Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

lý thuyết về chính sách tiền tệ và đánh giá việc thực hiện chính sách tiền tệ của việt nam thời kỳ 2006 – 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.33 KB, 40 trang )

Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN
Bộ môn Kinh Tế
o0o
BÀI TẬP LỚN
Môn: kinh tế vĩ mô 1
Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN PHONG NHÃ
Sinh viên: LÊ THỊ CHI
Lớp: KTB51-ĐH3
Mã sinh viên: 40465
Nhóm: N.06

Hải Phòng - 2011
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 1
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế vĩ mô mang lại cho chúng ta cái nhìn bao quát về tình hình
kinh tế của một quốc gia. Việc nghiên cứu những tương tác giữa các bộ phận
của nền kinh tế, giữa hành vi của các nhà doanh nghiệp và của những người
tiêu dùng đơn lẻ được gọi là kinh tế vĩ mô. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô là
xem xét tất cả các xu thế của nền kinh tế, chẳng hạn như mức sử dụng nhân
công, mức tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán và lạm phát. Việc nghiên
cứu nền kinh tế thế giới chủ yếu là nghiên cứu tổng quát về kinh tế vĩ mô.
Kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng chủ yếu bởi chính sách tiền tệ (kiểm soát
lượng cung tiền tệ của một quốc gia) và chính sách tài khóa (kiểm soát thu
và chi của chính phủ). Việc kiểm soát nền kinh tế thực chất nằm trong tay
của Ngân hàng Trung ương (NHTW) và của chính phủ, bởi vì, chỉ có chính
phủ và NHTW mới có thể kiểm soát được lượng tiền tệ để nạp cho nền kinh


tế.
Chính sách tiền tệ (CSTT) của một quốc gia cũng như việc kiểm soát
lượng tiền lưu thông là thuộc chức năng của NHTW. NHTW kiểm soát nền
kinh tế bằng cách gia giảm lượng cung ứng tiền tệ. Thông qua những quy
định chặt chẽ về cung ứng tiền tệ như một công cụ thúc đẩy nền kinh tế,
NHTW giữ cho nền kinh tế khỏi bị biến động quá mức.
Nền kinh tế cũng có thể kiểm soát được bằng điều chỉnh chính sách tài
khóa bằng những khoản thu chi của chính phủ. Việc thu chi của chính phủ
ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế của đất nước. Cho dù tốt hay xấu thì
những ảnh hưởng kinh tế chủ yếu đối với cuộc sống hàng ngày của chúng ta
như lạm phát và thất nghiệp trước tiên là kết quả của những quyết định ở
tầm vĩ mô.
Để tìm hiểu sâu hơn, trong bài tập lớn này, em đề cập đến lý thuyết
về chính sách tiền tệ và đánh giá việc thực hiện chính sách tiền tệ của
Việt Nam thời kỳ 2006 – 2008.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng bài tập lớn của em không thể
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong thầy giáo cùng
bạn đọc góp ý và giúp đỡ để bài tập lớn của em được hoàn thiện hơn.
Bài tập lớn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy
Nguyễn Phong Nhã.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Hải Phòng, ngày 20/11/2011
Sinh viên
Lê Thị Chi
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 2
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: Lý thuyết về chính sách tiền tệ

1. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương
trình học Đại học.
1.1 Giới thiệu về môn học
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô – một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự
vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình
diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nói cách khác, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi
quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối
nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu
bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại
của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng vào giải đáp các câu
hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy
định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực
chất chúng ta khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác
nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta
phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các
biến kinh tế vĩ mô này.
Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu kinh tế vĩ mô
của một quốc gia là tổng sản phẩm trong nước (GDP). GDP đo lường tổng
sản lượng và tổng thu nhập của một quốc gia. Phần lớn các nước trên thế
giới đều có tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm
cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn gốc của tăng trưởng nhanh hơn
các nước khác? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không?
Mặc dù tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng phổ biến trong dài hạn,
nhưng sự tăng trưởng này có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế,
GDP có thể giảm trong một số thời kì. Những biến động ngắn hạn của GDP

được gọi là chu kì kinh doanh. Hiểu biết về chu kì kinh doanh là một mục
tiêu chính của kinh tế học vĩ mô. Tại sao các chu kì kinh doanh lại xuất
hiện? Các lực lượng kinh tế nào gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản
xuất, các lực lượng nào làm cho nền kinh tế phục hồi? Phải chăng các chu kì
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 3
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
kinh doanh gây ra bởi các sự kiện không dự tính được hay chúng bắt nguồn
từ các lực lượng nội tại có thể dự tính trước được? Liệu chính sách của chính
phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn
trong nền kinh tế hay không? Đây là những vấn đề lớn đã được đưa ra và ít
nhất cũng đã được giải đáp một phần bởi kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Tỷ lệ thất nghiệp, một thước đo cơ bản về cơ hội tìm việc làm và hiện
trạng của thị trường lao động, cho chúng ta một thước đo khác về hoạt động
của nền kinh tế. Sự biến động ngắn hạn của tỉ lệ thất nghiệp liên quan đến
những dao động theo chu kì kinh doanh. Những thời kì sản lượng giảm
thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại. Một mục tiêu kinh tế vĩ mô
cơ bản đối với mọi quốc gia là đảm bảo trạng tahí đầy đủ việc làm, sao cho
mọi lao động sẵn sàng và có khả năng làm việc tại mức tiền lương hiện hành
đều có việc làm.
Biến số then chốt thứ ba mà cá nhà kinh tế vĩ mô đề cập đến là lạm
phát. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới trong những thập kỉ
gần đây. Vấn đề đặt ra là điều gì quyết định tỉ lệ lạm phát dài hạn và những
dao động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Sự thay đổi tỉ lệ lạm
phát có liên quan như thé nào đến chu kì kinh doanh? Lạm phát có tác động
đến nền kinh tế như thế nào và phải chăng NHTW nên theo đuổi mục tiêu
lạm phát bằng không?
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong
những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, tất cả

các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm
và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế qua, làm cho việc trao đổi
hàng hóa, luân chuyển các yếu tố sản xuất như vốn, lao động và kĩ thuật trên
thế giới ngày càng thông thoáng hơn, một vấn đề được kinh tế học vĩ mô
hiện đại quan tâm nghiên cứu là cán cân thương mại. Tầm quan trọng của
cán cân thương mại là gì điều gì quyết định sự biến động của nó trong ngắn
hạn và dài hạn? Để hiểu cán cân thương mại vấn đề then chốt cần nhận thức
là mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với dòng chu chuyển vốn
quốc tế. Nhìn chung, khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế
giới bên ngoài so với xuất khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập
khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài, hoặc phải giảm
lượng tài sản quốc tế hiện nắm giữ. Ngược lại, khi xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu, thì nước đó sẽ tích tụ thêm tài sản của thế giới bên ngoài. Như vậy,
nghiên cứu về mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với việc xem xét
tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho vay các công dân nước
khác vay tiền.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 4
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Cũng như các lĩnh vực nghiên cứu khác, kinh tế học nói chung và
kinh tế học vĩ mô nói riêng có những cách nói và tư duy riêng. Điều cần thiết
là phải học được các thuật ngữ của kinh tế học bởi vì nắm dược các thuật
ngữ này sẽ giúp cho bạn trao đổi với những người khác về các vấn đề kinh tế
một cách chính xác. Việc nghiên cứu kinh tế học có một đóng góp rát lớn
vào nhận thức của bạn về thế giới và nhiều vấn đề xã hội của nó. Tiếp cận
nghiên cứu với một tư duy mở sẽ giúp bạn hiểu được các sự kiện mà bạn
chưa từng biết trước đó
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi quốc gia có thể những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng

buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự
lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động
mang tính khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp
những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế đó. Những kiến thức và công
cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng
của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay,
chúng càng được hoàn thiện thâm để có thể mô tả chính xác hơn đời sống
kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân,
kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng
hợp, tức là xem xét sự cân bằng đồng thời tất cả các thị trường hàng hóa và
các nhân tố. xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ
của nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng.
Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu
phổ biến như: tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích thống kê số lớn, mô
hình hóa kinh tế, Đặc biệt những năm gần đây và tương lai, các mô hình
kinh tế lượng, kinh tế vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
1.2. Vị trí của môn học kinh tế vĩ mô trong chương trình học Đại
học.
Để đáp ứng yêu cầu về cải cách và đổi mới nền kinh tế ở nước ta, phục
vụ cho sự nghiệp đào tạo cán bộ kinh tế tài chính trong thời đại mới hiểu về
cách thức của nền kinh tế cùng với cách ứng xử của đất nước đối với các vấn
đề kinh tế trong phạm vi quốc gia, trong chương trình đào tạo đại học, môn
học kinh tế vĩ mô đóng vai trò cơ bản. Môn học này đã trang bị cho sinh
viên những kiến thức cơ sở và bản chất, giúp sinh viên hiểu được những vấn
đề kinh tế đang diễn ra hàng ngày cũng như hiểu được lý do về sự ứng xử
trước những vấn đề đó của nhà nước.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3

Trang 5
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Giúp cho sinh viên kết nối được kiến thức, biện chứng trong tư duy,
môn học kinh tế vĩ mô kết hợp với môn kinh tế vi mô góp phần tạo nền
móng kiến thức cho sinh viên có khả năng lĩnh hội kiến thức chuyên ngành,
kiến thức bộ môn kinh tế học.
2. Trình bày các chức năng của tiền, các nhân tố hình thành
thị trường tiền tệ.
2.1. Các chức năng của tiền
Để được chấp nhận chung trong việc thanh toán, tiền phải có những
chức năng đặc biệt của nó. Nhìn chung, các lý thuyết tiền tệ hiện đại đều
nhấn mạnh ba chức năng căn bản của tiền:
(i) phương tiện thanh toán.
(ii) dự trữ giá trị.
(iii) đơn vị hạch toán.
2.1.1. Phương tiện thanh toán
Phương tiện trao đổi là một vật được mọi người chấp nhận để đổi lấy
hàng hoá và dịch vụ. Tiền được dùng trong giao dịch mua, bán hàng hoá,
dịch vụ. Vậy tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá
trực tiếp. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng
hoá, được coi là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy phân công
lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông tiền tệ trở
thành hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị trường. Chúng ta hãy
tưởng tượng trong nền kinh tế không có tiền, một vị giáo sư kinh tế hộc
muốn uống bia, nhưng chỉ có thể đổi lấy bia bằng bài giảng của mình thì liệu
giáo sư đó có thoả mãn được mong muốn đó không? tuy nhiên trong nền
kinh tế tiền tệ ông giáo sư có thể yên tâm giảng dạy kinh tế học vì muốn
uống bia lúc nào cũng được, vì sẽ nhận được thù lao bằng tiền và có thể sử
dụng tiền để mua đồ uống và các thứ khác mà giáo sư đó có nhu cầu. Quán
bia sẽ chấp nhận những tờ tiền giấy được quy định là tiền bởi vì họ tin rằng

những người khác cũng chấp nhận chúng. Như vậy tiền có giá trị bởi vì dân
cư nghĩ rằng nó có giá trị. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình
lưu thông hàng hoá, được coi là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc
đẩy phân công lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu
thông tiền tệ trở thanh hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị
trường.
2.1.2. Dự trữ giá trị
Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai.
Dân chúng sẽ chỉ giữ tiền một khi họ tin rằng nó sẽ tiếp tục có giá trị trong
tương lai,do vậy tiền có thể hoạt động với tư cách là phương tiện trao đổi chỉ
khi nó cũng đóng vai trò là phương tiện boả tồn và cất giữ giá trị. Tất nhiên,
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 6
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
tiền không phải là phương tiện cất giữ giá trị duy nhất trong nền kinh tế, bởi
vì một người có thể chuyển sức mua từ hiện tại đến tương lai bằng cách nắm
giữ các tài sản khác. Thuật ngữ “tài sản” được dung để chỉ ngững phương
tiện cất giữ giá trị trong đó có tiền và các tài sản khác không phải tiền. Như
vậy, tiền là một loại tài sản tài chính mà nhờ nó đã mở ra hoạt động tín dụng,
thúc đẩy quá trình tích tụ để mở rộng sản xuất.
2.1.3. Đơn vị hạch toán
Với hai chức năng trên tiền trở thành một đơn vị hạch toán rất tiện lợi
và hiệu quả vì nó được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch. Tiền cung
cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị, được dùng để đo lường giá trị của các hàng
hoá khác. Đặc biệt, nó cần thiết cho mọi nền kinh tế, vì khả năng so sánh các
chi phí và lợi ích của các phương án kinh tế. Nó còn là cơ sở để hạch toán
mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng của mọi quốc
gia.
2.2. Các nhân tố hình thành thị trường tiền tệ

Bất cứ một thị trường nào cũng hai chiều hoạt động đó là cung và cầu;
trong thị trường chứng khoán thì có cung của người bán chứng khoán và cầu
người mua chứng khoán hay trong thị trường việc làm có cung người muốn
thuê, tuyển dụng lao động và cầu người lao động. Và trong thị trường tiền tệ
cũng như vậy, có cung tiền và cầu tiền. Đây chính là hai nhân tố giúp hình
thành thị trường tiền tệ.
2.2.1. Cung tiền
2.2.1.1. Các loại tiền
Với chức năng phương tiện thanh toán và dự trữ, giá trị tiền là một
loại tài sản chính. Trong thực tế chúng được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như tiền giấy, tiền kim loại, tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, tín
phiếu, Không phải loại tiền trên đều có khả năng chuyển đổi dễ dàng. Khả
năng này được xác định bởi tính dễ dàng chuyển đổi từ một tài sản tài chính
trở thành một phương tiện có khả năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua
bán hàng hóa và dịch vụ.
Ta có thể phân chia các loại tiền theo tính chuyển đổi như sau:
Tiền mặt lưu hành với sự đa dạng về lượng giá trị danh nghĩa tuy
không sinh lợi, nhưng có khả năng sẵn sàng thanh toán cao nhất và được gọi
là M
o
.
Tiền gửi tài khoản ngân hàng không kỳ hạn có thể viết séc… để thanh
toán cũng là một loại tiền có khả năng thanh toán cao, tuy mức độ sẵn sàng
cho thanh toán có kém tiền mặt.
Vì vậy, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không thời hạn được nhiều
nước coi là tiền giao dịch (M1) – một trong những đại lượng đo lường cung
tiền chủ yếu của một số quốc gia.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 7

Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) tuy chính chuyển đổi kém
hơn so với tiền gửi ngân hàng, nhưng vẫn có khả năng chuyển sang tiền mặt
mà không gặp nhiều khó khăn, nên nó cũng được coi là có khả năng thanh
toán.
M
1
+ tiền tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) được gọi là M
2
. Vì khả năng
thanh toán tương đối cao của loại tiền này, nên cũng có nhiều nước xác định
M
2
là đại lượng đo cung tiền chủ yếu.
Ngày nay, sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống tài chính đã cho ra
đời nhiều loại tài sản tài chính khác ngày càng trở nên quan trọng như các
chứng khoán cơ bản (tín phiếu kho bạc ngắn hạn, ), các giấy xác nhận tài
chính đối với tài sản hữu hình, các chấp nhận thanh toán của ngân hàng,
Chúng cũng có khả năng nhất định nào đó trong thanh toán và vì thế, tùy
theo tính chất dễ chuyển đổi sang thanh toán mà được xếp vào các đại lượng
cung tiền M
3
, M
4
,…
Vậy, mức cung tiền là một khái niệm quan trọng được xác định bởi
khối lượng M (có thể là M
1
hoặc M
2

…) bao gồm các loại tiền có khả năng
thanh toán cao nhất nhằm thỏa mãn nhu cầu trao đổi, giao dịch thường
xuyên của hoạt động kinh tế quốc dân.
Trên giác độ kinh tế vĩ mô, người ta quan tâm nhiều hơn đến M
1
, M
2
;
đồng thời cũng theo dõi chặt chẽ động thái của các thành phần tiền tệ khác.
Vì vậy, khối lượng tiền tệ M tùy mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia có thể lựa chọn
là M
1
và M
2
dùng làm đại lượng chính đo mức cung tiền. Nhiều nước đang
phát triển thường lựa chọn đại lượng đó là M
2
. Tỷ lệ M
2
/GDP là một chỉ số
quan trọng phản ánh khái quát quy mô của nguồn vốn luân chuyển và mức
độ tiền tệ hóa của một nền kinh tế.
2.2.1.2. Định nghĩa mức cung tiền (MS)
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán cao nhất bao
gồm tiền mặt đang lưu hành và tiền gửi không kỳ hạn trong hệ thống ngân
hàng.
Chúng ta cần phân biệt cung tiền với cơ sở tiền tệ, tức là lượng tiền do
NHTW phát hành. Cơ sở tồn tại dưới hai hình thái: tiền mặt ngoài hệ thống
ngân hàng và dự trữ của các NHTM. Trong nền kinh tế hiện đại, cung tiền
bao giờ cũng lớn hơn cơ sở tiền tệ.

2.2.1.3. Các nguồn cung về tiền
NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành
chủ yếu là tiền mặt, được gọi là tiền cơ sở (hay cơ sở tiền).
Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác
nhân kinh tế giữ lại để chi tiêu dần (thanh toán) và một phần nằm tại các
ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 8
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Vậy, khối lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong
các ngân hàng.
H = U + R
Trong đó: H - tiền cơ sở
U- tiền mặt lưu hành
R- tiền dự trữ trong các ngân hàng
Khi các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường tiền tệ, thì việc
xác định tổng lượng tiền tệ trở nên phức tạp hơn, bởi sự quay vòng bộ phận
tiền cơ sở trong tay các ngân hàng. Sự quay vòng đã làm tăng tổng mức
cung tiền nên tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh.
2.2.1.4. Ngân hàng thương mại(NHTM) và “hoạt động tạo ra
tiền” của NHTM
 NHTM là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nhận tiền
gửi và cho vay tạo ra lợi nhuận trên cơ sở lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất
tiền gửi.
 Đặc điểm hoạt động của NHTM:
- Khi NHTM nhận được một khoản tiền gửi thì nó bắt buộc phải giữ
lại để dự trữ theo một tỷ lệ % nào đó do NHTW quy định nhằm:
+ Đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên của NHTM.
+ Theo yêu cầu quản lý tiền tệ của NHTW.

- Tỷ lệ % đó được gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc (quỹ dự phòng quy định)
r
b
=
D
R
b
.100%
Trong đó: R
b
: là lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc.
D: là số tiền gửi
2.2.1.5. Xác định mức cung tiền MS
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm
tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM.
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt
động “tạo ra tiền” của các ngân hàng thương mại. Vậy, mức cung tiền do
những nhân tố nào tác động? Mức cung tiền, trước hết được quyết định bởi
quy mô của lượng tiền cơ sở và sau đó, bởi khả năng tạo ra tiền của NHTM
nhờ số nhân tiền tệ.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 9
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
 Cách xác định mức cung tiền
Hình 1.1 cho biết: tiền cơ sở H là tiền do NHTW phát hành biểu hiện
dưới dạng tiền mặt lưu hành và tiền mặt dự trữ tại ngân hàng. Các khoản tiền
gửi ngân hàng là bội số của tiền dự trữ của ngân hàng.
Hình 1.1 trình bày mối quan hệ giữa lượng tiền cơ sở và mức cung
tiền. Như vậy trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân, số nhân tiền tệ

chính là tỷ số giữa mức cung tiền là lượng tiền cơ sở.
m
M =
H
MS
Trong đó: m
M
– số nhân tiền tệ
Từ đó ta có thể xác định mức cung tiền (MS) sẽ là:
MS = m
M
.H
Trong hình 1.1 mức cung tiền bao gồm hai thành phần tiền mặt lưu
hành và tiền gửi không kỳ hạn.
MS = U + D
Trong đó: MS: mức cung tiền
U: tiền mặt lưu hành
D: tiền gửi
Thì tỷ lệ dự trữ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi là:
s =
D
U
Và tỷ lệ dự trữ thực tế sẽ là:
r
a
=
D
R
a
Trong đó: r

a
: tỷ lệ dự trữ thực tế
R
a
: dự trữ thực tế
D: tiền gửi
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Mức cung tiền (MS)
Tiền mặt
lưu hành
Dự trữ tiền
mặt của
các NH
Các khoản tiền
gửi không kỳ hạn
Hình 1.1. Xác định mức cung tiền
Trang 10
Tiền cơ sở (H)
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Số nhân tiền tệ (m
M
) sẽ là:
m
M
=
rs
s
+
+1


 Các nhân tố tác động đến mức cung tiền danh nghĩa bao gồm
- Tiền cơ sở (H): nếu H nhiều thì MS tăng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong dân (s): tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong dân càng
nhỏ thì số nhân tiền tệ càng lớn. Tỷ lệ này phụ thuộc vào:
+ Thói quen thanh toán của xã hội
+ Phụ thuộc tốc độ tăng của tiêu dùng: tốc độ tiêu dùng càng tăng thì
s càng tăng.
+ Khả năng đáp ứng tiền mặt của các NHTM: khả năng đáp ứng càng
cao thì s càng thấp.
- Tỷ lệ dự trữ thực tế (r
a
): tỷ lệ dự trữ thực tế càng nhỏ thì số nhân tiền tệ
càng lớn. Tỷ lệ dự trữ thực tế phụ thuộc vào ba yếu tố:
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW
+ Tính không ổn định của lượng tiền mặt vào và ra khỏi các NHTM
đã bắt buộc các NHTM muốn dự trữ tiền mặt nhiều hơn.
+ Sự thiệt hại do phải trả lãi suất nếu phải vay tiền do thiếu hụt dự trữ.
 Ngoài ra có thể xác định MS theo phương trình trao đổi tiền tệ
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền
kinh tế. Vì tiền tệ có chức năng là phương tiện trao đổi nên khi hàng hóa và
dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn, thì cũng cần thiết phải thay đổi cung
tiền. Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng
của tiền tệ:
M.V=P.Q
Trong đó: M: là mức cung tiền; khối lượng tiền
V: là vận tốc lưu thông tiền tệ
P: là giá trung bình
Q: là sản lượng thực tế
do đó: P.Q = GNP

n
Giả sử tốc độ lưu thông (V) là ổn định thì mức cung tiền (M) cần phải
được điều chỉnh theo sự thay đổi quy mô của GNP
n
. Sự thay đổi mức cung
tiền có tác động trực tiếp đến lãi suất thị trường của tiền tệ và qua lãi suất tác
động đến tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, Do vậy, việc kiểm soát mức cung
tiền (M) được coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý
vĩ mô.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 11
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
2.2.2. Mức cầu về tiền (LP,MD)
2.2.2.1. Các loại tài sản tài chính
- Tài sản giao dịch (thanh khoản) không tạo ra thu nhập, nhưng được
dùng để thanh toán khi mua hàng hóa dịch vụ…
- Các tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết
kiệm, ) nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hóa.
Hầu hết các hộ gia đình và các doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới
dạng kết hợp cả hai loại tài sản này. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch
được gọi là tiền và mọi tài sản khác có thu nhập được gọi chung là trái
phiếu.
2.2.2.2. Mức cầu về tiền

Định nghĩa: Mức cầu về tiền là khối lượng tiền cần để chi tiêu
thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất kinh
doanh.
 Phân biệt cầu tiền danh nghĩa (LP
n

) và cầu tiền thực tế (LP
r
):
- Khi giá cả tăng lên, mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo
thu mua đủ khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định, như vậy, thực chất của
mức cầu về tiền tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế.
- Mức cầu tiền thực tế (LP
r
) phụ thuộc vào 2 yếu tố:
+ Thu nhập thực tế: Con người giữ một phần tài sản ở dạng tiền để có
thể mua được hàng hóa, dịch vụ. Khi thu nhập tăng, tiêu dùng cũng sẽ tăng
và theo đó cầu tiền cũng tăng lên.
+ Lãi suất: Chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền và thu nhập từ lãi suất
mà các tài sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất
chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Trong các điều kiện khác không
thay đổi, khi lãi suất giảm xuống người dân muốn để nhiều tài sản dưới dạng
tiền hơn và ít tài sản dưới dạng trái phiếu hơn.
LP
r
=
P
LP
n
 Hàm cầu về tiền:
- Định nghĩa: Quan hệ tỉ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi
là hàm cầu về tiền (hàm ưa thích tiền thanh khoản).
- Hàm này có dạng như sau:
LP = kY - hi
Trong đó: LP: mức cầu tiền thực tế
Y: thu nhập

i : lãi suất
k, h: các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối
với thu nhập và lãi suất.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 12
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
- Đồ thị cầu về tiền:
Hình 1.1 cho biết:
+ Hàm LP biến thiên giảm theo lãi suất.
+ Đường LP
0
là đường cầu về tiền khi thu nhập ở Y
0
.
+ Khi thu nhập tăng tới Y
1
thì đường LP dịch chuyển đến LP
1
.
Cùng mức lãi suất i
o
nhưng cầu về tiền sẽ lớn hơn (M
1
> M
0
) khi thu
nhập tăng lên (Y
1
> Y

0
).
- Khi tính mức cầu về tiền, người ta còn chú ý đến nhu cầu dự phòng. Đó là
những khoản chi tiêu cần thiết nhưng chưa có khả năng dự tính trước, nên
cần phải giữ một lượng tiền nào đó để dự phòng. Khi dự tính mức cầu tiền
dự phòng, người ta thường so sánh giữa thiệt hại của việc không sẵn tiền với
khoản lãi mất đi do giữ tiền lại cho nhu cầu này.
2.2.2.3. Mức cầu trái phiếu, mối quan hệ giữa mức cầu về tiền và
câu trái phiếu
 Cầu về trái phiếu: là mức cầu về những loại tài sản có thể sinh lời,
các loại trái phiếu hay sinh lời nhưng chứa những rủi ro giá của chúng được
xác định trên thị trường nên rất khó dự đoán. Giữ tiền thì không tạo ra lãi
suất nhưng lại không gặp rủi ro trừ trường hợp lạm phát.
 Để đơn giản hóa ta chia toàn bộ tài sản tài chính thành 2 loại: tiền
và trái phiếu. Mỗi người đều tự quyết định lựa chọn sự phân phối tài sản của
mình theo hai loại trên (được gọi là quyết định tích sản) sao cho có thu nhập
cao, an toàn nhất… Ta có thể biểu hiện sự phân phối trên bằng đẳng thức:
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Y
o
Y
1
I
I
o
Y
LP
1
M

1
M
o
LP
o
Lượng tiền thực tế
Hình 1.2. Đường cầu tiền
Trang 13
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
LP + DB =
P
WN
Trong đó: LP: cầu tiền thực tế
DB: giá trị thực tế của cầu các loại trái phiếu
P : chỉ số giá
WN: tổng tài sản tài chính danh nghĩa
Tổng giá trị tài sản tài chính trong nền kinh tế có thể đo lường được
từ những loại tài sản cụ thể đã được cung ứng như mức cung tiền, số lượng
và giá trị trái phiếu các loại đã đưa ra thị trường… và được biểu hiện bằng
đẳng thức:
P
WN
=
P
MS
+ SB
Trong đó:
P
MS
: là mức cung tiền thực tế

SB: giá trị thực tế của cung các loại trái phiếu.

P
WN
: là tổng các tài sản tài chính thực tế đã cung ứng ra thị
trường.
Thay vào ta có:
LP + DB =
P
MS
+ SB
Suy ra:
LP -
P
MS
= SB – DB
hay (LP -
P
MS
) – (SB – DB) = 0
Giả sử rằng, thị trường tiền tệ cân bằng thì: LP -
P
MS
= 0
và khi đó: SB – DB = 0
Nghĩa là thị trường trái phiếu cũng cân bằng.
Tóm lại, khi thị trường tiền tệ cân bằng thì thị trường tài sản cũng cân
bằng hoặc nói theo cách khác, thị trường tài chính nói chung cũng cân bằng.
3.Phân tích chính sách tiền tệ dưới góc độ lý thuyết kinh
tế học.

Về mặt lý thuyết kinh tế, chính sách tiền tệ được xem là một công cụ
chính sách quan trọng nhằm tác động đến nền kinh tế để đạt được các mục
tiêu như ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát giá cả. Tác động của chính sách
tiền tệ luôn được thể hiện rõ nét và có uy lực tới nền kinh tế nói chung và thị
trường tài chính nói riêng so với nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác trong
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 14
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
suốt quá trình vận hành của nền kinh tế, đặc biệt là trong ngắn hạn, thông
qua các chỉ tiêu tiền tệ như: cung tiền, tín dụng, lãi suất và tỷ giá hối đoái,
mà mục tiêu cuối cùng của công tác điều hành chính sách tiền tệ là tác động
đến thị trường tiền tệ, hoạt động kinh tế và mức giá cả trong nền kinh tế.
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền
trong nước luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành
CSTT phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền
với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng
cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu
của lưu thông. Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai
hướng sau:
- CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường
hợp này, chính sách nhằm chống suy thoái.
- CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm
hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp
này CSTT nhằm kiềm chế lạm phát.
Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (Money Supply) làm
thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu
của các khu vực nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến
GDP (thực tế, tiềm năng) và lạm phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị

danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa và dịch vụ - đó chính là mức giá
chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá chung trong dài hạn.
Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng thể
các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu
của chính sách kinh tế, thông qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng
tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối
lượng tiền.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 15
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
CHƯƠNG II: Đánh giá việc thực hiện chính sách
tiền tệ của Việt Nam thời kỳ 2006
÷
2008
1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
1.1. Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2006
Năm 2006 đã chứng kiến một số biến đổi quan trọng liên hệ đến nền
kinh tế Việt Nam như chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và có Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn. Những kết quả
đạt được rất khả quan, thể hiện sự cố gắng lớn của các cấp, các ngành, các
địa phương Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế
giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản vào cuối năm 2006, Hội nghị APEC 14 thành
công tốt đẹp đang làm sôi động dòng vốn đầu tư nước ngoài mới vào Việt
Nam.
Thành tựu:
- Trong năm 2006 có bốn biến chuyển kinh tế đặc biệt là:
Thứ nhất là Việt Nam giảm thuế đối với tất cả những hàng nhập cảng
từ tất cả 10 thành viên của khối AFTA xuống còn 0-5% kể từ ngày

01/01/2006. Đến năm 2012, Việt Nam sẽ hoàn toàn bỏ thuế nhập cảng như
các nước khác trong khối AFTA để cải thiện tình trạng kinh tế trước sự cạnh
tranh của Trung Quốc, theo như nhận định của những nhà quan sát quốc tế.
Thứ hai là Việt Nam đã hoàn thành trách nhiệm tổ chức một hội nghị
lớn nhất từ trước đến nay đó là Hội Nghị APEC vào giữa tháng 11, quy tụ
nguyên thủ và đại diện của 21 quốc gia và lãnh thổ.
Thứ ba là Việt Nam đã được Hoa Kỳ chấp thuận cho hưởng quy chế
PNTR. Kết qủa là kể từ nay việc buôn bán giữa Hoa kỳ với Việt Nam sẽ
không còn phải được cứu xét lại hàng năm như trước đây.
Thứ tư là WTO đã nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức
này. Đây là một diễn biến quan trọng nhất đòi hỏi Việt Nam thực hiện
những cải tổ kinh tế sâu rộng về nhiều lĩnh vực kể cả nông nghiệp, dịch vụ,
công nghệ, luật pháp, môi trường, lao động, hành chính, v.v. Quy chế hội
viên WTO vừa tạo cơ hội phát triển kinh tế và đưa ra những thử thách lớn
lao cho Việt Nam. Quy chế này bắt đầu có hiệu quả vào ngày 11/01/2007.
- Việt Nam là một nước mức độ kinh tế tăng trưởng cao nhất trong
vùng châu Á chỉ đứng sau Trung Quốc. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu
do Quốc hội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 16
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước tăng 8,2% (kế hoạch là
8%). GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720
USD (năm 2005 đạt trên 10 triệu đồng, tương đương 640 USD); giá trị tăng
thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 - 3,5% (kế hoạch là
3,8%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,4 - 10,5% (kế hoạch là
10,2%); ngành dịch vụ tăng 8,2 - 8,3% (kế hoạch là 8%); tổng kim ngạch
xuất khẩu tăng khoảng 20% (kế hoạch là 16,4%); tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội đạt khoảng 41% GDP (kế hoạch là 38,6%); tốc độ tăng

giá tiêu dùng khoảng 7 - 7,5% (kế hoạch là thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh
tế); tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động (kế hoạch là 1,6 triệu); giảm tỷ
lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 19% (kế hoạch là 20%); tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm dưới 24% (kế hoạch là 24%); mức giảm
tỷ lệ sinh 0,3%o (kế hoạch là 0,4%); tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên
258 nghìn tỷ đồng (dự toán là 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 19%; tổng chi ngân
sách nhà nước đạt trên 315 nghìn tỷ đồng (dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng),
tăng 20%; bội chi ngân sách nhà nước trong mức 5% GDP (dự toán là 5%);
trong 8 chỉ tiêu còn lại, có 6 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, gồm chỉ tiêu về
đào tạo nghề dài hạn, số lượng địa phương hoàn thành phổ cập trung học cơ
sở, tuyển mới đại học cao đẳng, tỷ lệ che phủ rừng, cung cấp nước sạch cho
đô thị và tỷ lệ xử lý số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Còn 2
chỉ tiêu đạt thấp so với kế hoạch, là tuyển mới trung học chuyên nghiệp và tỷ
lệ dân số ở nông thôn được cung cấp nước sạch.
- Một số lĩnh vực đạt kết quả nổi bật, như tổng nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội năm 2006 đạt khoảng 41% GDP, là mức cao nhất trong nhiều năm
qua, trong đó nguồn vốn của doanh nghiệp dân doanh chiếm gần một phần
ba; đây là một cố gắng rất lớn trong việc huy động các nguồn lực cho đầu tư
phát triển và là yếu tố rất quyết định cho tăng trưởng GDP. Sản lượng lương
thực vẫn đạt khoảng 40 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng
thời duy trì xuất khẩu gạo năm thứ 2 liên tiếp đạt trên 5 triệu tấn và đạt trên
1 tỷ USD trong năm 2006. Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng trưởng
khá cao, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng khá so với cùng kỳ
năm trước; các công trình trọng điểm quốc gia và các dự án đầu tư nhóm A
được tập trung chỉ đạo, cơ bản kiểm soát được tiến độ. Xuất khẩu hàng hoá
tăng cả về số lượng, mặt hàng và tổng kim ngạch; thị trường xuất khẩu tiếp
tục được mở rộng; nhập siêu giảm nhiều so với các năm trước. Lĩnh vực
dịch vụ đạt mức tăng khá cao.
- Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được tiến hành
tích cực; năm 2006 cổ phần hóa 420 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh

nghiệp nhà nước được cổ phần hóa lên 3.480, hầu hết là hoạt động có hiệu
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 17
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
quả và đã có 81 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán; các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước tiếp tục được kiện toàn, sản xuất
kinh doanh đạt kết quả tốt hơn. Đã có hơn 41.000 doanh nghiệp dân doanh
được thành lập và đăng ký kinh doanh, thu hút một nguồn lực lớn của xã hội
vào sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt kết quả khả
quan, với tổng số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt khoảng 6,6 tỷ USD và
số vốn thực hiện khoảng 3,7 tỷ USD.
- Các hoạt động khoa học - công nghệ trọng điểm được đẩy mạnh. Cơ
chế quản lý tiếp tục được đổi mới theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của tổ chức khoa học - công nghệ và thực hiện xã hội hoá nhằm
huy động các nguồn lực cho công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học -
công nghệ. Nhiều doanh nghiệp chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và ứng
dụng khoa học. Hình thức chợ và sàn giao dịch thiết bị công nghệ được tổ
chức ở một số địa phương, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và
ngoài nước đã có những kết quả thiết thực.
- Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai
tích cực. Công tác tổ chức thi tuyển ở các cấp có tiến bộ. Quy mô đào tạo
bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng. Cơ sở vật
chất nhà trường được củng cố, tăng cường; gần 90% địa phương đã hoàn
thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp, cải thiện điều kiện dạy và học,
tạo diện mạo mới cho các cơ sở giáo dục. Các trung tâm học tập cộng đồng
tiếp tục được mở rộng. Cuộc vận động chống tiêu cực trong ngành giáo dục
đã có một số chuyển biến, được sự đồng thuận của xã hội.
- Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tốt hơn, được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Các xã, các hộ sau khi thoát nghèo được chú ý hỗ

trợ các điều kiện để phát triển sản xuất.
- Sự chỉ đạo chủ động, quyết liệt, sát sao của trung ương và các địa
phương, cùng với sự nỗ lực của nhân dân, của các lực lượng và cơ quan
chức năng, chúng ta đã khống chế, ngăn chặn được sự bùng phát, lan rộng
của dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc; đặc biệt đã hạn chế
được tối đa sự tổn thất về người và tài sản trong cơn bão số 6, cơn bão mạnh
nhất trong nhiều năm qua. Trong thiên tai bão lũ đã có nhiều hành động,
nhiều tấm gương tiêu biểu trong phòng chống và cứu trợ, đùm bọc lẫn nhau,
cùng nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn.
- Mức lương tối thiểu chung và lương hưu, trợ cấp xã hội đã được
điều chỉnh tăng lên từ ngày 01/10/2006, sớm hơn so với lộ trình cải cách tiền
lương, đồng thời với việc thực hiện các biện pháp để kiểm soát và bình ổn
giá cả.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 18
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
- Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh. Đã
tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí và Luật Phòng chống tham nhũng; ban hành và tổ chức thực hiện
Chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng
phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III của Đảng.
- Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo được chỉ đạo tích cực hơn; tệ nạn xã hội và tội phạm
hình sự tiếp tục được kiềm chế; kịp thời phát hiện và làm thất bại nhiều âm
mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chính trị xã hội ổn định,
tạo môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả.
Một số hoạt động đối ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước được triển khai
và đã nâng thêm vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sau 11

năm kiên trì đàm phán, chúng ta đã kết thúc đàm phán cả song phương và đa
phương để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo phương án đề
ra. Đến nay đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị và thực hiện thành công
nhiều hoạt động quan trọng để tiến đến tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC, lần
đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
→ Những thành tựu đạt được trong năm 2006 bắt nguồn từ thế và lực của
đất nước. Sự nỗ lực và hoạt động có hiệu quả của cả hệ thống chính trị và
những cố gắng phấn đấu vượt bậc để vượt qua thách thức khó khăn của các
tầng lớp nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp, đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp để phát triển đất nước.
Yếu kém :
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn
nhận rằng, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Tốc độ
tăng GDP tuy vượt kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng. Chất lượng của sự tăng trưởng, nhất là sức cạnh tranh của nền kinh tế
tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều yếu kém. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực của nhà
nước và xã hội còn kém hiệu quả. Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo, bảo vệ - cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ nhân dân
vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế
đối ngoại còn nhiều trở ngại. Đời sống nhân dân nhiều nơi ở nông thôn, nhất
là miền núi, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Cải cách hành chính vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí tuy
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 19
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
có được những kết quả, nhưng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.
Tai nạn giao thông vẫn ở mức cao.

- Lạm phát cao là một trong những rủi ro cho sự phát triển kinh tế.
Lạm phát gia tăng sẽ kéo theo lãi xuất và và chi phí sản xuất. Hậu quả là sự
gia tăng đầu tư sẽ bớt vì tiền lời cao và giảm bới khả năng cạnh tranh của
hàng xuất cảng. Giới nghèo với đồng lương cố định sẽ chịu nhiều thiệt thòi
hơn cả. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng lạm phát ở mức độ thấp
không có ảnh hưởng hoặc còn kinh tế phát triển. Trái lại, khi lên cao tới một
mức nào đó (trên 1/3 mức phát triển) lạm phát sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực,
nhất là đối với những nước đang phát triển.
→ Kinh tế Việt Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngoài
thuận lợi và chính sách vĩ mô thận trọng. Trong khi đó, những trở ngại bên
trong đã và đang làm giảm bớt tốc độ phát triển. Nguy cơ Việt Nam đang
phải đối phó là sự phát triển thiếu quân bình giữa các vùng và giữa hai giới
giàu - nghèo. Việc gia nhập WTO sẽ giúp kinh tế phát triển thêm nhưng
đồng thời sẽ làm cho sự phân hoá xã hội ngày càng trầm trọng nếu Việt Nam
không sẵn sàng đáp ứng với những xáo trộn do sự hội nhập kinh tế toàn cầu
tạo ra. Việc gia nhập WTO đánh dấu một giai đoạn đổi mới thực sự. Nó đòi
hỏi Việt Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu rộng và khó khăn hơn
những gì đã làm trong hai thập niên vừa qua. Việt Nam cần phải chú trọng
hơn về sự phát triển hạ tầng cơ sở và chất lượng của sự phát triển thay vì chỉ
máy móc nhắm vào những chỉ tiêu. Với đà phát triển hiện nay, Việt Nam
vẫn không có cơ may để thoát khỏi tình trạng tụt hậu và tham nhũng so với
những nước láng giềng.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2007
Kinh tế - xã hội Việt Nam trong năm 2007 đã có nhiều thành tích
đáng khích lệ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn
đầu tư, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, thị trường chứng khoán, vị thế
quốc tế, giảm nghèo…
Thành tựu:
- Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao, đạt được mức của mục
tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên

thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn
lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân
đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839
USD/người. Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu
thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 20
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Theo nhóm
ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp - thủy sản vốn tăng thấp, năm nay lại gặp
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh lớn nên tăng thấp và tỷ trọng trong GDP
của nhóm ngành này tiếp tục giảm (hiện chỉ còn dưới 20%). Công nghiệp -
xây dựng tiếp tục tăng hai chữ số, cao nhất trong ba nhóm ngành, nên tỷ
trọng trong GDP tiếp tục tăng (hiện đạt gần 42%), phù hợp với giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ được mở cửa rộng
hơn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nên đã
tăng cao hơn tốc độ chung. Theo thành phần kinh tế, kinh tế ngoài nhà nước,
đặc biệt là kinh tế tự nhiên, tăng trưởng cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng
của khu vực này trong GDP đã cao lên và hiện đã đạt cao hơn khu vực nhà
nước (46% so với dưới 37%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
trưởng cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng trong GDP cũng cao lên (hiện đạt
trên 17%). Khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có
tổng tỷ trọng trong GDP cao hơn, lại có tốc độ tăng cao hơn khu vực nhà
nước, nên đã trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế chung, phù hợp với
đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập.
- Tăng trưởng kinh tế cao đạt được do sự tác động của cả hai yếu tố
đầu vào và đầu ra.
+ Ở đầu vào, vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 40,6%, là tỷ lệ
thuộc loại cao nhất từ trước tới nay, cũng thuộc loại cao nhất so với các

nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44%
của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tỷ lệ góp phần làm cho kinh tế
nước này liên tục trong nhiều năm tăng trưởng hai chữ số). Đáng lưu ý,
trong khi tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn
đầu tư phát triển tiếp tục giảm xuống, thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực
kinh tế ngoài nhà nước tăng lên (đạt 38%); hiệu quả đầu tư của khu vực này
lại cao gấp đôi khu vực kinh tế nhà nước. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục
mới ở cả ba nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp đạt được sự vượt trội cả về
tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung (20,3 tỉ); cả về quy mô bình quân một
dự án (trên 14 triệu USD/dự án); cả về cơ cấu đầu tư vào nhóm ngành dịch
vụ; cả về lượng vốn thực hiện (4,6 tỉ USD). Nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức cuối năm 2006 (cam kết cho năm 2007) đạt mức kỷ lục (4,4 tỉ
USD); cuối năm 2007 (cam kết cho năm 2008) còn đạt kỷ lục cao hơn (trên
5,4 tỉ USD). Lượng vốn giải ngân năm nay đạt 2 tỉ USD, vừa vượt kế hoạch,
vừa đạt cao nhất từ trước tới nay. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp năm nay ước
đạt 5,6 tỉ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước.
+ Ở đầu ra, cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng cao. Tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng tới gần 23%; nếu loại
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 21
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
trừ yếu tố tăng giá bình quân năm nay so với năm trước (8,3%), thì vẫn còn
cao gấp 1,6 lần tốc độ tăng GDP (13,7% so với 8,48%). Dung lượng thị
trường ước đạt gần 45 tỉ USD, với dân số đông mà hằng năm vẫn còn tăng
cao, tiêu dùng của dân cư vừa tăng về số lượng, vừa đa dạng về mẫu mã,
chủng loại, vừa cao hơn về chất lượng và tỷ lệ tiêu dùng thông qua việc mua
và bán trên thị trường tăng nhanh, vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế
trong nước, vừa có tác động "mời gọi" các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu
đạt sự vượt trội cả về quy mô (48,4 tỉ USD, bằng trên 68% so với GDP), cả

về tốc độ tăng (21,5%, vượt kế hoạch, cao gấp 2,3 lần tốc độ tăng GDP).
- Tăng trưởng kinh tế cao nên chỉ số phát triển con người (HDI) đạt
được nhiều sự vượt trội, khả năng năm 2007 đạt trên 0,75%. Thứ bậc về
HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ
bậc trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính
bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng
chục nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam, phù hợp với nền
kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường theo định
hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tỷ lệ
nghèo đã giảm (từ 17,8% xuống còn 14,8%).
- Vị trí trên trường quốc tế của Việt Nam tăng khi chính thức trở thành
thành viên WTO, được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Yếu kém:
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 cũng bộc lộ một số
hạn chế, bất cập. Ngoài những hạn chế, bất cập tồn tại từ năm trước, thì năm
nay nổi lên ba vấn đề lớn:
- Giá tiêu dùng tăng cao và cao hơn tốc độ tăng GDP.
- Nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu.
- Ách tắc và tai nạn giao thông nghiêm trọng
1.3. Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2008
Kế hoạch điều chỉnh do Đảng và Nhà nước ta đưa ra (tháng 4-2008)
đã có sự chuyển hướng và xác định nhiệm vụ trọng tâm: Phấn đấu kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng hợp
lý, bền vững; trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
Thành tựu:
- Qua gần 10 tháng thực hiện quyết liệt, với quyết tâm cao “tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước đã có những chuyển biến tích cực”. Việc kiềm
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3

Trang 22
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đã đạt được những kết quả bước đầu có
ý nghĩa quan trọng (chỉ số tăng giá tiêu dùng giảm dần từ tháng 6-2008,
riêng tháng 9 còn 0,18%). Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá
(cả năm khoảng 6,5% - 7%). An sinh xã hội được quan tâm và triển khai
thực hiện có kết quả,…
- Nhìn nhận về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2008, Báo cáo của
WB đánh giá nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ tăng trưởng chậm lại theo tình
hình kinh tế chung của thế giới.
- Tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 8% trong năm 2008, trong trường
hợp thấp nhất, tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ rơi vào khoảng 7,5%.
- Giá xăng dầu trong nước tăng cũng phản ánh việc từng bước xoá bỏ
trợ giá của Chính phủ đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước.
- Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2007 đã ghi
nhận cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đáng lo ngại, ước khoảng 9,3% -
9,7% GDP. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng gần 40%, trong đó máy móc
thiết bị tăng 56,5% do nhu cầu đầu tư của các dự án lớn trong nước. Mức
tăng nhập khẩu cũng cao tương tự đối với nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu
dùng trong sản xuất hàng may mặc và giày dép xuất khẩu, hoá chất, sản xuất
thức ăn giá súc… ước tăng khoảng 40%.
- Cũng đồng thời trong năm 2007, giá tài sản tại Việt Nam tăng cao
nhất trong vòng vài chục năm trở lại đây, khi mà Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Việt Nam là xúc tác, trợ lực cho giá cổ phiếu những tháng đầu năm
2007 tăng phi mã, đã có lúc VN-Index lên đến trên 1.200 điểm.
- Dựa theo tiêu chuẩn quốc tế thì mức thâm hụt ngân sách của Việt
nam trong năm 2007 ước khoảng 1% GDP.
- Thâm hụt ngân sách chung (bao gồm cả các hạng mục chi tiêu ngoài
ngân sách như phát hành trái phiếu của Chính phủ cho phát triển giáo dục,
hạ tầng cơ sở, tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại quốc doanh) ước

tính ở mức 5% GDP.
-Tăng trưởng tín dụng ngân hàng ở mức rất cao, từ 25,4% vào năm
2006 lên hơn 50% tính đến hết tháng 11/2007.
Tốc độ tăng quá lớn này đã gây ra những mối quan ngại về chất lượng
các hạng mục đầu tư của ngân hàng. Tín dụng của các ngân hàng cổ phần
tăng cao đến 95%, trong khi mức tín dụng của các ngân hàng thương mại
quốc doanh chỉ ở mức 25%.
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 23
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam lợi thế trong việc thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2007, cam kết đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI) tăng gấp đôi năm 2006, lên mức 20,3 tỷ USD, tổng giá trị
thị trường chứng khoán đạt tới 43% GDP tính đến cuối năm 2007.
Yếu kém:
Năm 2008, thoạt đầu được nhận định là năm có nhiều thuận lợi.
Nhưng tình hình thực tế đã diễn ra theo chiều ngược lại. Ngay từ Quý I, do
tác động của tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp cộng với những
khó khăn mới nảy sinh từ trong nước, nhiều chỉ dấu của lạm phát và sự mất
ổn định kinh tế vĩ mô đã xuất hiện ngày một nghiêm trọng.
Dựa trên các số liệu cập nhật của Tổng cục Thống kê Việt Nam và
tình hình chung của kinh tế thế giới, WB cho rằng nền kinh tế Việt Nam
đang bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng.
Việc lượng ngoại tệ vào nhiều đã khiến cho NHNN Việt Nam “đau
đầu” trong việc đưa ra những chính sách ứng xử thích hợp.
Trong thời gian cuối năm 2007 - đầu năm 2008, NHNN đã có những
biện pháp dường như trái ngược nhau dẫn đến tình trạng thiếu khả năng
thanh toán cuả hệ thống ngân hàng thương mại. NHNN mua vốn vào để duy
trì tỷ giá tiền đồng đã làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của tiền đồng

trong nền kinh tế.
Cơn sốt cổ phiếu chuyển qua kênh bất động sản vào những tháng cuối
năm 2007, giá nhà đất tăng đột biến, gây ra tình trạng bong bóng trên thị
trường bất động sản (BĐS).
Lạm phát vẫn còn cao, tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% (tháng
12/2006) lên mức 15,7% tính đến tháng 2/2008, (cả năm khoảng 24%); nhập
siêu còn lớn (cả năm khoảng 19,4 tỉ USD bằng khoảng 29% kim ngạch xuất
khẩu); các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm
so với trước, chất lượng, hiệu quả còn thấp. Đời sống nhân dân, nhất là
người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai còn nhiều khó
khăn; việc xử lý nhiều vấn đề xã hội bức xúc còn hạn chế.
Nhận xét chung về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn
2006 - 2008:
Về cơ bản thì tình hình kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này
tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, chỉ số phát
triển con người không ngừng được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người
ngày một cải thiện và đời sống của nhân dân được nâng lên. Vị thế của Việt
Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 24
Bài tập lớn môn: Kinh tế vĩ mô 1
Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế đặc biệt khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của WTO. Gia nhập WTO đem lại cho Việt
Nam nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đem lại cho Việt Nam những
thách thức không nhỏ. Việt Nam hiện nay được đánh giá là một điểm đến
cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi vì Việt Nam có một môi trường kinh
doanh ổn định…
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa

thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế.
Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng,
chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội
còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Môi trường ở nhiều nơi đang bị
ô nhiễm nặng. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt
Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành
đầy đủ, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và
đe dọa chủ quyền quốc gia.
2. Trình bày mục tiêu của chính sách tiền tệ thời kỳ 2006
÷
2008
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản
lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay NHTW để đạt được những mục đích
đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được
toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao
gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp
thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc
trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ nhằm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung
tiền. Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để
điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được
lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ
sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền.
 Mục tiêu của Chính sách tiền tệ:
Rõ ràng là NHTW có thể điều chỉnh đến việc cung ứng tiền để tác
động đến tổng cầu và do đó tác động một cách tiềm tàng đến mức tăng
trưởng GDP thực tế, mức thất nghiệp và mức tăng của giá cả.
Do đó, về mặt lý thuyết, NHTW có thể dùng chính sách tiền tệ để
ngăn chặn sự biến động của nền kinh tế trong chu kỳ kinh tế. Chính sách

Họ và tên: Lê Thị Chi
Lớp : KTB51- ĐH3
Trang 25

×