với các
trường quốc tế, liên kết quốc tế, trường "gắn mác" quốc tế. Khó khăn là thế, vai trò của họ cũng
không nhỏ, nhưng Nhà nước, xã hội vẫn chưa công bằng trong cách nhìn, cách nghĩ về hệ thống
này.
d/ Cần chú ý vấn đề lợi dụng danh nghĩa liên kết quốc tế (chương trình, công nghệ, giảng
viên) để thu phí cao, gây hiểu nhầm cho người học và xã hội
Trường quốc tế đang trở thành "hội chứng" ở cấp học từ mầm non đến phổ thông, nhiều phụ
huynh có con em theo học dở khóc, dở cười khi đầu tư "nhầm trường" gắn mác quốc tế. Bài học
này giúp chúng ta sắp tới khi triển khai tự chủ đại học.
Một số trường, khoa, ngành đào tạo sẽ lợi dụng danh nghĩa quốc tế "mập mờ đánh lận con đen"
để thu phí cao trong khi chương trình, giảng viên, chất lượng chỉ đáng "nội địa" (thực tế, hiện

nay không thiếu "Tây ba lô" làm giảng viên cho các Trung tâm Anh văn Quốc tế). Hoặc, họ có
thể thuê một số giáo viên nổi tiếng làm "bình phong" ở một số ngành, khoa và "độn" giảng viên
không đủ năng lực (trả phí thấp) nhằm đạt lợi nhuận cao nhất, người học và xã hội nhận lãnh hậu
quả.
Cấu kết với tập đoàn, tổ chức quốc tế để rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư, tài trợ, từ thiện, mở
trường, mở ngành học. Nếu không kiểm soát, vô tình chúng ta hợp thức hoá "tiền bẩn" tiếp tay
cho hoạt động tội phạm nước ngoài - tiềm ẩn cho sự thao túng ngành giáo dục nước nhà về lâu
dài.
Thông qua hình thức trao đổi sinh viên, đưa người trái phép ra nước ngoài; liên kết với các
trường, tổ chức quốc tế không uy tín, hoặc đào tạo vượt chỉ tiêu nước ngoài cho phép, người học
sau bao năm theo đuổi chỉ có mỗi tờ "chứng nhận".
e/ Quốc tế hoá giảng viên, không tạo điều kiện cho giảng viên trong nước phát huy năng lực
Sính ngoại - tâm lý chung của phần lớn người Việt. Khi được tự do hợp tác quốc tế, một số
trường tài chính mạnh sẽ quốc tế hoá 100% đội ngũ giảng viên. Nếu điều này xảy ra sẽ thui chột
nhân tài trong nước, không tạo điều kiện cho giảng viên hơn kém, ngang tầm, thậm chí trình độ
cao hơn giảng viên quốc tế phát huy năng lực.
Để đánh bóng thương hiệu của mình, trường này tranh đua với trường khác mời giảng viên
ngoại, vừa tốn kém, vừa không tận dụng tài năng đất Việt tạo ra cơn "sốt" chất xám ảo. Bộ nên
quy định tỷ lệ giảng viên là người ngoại quốc sao cho hợp lý, khoa học trên cở sở phát huy nội
lực kết hợp ngoại lực. Đặc biệt, những ngành quan trọng, then chốt, mũi nhọn, ngành có tính
chiến lược của nước nhà nên có giải pháp sao cho giảng viên trong nước đủ khả năng làm chủ,
tránh phụ thuộc bên ngoài, nếu không một ngày không xa thiên hạ nắm công nghệ đào tạo, chúng
ta phải trả giá cho "thành tích" sính ngoại.
g/ Lợi dụng quyền tự chủ, khe hở pháp luật để làm chệch mục tiêu.
Quyền tự chủ và sự giới hạn của quyền tự chủ rất mong manh giữa đúng và sai. Điều này, có thể
người xấu lợi dụng khe hở pháp luật làm chệch mục tiêu giáo dục. Đơn cử như: Sinh viên lợi
dụng tự chủ, kích động, biểu tình, làm ẩu vì những lý do không chính đáng; giảng viên kích động
sinh viên đấu tranh vì "dân chủ", bài giảng viên ngoại hay lợi dụng đánh giá giảng viên thông
qua sinh viên để thực hiện ý đồ cá nhân, loại trừ người mình không ưa
h/ Hình thành tập đoàn "gia đình trị", độc tài, độc đoán lôi bè kết cánh trù dập người tốt

Lựa chọn người thân, người có năng lực yếu kém nhưng "dễ bảo" vào nắm khâu then chốt của
trường nhằm thâu tóm quyền lực, hình thành nên tập đoàn "gia đình trị", chuyện bao che, dung
túng cho những sai phạm có thể xảy ra.
Sự độc tài, độc đoán, thường xảy trong môi trường "gia đình trị", biểu hiện ở nhiều khía cạnh,
góc độ khác nhau. Dễ thấy nhất, khi giảng viên, sinh viên góp ý chân tình, thẳng thắn vì sự phát
triển của trường, song đụng chạm đến quyền lợi "gia đình", bị trù dập, đối xử thiếu văn hóa.
Giảng viên giỏi, "cái tôi" thường lớn, "gia đình" sẽ bố trí cho họ làm việc không đúng chuyên
môn, không thể phát huy được năng lực, cuối cùng tìm cách đưa ra khỏi trường hoặc tự họ chán
nản mà ra đi. Và, còn rất nhiều lý do khác nữa để giảng viên "xứng đáng" phải tự động dời khỏi
trường.
k/ Những vấn đề cần lưu ý trong từng nội dung cụ thể khi trao quyền tự chủ đại học.
- Về tuyển sinh: việc tuyển sinh ồ ạt, cục bộ, tuyển "tay trên" lấy học sinh giỏi, hoặc tuyển ồ ạt
cho vào học năm thứ nhất nhưng đến năm thứ 2, thứ 3 viện lý do loại bớt sinh viên nhằm lấy chất
lượng cao tạo uy tín đầu ra - hình thức vô nhân đạo này đã xuất hiện ở một số trường, nhưng lại
có thể vượt qua được sự kiểm soát của các cơ quan chức năng và xã hội.
- Về tài chính :
Là vấn đề rất nhạy cảm, tiêu cực thường xảy ra ở lĩnh vực này, do vậy Bộ nên lưu ý đến các
trường khi có thương hiệu thường thu học phí cao. Đáng chú ý hơn là các trường, khoa, ngành có
thương hiệu "liên kết" với nhau buộc người học chỉ có lựa chọn duy nhất - chấp nhận.
Thậm chí các trường chỉ đào tạo ngành "hot", ngành được thu phí cao, bỏ ngành xã hội cần nhân
lực nhưng khó thu học phí cao. Hay, năm thứ nhất thu phí thấp để chiêu sinh, nhưng khi học đến
năm thứ 3, 4 đẩy học phí lên cao, tạo cho sinh viên tình thế lưỡng nan không thể bỏ học được.
Có những trường nhận kinh phí Nhà nước nhưng không đầu tư vào đào tạo mà cho thuê tài
chính, hưởng chênh lệch; chi sai mục đích, không cân đối, chi vào những khoản "hấp dẫn", hoa
hồng cao không thiết thực. Chẳng hạn, đầu tư quá nhiều cho xây dựng cơ bản, nhập thiết bị ngoại
trong khi có thể thay thế bằng thiết bị trong nước (thiết bị trong nước, thanh tra thường nắm được
giá cả), không tập trung nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tiền thu được từ hoạt động giáo dục không đầu tư tái tạo, tu bổ để phát triển, có hành vi tiêu cực
tìm mọi cách đạt doanh thu cao nhất, không chú ý đến chất lượng "ngày mai sẽ ra sao". Đây
chính là căn nguyên thương mại hoá giáo dục.

Cần lưu ý khi thực hiện tự chủ trong quản lý, nhiều trường hợp giảng viên có thương hiệu, uy tín,
nảy sinh bệnh "ngôi sao", "sao" này liên kết với "sao" khác đòi hỏi chế độ thù lao quá cao khiến
trường có nhu cầu không đủ khả năng mời giảng dạy.
- Tuyển cán bộ, giảng viên, công nhân viên:
Khi được toàn quyền quyết định nhân sự, các trường dễ nảy sinh việc hợp đồng cán bộ giảng
viên không đủ năng lực, dựa vào quen biết và trả lương, đãi ngộ cao, giảng viên không đủ năng
lực nhưng "dễ bảo"; chỉ tuyển một số người có uy tín để "đối phó" với Bộ phục vụ cho ngành
"hot", số còn lại sử dụng giảng viên không đủ năng lực, trả phí thấp nhằm đạt lợi nhuận cao nhất;
Tuyển và đào thải giảng viên liên tục nhưng không sử dụng nhằm đánh bóng thương hiệu gây
nhầm lẫn cho người học, doanh nghiệp, xã hội.
Các trường đại học và cao đẳng ở tỉnh lẻ có thể mất cán bộ, giảng viên giỏi vì mức lương, chế độ
ưu đãi hấp dẫn của các "đại gia" thành phố dẫn đến thiếu hụt lao động trình độ cao, không đảm
bảo cho việc đào tạo. Bộ nên lưu ý hỗ trợ giúp các trường tỉnh lẻ giữ chân người tài khi giao
quyền tự chủ.
Hiện tượng nhờ người đứng tên để mở trường, phân nhánh, ngành, khoa, cấp bậc đào tạo có thể
xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng đến chất luợng đào tạo, quản lý. Chẳng hạn: cho phép trường
không đủ năng lực mở mã ngành đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, họ sẽ hợp thức hoá đội ngũ cán bộ,
giảng viên, chức vụ lãnh đạo. Dẫn đến hậu quả là một chính sách tốt đẹp, nhưng trở thành miếng
mồi béo bở cho những hoạt động phi giáo dục.
- Chương trình: duy trì chương trình lạc hậu, chắp vá, trang thiết bị không đảm bảo cho việc dạy
học, sản phẩm tạo ra không đáp ứng được nhu cầu xã hội.
- Liên kết quốc tế: thông qua trao đổi giảng viên, đưa người ra nước ngoài bằng hình thức tài trợ
để tranh thủ tuyên truyền cho sinh viên có tư tưởng hướng ngoại.
4. Kết luận
Như đang có một cuộc duy tân mới được khởi xướng, hơn kém 100 năm trước, Phan Châu Trinh
- một trong những bộ óc sáng suốt nhất của Việt Nam đầu thế kỉ 20 - đã thống thiết chủ trương
và bắt tay thực hiện cải cách giáo dục. Nhưng rồi uẩn khúc bi tráng của lịch sử đã khiến ông gãy
gánh giữa đường. Ngày nay, chúng ta có hàng nghìn lần thuận lợi hơn để tiếp tục sự nghiệp dang
dở của ông, sẽ thật hổ thẹn nếu chúng ta để cho công cuộc này dở dang thêm một lần nữa đẩy
nền giáo dục của dân tộc tụt hậu ngày càng xa.

Vấn đề nào cũng có hai mặt, nếu chúng ta khắc phục được mặt trái, phát huy thế mạnh, huy động
nhân lực, trí lực, tài lực của toàn Đảng, toàn dân thì mọi việc trở nên đơn giản.
Tự chủ đại học - mấu chốt của cải cách giáo dục đại học Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên Cập
nhật lúc 12:04 phút, Ngày 14/04/2009
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ Chủ tịch rất coi trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên.
Người thường xuyên động viên tuổi trẻ tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước
nhà.
Cách đây hơn 60 năm (năm 1947), trong Thư gửi thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà Thanh niên muốn làm chủ một cách
xứng đáng thì ngay từ bây giờ phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm
việc để chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ
với những cuộc đấu tranh của xã hội, nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu,
học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống. Thanh niên phải có tinh thần sẵn sàng: “Đâu
Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”; phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn
đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trong di chúc Người
căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng hàng đầu trong việc giáo dục, bồi dưỡng
đoàn viên, thanh niên là giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và gột
rửa chủ nghĩa cá nhân. Người dạy: “Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt:
đạo đức cách mạng, giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kinh tế, lao động và sản
xuất”. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của người cách mạng là nội dung
trước tiên của cuốn sách Đường cách mệnh. Nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng theo
Bác là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời, đất. Nếu thiếu
một trong bốn phẩm chất đó thì con người không trở thành người theo đúng nghĩa. Nhưng đạo

đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày của mỗi người. Do vậy, Bác cho rằng đối với thế hệ trẻ,
trước hết là đoàn viên, thanh niên phải luôn nỗ lực, rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo;
tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến
hành phê bình và tự phê bình để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Khẳng định vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách
mạng cho đoàn viên, thanh niên, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng đã chỉ rõ: “Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội
chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện
thế hệ thanh niên”. Đại hội X của Đảng cũng xác định: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo
dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức, lối sống; tạo môi trường thuận lợi để phát triển
toàn diện”. Trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
đến những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của tuổi trẻ. Từ đó đã có những chủ trương, chính
sách, kế hoạch cụ thể cho đoàn viên, thanh niên được rèn luyện, lao động, học tập, công tác,
được phát huy năng lực, khả năng sáng tạo và sức trẻ của mình vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời gian qua Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
đã phát huy vai trò nòng cốt, cùng với các lực lượng giáo dục khác luôn kiên trì thực hiện nhiệm
vụ giúp Đảng giáo dục và rèn luyện đoàn viên, thanh niên. Nhiều phong trào cách mạng của tuổi
trẻ, tiêu biểu như phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình
nguyện”, “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đã diễn ra hết sức sôi nổi. Kết
quả là đã góp phần tạo dựng nên một lớp thanh niên mới, trong đó có bộ phận thanh niên tiên
tiến đi đầu trên nhiều lĩnh vực, có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vượt qua
khó khăn, vươn lên lập thân, lập nghiệp, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của lớp
thanh niên đi trước. Cũng từ đó mà vai trò, vị trí của đoàn viên, thanh niên ngày càng được
khẳng định trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ mà thế hệ trẻ đã đạt được, thì do tác động mặt trái của cơ

chế thị trường trong thời kỳ mở cửa, do những thiếu sót trong công tác tổ chức, quản lý xã hội
cũng như trong công tác giáo dục đào tạo, sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên
và đặc biệt là do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng, nên một bộ phận đoàn
viên, thanh niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại. Không ít đoàn viên,
thanh niên mất phương hướng chính trị, mất niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, chạy theo
lối sống buông thả, lười lao động, không quan tâm đến học tập và tu dưỡng đạo đức, chỉ thích
hưởng thụ Họ đang dần xa rời những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, coi thường kỷ
cương pháp luật, thậm chí vi phạm pháp luật Mặt khác, các thế lực thù địch đã và đang lợi
dụng, khai thác những hiện tượng tiêu cực đó để tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm
chống phá, ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng,
toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng, lý tưởng cách mạng nhằm “hình thành một lớp thanh niên nam, nữ ưu tú, vững
vàng về chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa”, “có lí tưởng cao đẹp”, “sống có văn
hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”, biết “nuôi dưỡng hoài
bão lớn”, “tự cường dân tộc”, theo tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Bác Hồ. Phải coi đó là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách nhất bởi vì nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất
nước và sự trường tồn của dân tộc ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục (17/11/2010)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời
là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của thế giới, Người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng nền
giáo dục mới Việt Nam. Chỉ riêng về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã là một kho tàng, ở tầm
chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có
tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện,
vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và
nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn
giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và
nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của

Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình
và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ
các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam,
Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư
tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động
thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc
và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải
tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu,
phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người
kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính
sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã
chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được
"đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không
đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo
Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ
nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như:
Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp,
dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật
vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại
đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc

truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho
dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn
xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ
nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa
học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện,
"nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin
kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn
"đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi
nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội
nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài
người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó,
theo Người, "người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế
độ thực dân phong kiến "đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới là
đạo đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,

×