Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý nhanh phế thải chăn nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 132 trang )

































BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VIỆN THỔ NHƯỠNG NÔNG HÓA
*





BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI


Tên đề tài:

“Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý nhanh phế thải chăn nuôi”
Thuộc chương trình Công nghệ Sinh học Nông nghiệp và Thủy sản
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn



Chủ nhiệm đề tài: TS. Bùi Huy Hiền











8446



Hà Nội, 5/2010


1
Báo cáo tổng kết kết quả thực hiện đề tài
“Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý nhanh phế thải chăn nuôi”
TS. Bùi Huy Hiền và cộng sự
I. THÔNG TIN CHUNG
Tên đề tài: “Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý nhanh phế thải chăn
nuôi”
Chủ nhiệm đề tài: TS. Bùi Huy Hiền
Năm sinh: 11 tháng 8 năm 1956
Nam/Nữ: Nam
Học vị: Tiến sĩ Năm đạt học vị: 1985
Ch
ức danh khoa học: Nghiên cứu viên chính.
Điện thoại: Nhà riêng: 04.8216892; Mobile: 0913238171
E-mail:
Tên cơ quan đang công tác: Bộ Nông nghiệp và PTNT
Địa chỉ nhà riêng: Số nhà 35, Tuệ Tĩnh, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Tên cơ quan chủ trì đề tài: Viện Thổ nhưỡng Nông hoá
Điện thoại: 04. 8362379; Fax: 04.8389924
E-mail:
Địa chỉ: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội
Họ và tên thủ trưởng cơ quan: Hồ Quang Đức

Số tài khoản: 931.01.016
Ngân hàng: Kho bạc nhà nước Từ Liêm


2
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
1. Thời gian thực hiện đề tài
- Theo hợp đồng đã ký kết: từ tháng 11/2006 đến tháng 6/2010.
- Thực tế thực hiện: từ tháng 3/2007 đến tháng 6/2010.
2. Kinh phí và sử dụng kinh phí
a) Tổng kinh phí thực hiện 3.000 triệu đồng, trong đó:
+ Kinh phí hỗ trợ từ SNKH: 3.000 triệu đồng.
+ Kinh phí từ nguồn khác: 0.
b) Tình hình cấp và sử dụng kinh phí từ nguồn SNKH:
Theo kế hoạch Thực tế đạt được
Số
TT
Thời gian
(Tháng, năm)
Kinh phí
(Tr. đ)
Thời gian
(tháng, năm)
Kinh phí
(tr. đ)
Ghi chú
(Số đề nghị
quyết toán)
1
2

3
4
5
3. Tổ chức phối hợp thực hiện đề tài
- Viện Chăn nuôi Quốc gia;
- Viện Công nghệ Sinh học – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
- Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học – Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Viện Môi trường Nông nghiệp – Viện KHNN Việt Nam;
- Trung tâm Ứng dụng KH&CN Nghệ AN;
- Trung tâm Ứng dụng KH&CN Đắk Lắk.

3
4. Cán bộ chính tham gia thực hiện đề tài:

STT Họ và tên Đơn vị công tác Chữ ký
1 Bùi Huy Hiền Bộ NN&PTNT
2 Nguyễn Thu Hà Viện Thổ nhưỡng Nông hóa

3 Cao Thị Thanh Tâm Viện Thổ nhưỡng Nông hóa

4 Lương Hữu Thành Viện Môi trường Nông nghiệp

5 Vũ Thúy Nga Viện Môi trường Nông nghiệp

6 Nghiêm Thị Minh Thu TT Ứng dụng KHCN Đắk Lắk

7 Ngô Hoàng Linh TT Ứng dụng tiến bộ KHCN Nghệ An

8 Đào Văn Thông
Viện Môi trường Nông nghiệp


9 Phạm Việt Cường
Liên hiệp KHSX Công nghệ Sinh
học và Môi trường - Viện CNSH

10 Dương Văn Hợp Đại học Quốc gia Hà Nội

11 Nguyễn Thạc Hòa Viện Chăn nuôi







4
BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi Việt Nam ngày càng được chú
trọng, có tốc độ phát triển cao và góp phần quan trọng trong phát triển chung của toàn
ngành nông nghiệp. Kết quả điều tra về chăn nuôi tính đến thời điểm 01/4/2010 cho
thấy tổng đàn trâu cả nước là 2,9 triệu con tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2009; đàn
lợn có 27,3 triệu con, tăng 3,1%; đàn gia cầm có 277,4 triệu con, tăng 8,1%. Tuy dịch
tai xanh trên lợn xảy ra trong hai tháng gầ
n đây tại nhiều địa phương làm 150 nghìn
con mắc bệnh, trong đó gần 66 nghìn con bị tiêu hủy nhưng những tháng đầu năm
chăn nuôi có nhiều thuận lợi về giá bán sản phẩm và giá thức ăn, bên cạnh đó dịch
cúm gia cầm và dịch lở mồm long móng trên trâu, bò cơ bản được khống chế nên sản
phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm tăng khá so với cùng kỳ năm trước, trong đó thịt l

ợn
hơi đạt 1,79 triệu tấn, tăng 4,7%; thịt gia cầm hơi đạt 330,7 nghìn tấn, tăng 17%;
trứng gia cầm 3278,8 triệu quả, tăng 7,1%. Tính đến ngày 27/6/2010, dịch bệnh chưa
qua 21 ngày còn ở các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương là: Dịch cúm gia cầm
còn ở Thái Nguyên; dịch tai xanh trên lợn ở Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam
Định, Hà Nam, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An, Quảng Ninh, Cao Bằng và Sơn
La. Giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2009
đạt mức tăng trưởng 5,3%, so với cùng kỳ
năm 2008, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong toàn ngành nông nghiệp.
Những chính sách phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới đã khuyến
khích các doanh nghiệp tư nhân, các hộ cá thể mạnh dạn đầu tư để phát triển chăn
nuôi thành một ngành sản xuất hàng hoá. Mô hình chăn nuôi trang trại tập trung quy
mô vừa và nhỏ đang được nhân rộng trên cả nước,
đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, do chỉ tập trung đầu tư để nâng cao năng
suất và chất lượng vật nuôi nên vấn đề kiểm soát lượng phế thải thải ra trong quá

5
trình chăn nuôi chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một trong những nguyên nhân
gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp có hơn 70% dân số làm nông nghiệp, nhu
cầu phân bón hữu cơ rất cao. Những năm gần đây, ngành chăn nuôi nói chung, chăn
nuôi lợn, gà nói riêng đã có những tiến bộ đáng kể về chất lượng con giống, k
ỹ thuật
chăn nuôi, cơ sở chuồng trại, quản lý dịch bệnh, v.v Hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ,
phân tán, mang tính tận dụng, tự cung tự cấp tuy vẫn còn chiếm một tỷ lệ lớn, chủ
yếu ở các vùng sâu, vùng xa, nhưng đang dần bị thay thế bởi mô hình chăn nuôi công
nghiệp. Các cơ sở chăn nuôi lợn, gà có quy mô tập trung này chủ yếu được xây dựng
gần các khu dân cư hoặc các khu công nghi
ệp có đông đảo người lao động nhằm tạo

vành đai cung cấp thực phẩm với số lượng lớn, đáp ứng thị hiếu sử dụng thực phẩm
tươi sống (thực phẩm không qua đông lạnh) của người tiêu dùng, lượng phế phụ
phẩm chăn nuôi lợn, gà còn lại được sử dụng để bón cho cây trồng.
Trên thực tế, lượng phân chuồng không đủ cung cấ
p cho diện tích trồng trọt,
thời gian ủ phân theo phương pháp truyền thống quá dài, mặt khác nước thải và bã
thải thải ra sau quá trình xử lý biogas là nguyên nhân gây ô nhiễm thứ cấp đối với
môi trường. Việc nghiên cứu tận dụng nguồn phế thải chăn nuôi làm chất đốt và phân
bón hữu cơ sinh học là rất thiết thực.
Hầm ủ biogas tuy đã được triển khai trên diện rộng song quy mô các hầm ủ còn
nhỏ, hiệu su
ất thu hồi khí chưa cao và chất thải sau biogas đã và đang trở thành
nguồn gây ô nhiễm thứ cấp. Thực tế chất lượng nước thải sau biogas đang cần có
những nghiên cứu xử lý bằng phương pháp sinh học nhằm đảm bảo yêu cầu của nước
thải loại B (TCVN 5945 – 2005).
Thành phần của phế thải chăn nuôi gia súc dạng rắn gồm phần lớn các hợp chất
hữu cơ giàu các bon và các s
ản phẩm sau quá trình phân huỷ. Quá trình chuyển hoá
của các hợp chất hữu cơ trong phế thải chủ yếu dựa vào hoạt động sống của vi sinh
vật trong tự nhiên, quá trình phân huỷ này thường kéo dài khoảng 4-6 tháng. Hiện
nay, có rất nhiều biện pháp xử lý phế thải chăn nuôi như chôn lấp hoặc ủ đánh đống,

6
sinh học, v.v trong đó, xử lý phế thải chăn nuôi theo phương pháp sinh học không
những đạt hiệu quả cao, rút ngắn thời gian ủ, hạn chế ô nhiễm môi trường mà sản
phẩm tạo thành sau khi xử lý còn có thể sử dụng như nguồn phân bón có chất lượng.
Phế thải chăn nuôi rắn ở quy mô nhỏ được chế biến thành phân hữu cơ (phân
chuồng) theo phương pháp truyền thống hoặc sử d
ụng trực tiếp làm thức ăn cho cá
hay bón phân cho cây trồng. Trường hợp sử dụng trực tiếp phế thải chăn nuôi rắn có

nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao, ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ cộng
đồng và hiệu quả chăn nuôi. Sản xuất phân ủ theo phương pháp truyền thống sẽ
không thể áp dụng tại các cơ sở chăn nuôi tập trung vì không có đủ điều kiện c
ơ sở hạ
tầng và nhân công. Nghiên cứu phương pháp ủ nhanh có sự trợ giúp của vi sinh vật
khởi động là hướng đi đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Phân hữu cơ sản xuất theo
phương pháp này không chỉ bảo đảm độ an toàn về vệ sinh thực phẩm mà còn là một
sản phẩm hàng hóa có giá trị, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp dinh dưỡng cây trồng
và phát triển nông nghi
ệp bền vững.
Để đạt được mục đích trên, đề tài “Nghiên cứu chế phẩm vi sinh vật xử lý
nhanh phế thải chăn nuôi” thuộc Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng
công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020
đã được phê duyệt thực hiện theo Quyết định số 3201 QĐ/BNN-KHCN ngày 30
tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT.










7
II. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu của đề tài
+ Mục tiêu chung
Tạo ra chế phẩm vi sinh vật (VSV) và công nghệ xử lý có hiệu quả phế thải

chăn nuôi cho các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm qui mô tập trung.
+ Mục tiêu cụ thể:
- Đối với phế thải chăn nuôi rắn: Nghiên cứu sản xuất và ứng dụng thành công
chế phẩm VSV khởi động để xử lý nhanh phế thải ch
ăn nuôi rắn ở qui mô tập trung,
tạo sản phẩm phân hữu cơ đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Đối với phế thải chăn nuôi lỏng: Nghiên cứu sản xuất và ứng dụng chế phẩm
VSV xử lý có hiệu qủa nước thải sau biogas tại cơ sở chăn nuôi qui mô tập trung.

2.2. Nội dung nghiên cứu của đề tài
2.2.1. Điều tra, đánh giá hiện trạng phế thả
i và tình hình xử lý phế thải tại 5-10
cơ sở chăn nuôi gà, lợn tập trung tại một số tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền Đông
Nam bộ, lấy mẫu và phân tích đánh giá tính chất vật lý, hoá học và sinh học của mẫu
phế thải.
2.2.2. Tuyển chọn bộ giống vi sinh vật có khả năng chuyển hoá các hợp chất
hữu cơ (cacbonhydrat, protein, lipit,…) và ức chế, tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh.
2.2.3.
Đánh giá trong phòng thí nghiệm khả năng sử dụng hỗn hợp các vi sinh
vật trong xử lý phế thải chăn nuôi rắn và lỏng.
22.4. Phân loại và xác định mức độ an toàn sinh học của bộ giống vi sinh vật
tuyển chọn.
2.2.5. Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chăn
nuôi rắn và nước thải sau biogas ở qui mô phòng thí nghiệm.
2.2.6. Sản xuất thử nghiệm chế phẩ
m vi sinh vật xử lý phế thải chăn nuôi rắn
và nước thải sau biogas.

8
2.2.7. Đánh giá khả năng sử dụng chế phẩm trong xử lý nhanh phế thải rắn và

nước thải sau biogas tại cơ sở chăn nuôi.
2.2.8. Đánh giá khả năng sử dụng phế thải chăn nuôi rắn sau xử lý trong sản
xuất nông nghiệp.
2.2.9. Xây dựng mô hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh vật trong xử lý
phế thải chăn nuôi rắn và nước thải sau biogas tại các cơ
sở chăn nuôi tập trung.
Tiến độ thực hiện các nội dung như sau:
- Nội dung và kết quả năm 2006:
TT Các nội dung, công việc cụ thể Sản phẩm phải đạt Thời gian
hoàn thành

1

Đánh giá hiện trạng phế thải và
tình hình xử lý tại cơ sở chăn nuôi
tập trung, phân tích một số chỉ tiêu
vật lý, hóa học và sinh học của
mẫu phế thải.


- Số liệu điều tra 5 cơ sở
chăn nuôi.
- Số liệu phân tích chỉ
tiêu lý, hóa học và sinh
học của mẫu phế thải của
5 cơ sở chăn nuôi.

3/2007

2


Tuyển chọn bộ giống vi sinh vật
sử dụng trong xử lý phế thải chăn
nuôi rắn và lỏng.

6-8 chủng vi sinh vật có
khả năng phân giải
cacbonhydrat, protein,
lipit, tinh bột, ức chế vi
sinh vật gây bệnh, H
2
S,
NH
3
.

3/2007






9
- Nội dung và kết quả năm 2007

TT Các nội dung, công việc cụ thể Sản phẩm phải đạt Thời gian
hoàn thành
1
Đánh giá trong phòng thí nghiệm

khả năng sử dụng hỗn hợp các vi
sinh vật trong xử lý phế thải.


Bảng số liệu của các tổ
hợp từ 6 chủng vi sinh
vật đã phân lập.
12/2007
2
Phân loại vi sinh vật và xác định
mức độ an toàn sinh học.


Kết quả phân loại đến
loài của 6 chủng vi sinh
vật phân lập.

12/2007
3
Bước đầu nghiên cứu công nghệ
sản xuất chế phẩm vi sinh vật quy
mô phòng thí nghiệm.


Một số thông số kỹ thuật
về điều kiện sinh trưởng
phát triển của 6 chủng vi
sinh vật chọn lọc.

12/2007


- Nội dung và kết quả năm 2008:
TT Các nội dung, công việc cụ thể Sản phẩm phải đạt Thời gian
hoàn thành
1
Tiếp tục nghiên cứu công nghệ sản
xuất chế phẩm vi sinh vật quy mô
PTN.

Các thông số kỹ thuật lên
men sinh khối vi sinh
vật, số liệu về khả năng
tồn tại trong chất mang
của các vi sinh vật chọn
lọc.


6/2008
2
Sản xuất thử nghiệm chế phẩm vi
sinh vật.


10 kg chế phẩm xử lý
phế thải chăn nuôi rắn và
lỏng.

12/2008
3
Đánh giá khả năng sử dụng chế


Số liệu bước đầu của các
12/2008

10
phẩm vi sinh vật trong xử lý nhanh
phế thải rắn và nước thải sau
biogas tại cơ sở chăn nuôi.
nghiên cứu về khả năng
sử dụng chế phẩm vi
sinh vật trong xử lý phế
thải chăn nuôi rắn, lỏng
và chất lượng chế phẩm.



- Nội dung và kết quả năm 2009:
TT Các nội dung, công việc cụ thể Sản phẩm phải đạt Thời gian
hoàn thành
1
Tiếp tục đánh giá khả năng sử
dụng chế phẩm vi sinh vật trong xử
lý nhanh phế thải rắn và nước thải
sau biogas tại cơ sở chăn nuôi.

Số liệu của các nghiên
cứu về khả năng sử dụng
chế phẩm vi sinh vật
trong xử lý phế thải chăn
nuôi rắn, lỏng và chất

lượng chế phẩm.

9/2009
2
Đánh giá khả năng sử dụng phế
thải chăn nuôi dạng rắn sau xử lý
trong trồng trọt.

Số liệu nghiên cứu về
khả năng sử dụng phân
bón hữu cơ sản xuất từ
phế thải chăn nuôi dạng
rắn trong trồng trọt.

12/2009
3
Bước đầu xây dựng mô hình sản
xuất và sử dụng chế phẩm xử lý
nhanh phế thải chăn nuôi rắn và
chất lỏng sau biogas.


Số liệu nghiên cứu về
mô hình sản xuất và sử
dụng chế phẩm vi sinh
vật trong xử lý phế thải
chăn nuôi.

12/2009






11
- Nội dung và kết quả năm 2010:
TT Các nội dung, công việc cụ thể Sản phẩm phải đạt Thời gian
hoàn thành
1
Tiếp tục xây dựng mô hình sản
xuất và sử dụng chế phẩm xử lý
nhanh phế thải chăn nuôi rắn và
chất lỏng sau biogas.


Số liệu nghiên cứu và 3-
4 mô hình sản xuất, sử
dụng chế phẩm vi sinh
vật trong xử lý phế thải.
5/2010

2

Tổng kết nghiệm thu

Báo cáo được nghiệm
thu
6/2010

III. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3.1. Giới thiệu chung về tình hình chăn nuôi tại Việt Nam
3.1.1. Vai trò của chăn nuôi trong nền kinh tế quốc dân
Chăn nuôi luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống sản xuất nông
nghiệp. Trong 10 năm gần đây, ngành chăn nuôi ở Việt Nam đã phát triển có định
hướng, coi trọng phát triển và sản xuất sản phẩm gia súc, gia cầm có nhu cầu tiêu thụ
lớn, đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất kh
ẩu. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi
đạt mức tăng trưởng khá vào khoảng 5,4% bình quân hàng năm, trong khi đó tổng giá
trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,5%
hàng năm.




12
Bảng 1: Số lượng gia súc, gia cầm giai đoạn 1999 – 2009
Loivtnuôi(1000con)
Năm
Trâu Bò Lợn Dê, cừu Gia cầm
2000 2897,2 4127,9 20193,8 543,9 196100
2001 2807,9 3899,7 21800,1 571,9 218100
2002 2814,5 4062,9 23169,5 621,9 233300
2003 2834,9 4394,4 24884,6 780,4 254600
2004 2869,8 4907,7 26143,7 1022,8 218200
2005 2922,2 5504,7 27435,0 1314,1 219900
2006 2921,1 6510,8 26855,3 2525,3 214600
2007 2996,4 6725,7 26560,7 1777.7 226000
2008 2897,7 6337,7 26701,6 1483,4 248300
2009 2886,6 6103,3 27627,7 1375,1 280200
Sơ bộ

2010
2922,2 5540,7 27435,0 1314,1 219.900

13
Bảng số liệu 1 cho thấy đàn gia súc, gia cầm của nước ta tăng liên tục theo các
năm với tốc độ cao, giá trị sản phẩm chăn nuôi giai đoạn 2000-2009 được trinhg bày
trong 2.

Bảng 2: Giá trị sản phẩm chăn nuôi giai đoạn 2000 -2009

Năm
Giá trị sản phẩm
chăn nuôi ( tỷ đồng)
Tỷ trọng trong
nông nghiệp (%)
Chỉ số phát
triển (%)
2000 24960,2 19,3 106,7
2001 25501,4 19,6 104,2
2002 30574,8 21,1 109,9
2003 34456,6 22,4 108,1
2004 37343,6 21,6 102,3
2005 45225,6 24,7 111,4
2006 48487,4 24,5 106,9
2007 57803,0 24,4 104,6
2008 102200,9 27,1 107,3
S¬ bé 2009 110311,6 26,9 107,1
Nguồn: - Tổng cục Thống kê 2009
Trong giai đoạn hiện nay, ngành chăn nuôi nước ta đã và đang phát triển theo
hướng trang trại tập trung quy mô, hàng trăm nhà máy chế biến thức ăn, xí nghiệp


14
giết mổ đã được thành lập, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đóng góp
một phần đáng kể cho ngân sách quốc gia.
3.1.2. Thực trạng chăn nuôi và các vấn đề về phế thải chăn nuôi
3.1.2.1. Thực trạng chăn nuôi ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, do tác động của cơ chế thị trường và bùng phát một
số đại dịch bệnh nh
ư cúm gia cầm, lở mồm long móng ngành chăn nuôi Việt Nam
đã và đang đứng trước những thách thức mới, gây thiệt hại đáng kể cho người sản
xuất nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung. Theo Cục Chăn nuôi, mặc dù dịch
cúm gia cầm đã được khống chế nhưng nguy cơ bùng phát dịch lại rất lớn, dịch lở
mồm long móng bước đầu đã được kiểm soát, công tác tiêm phòng gia súc được đẩy
mạnh. Tuy nhiên công tác kiểm dị
ch, kiểm soát lưu thông gia súc nhiễm bệnh hiện rất
khó khăn, đặc biệt là các tỉnh biên giới. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến
tình hình sản xuất chăn nuôi và giết mổ của cả nước, vì vậy chăn nuôi gia súc, gia
cầm trong thời gian tới vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn và biến động.
Mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, nhưng với những chính sách và sự hỗ tr

kịp thời của Nhà nước, ngành chăn nuôi ở Việt Nam đang dần khôi phục và trở thành
ngành sản xuất hàng hoá có quy mô trong nông nghiệp. Phương thức tổ chức sản xuất
chăn nuôi hàng hoá quy mô trang trại những năm gần đây ngày càng nhân rộng và
phát triển, tính đến hết năm 2009, cả nước có khoảng 20.800 trang trại chăn nuôi, đã
xuất hiện mô hình trang trại tư nhân với quy mô lớn, ứng dụng khoa học kỹ thu
ật tốt,
đạt hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển chăn nuôi theo quy mô trang trại là hình thức chăn nuôi tập trung số
lượng lớn vật nuôi có áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các biện pháp quản lý
kinh tế chăn nuôi nhằm tìm kiếm một hệ thống sản xuất cho phép thu được lợi nhuận

cao nhất một cách lâu dài. Sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp trong các trang trại
chăn nuôi là giải pháp hiệu quả, ti
ết kiệm chi phí, sức lao động lại cung cấp đầy đủ
cân đối dinh dưỡng và hợp vệ sinh cho vật nuôi sinh trưởng phát triển.


15
3.1.2.2. Phế thải chăn nuôi và ảnh hưởng của nó đến môi trường sinh thái
Khi chăn nuôi ở quy mô nhỏ, phân tán, vấn đề môi trường chưa được đề cập
nhiều. Chăn nuôi theo hướng trang trại hoặc các làng nghề chăn nuôi mang tính hàng
hóa được hình thành và phát triển thì vấn đề vệ sinh môi trường thu hút sự quan tâm
đặc biệt của các nhà quản lý môi trường. Các chất thải từ quá trình chăn nuôi đã gây
ra nhiều vấn đề về
môi trường, Hartung và Philips phân tích và đưa ra mô hình về
mối quan hệ giữa chăn nuôi và các yếu tố ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi như sau:

Sơ đồ 1: Mô hình phát tán chất thải chăn nuôi của Hartung và Philips
Mô hình của Hartung và Philips cho thấy phế thải khi thải ra môi trường bao
gồm những chất bất lợi cho sức khỏe con người và môi trường xung quanh. Phân
chuồng, một chất thải có khối lượng lớn do vật nuôi bài tiết trong quá trình sinh sống
sẽ
gây ô nhiễm không chỉ không khí, đất mà cả nguồn nước ngầm, vì chúng sinh khí
độc, chứa các nguyên tố như nitơ, phốt pho, kali, chì, asen, cadimi… và các loại mầm
bệnh, kí sinh trùng, vi sinh vật gây hại khác như Enterbacteriae, E.Coli, Sallmonella,
Streptococcus fecalis Đó là những tác nhân có thể gây hại trực tiếp hoặc gián tiếp
Gia súc
CO
2

H

2
S
CH
4

NH
3

N
2
O
Những chất khác: andehyd, amin, phenol
Chất bài tiết
(p
hân, n
ư
ớc
g
iải…
)

Thức ăn

16
đến sức khỏe con người. Khối lượng phân rắn thải ra hàng ngày của mỗi loại vật nuôi
được trình bày trong bảng 3:
Bảng 3: Ước tính chất thải rắn chăn nuôi trong năm 2009
Loại vật nuôi Đơn vị
Số đầu vật
nuôi năm

(1000 con
Chất thải rắn
bình quân
con/ngày(kg)
Tổng chất thải
rắn/ngày (tấn)
Lợn con 2886,6 2,00 5.773,2
Bò con 6103,3 10,00 61.033
Trâu con 27627,7 15,00 414.415,5
Ngựa con 102,2 4,00 408,8
Dê, cừu con 1375,1 1,50 2.062,65
Gia cầm con 280200 0,20 56.040
Tổng cộng
539.733,15

Số liệu bảng 3 cho thấy đàn gia súc, gia cầm của Việt Nam thải ra 539.733,15

tấn chất thải rắn/ngày, phần lớn chất thải này được sử dụng làm phân bón hữu cơ,
trong số đó, khoảng 50% được xử lý bằng phương pháp ủ truớc khi bón ruộng, số còn
lại sử dụng không qua xử lý. Đây là một nguy hiểm đe dọa đến sự trong sạch của môi
trường. Ngoài ra theo ước tính mỗi năm đàn gia súc nước ta thải khoảng 25-30 triệu

17
khối chất thải lỏng (nước tiểu, nước rửa chuồng, nước từ sân chơi, bãi vận động, bãi
chăn), trong số đó, có khoảng 20% được xử lý qua hầm Biogas hoặc qua hệ thống xử
lý chất thải của các trang trại chăn nuôi. Phần còn lại được sử dụng ngay hoặc cho
thải trực tiếp ra môi trường đã làm tăng độ ô nhiễm và hủy hoại môi trường.
Khi ch
ăn nuôi còn nhỏ lẻ, phân tán, vấn đề môi trường chưa được chú ý đề cập
nhiều nhưng chăn nuôi tập trung theo hướng trang trại phát triển hoặc các làng nghề

chăn nuôi mang tính hàng hoá thì vệ sinh môi trường lại là vấn đề cấp bách cần quan
tâm. Các tính chất lý, hoá và sinh học của mỗi loại phế thải chăn nuôi rất đa dạng và
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nguồn thức ăn, khả năng tiêu hoá củ
a vật nuôi và các yếu
tố môi trường.
Lượng phế thải khổng lồ hàng ngày vật nuôi thải ra môi trường tồn đọng lại đã
ảnh hưởng xấu tới nguồn nước, không khí, đất, các sản phẩm từ vật nuôi. Trong phân
chứa nhiều nitơ, photpho, kẽm, đồng, chì, asen, niken; các khí độc sinh ra: CO
2
, H
2
S,
CH
4
, NH
3
, N
2
O; các vi sinh vật gây bệnh.
3.2.1.2.3. Một số tác nhân sinh học gây bệnh nguy hiểm đối với vật nuôi
Mức độ vệ sinh của nguồn thức ăn, nước uống cho vật nuôi, hệ vi sinh vật và kí
sinh trùng đường ruột. Các điều kiện lý, hoá và sinh học ngoài môi trường sống là
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thành phần sinh học của phế thải. Yếu tố sinh
học có ả
nh hưởng trực tiếp đến môi trường sống, sức khoẻ con người và vật nuôi là
những vi sinh vật và kí sinh trùng gây bệnh.
Giun, sán:
Giun, sán kí sinh đa dạng về chủng loại: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun
kim, sán dây, sán lá, kí sinh thường xuyên trong hệ tiêu hoá của người và động vật,
chúng bám vào thành ruột, hút chất dinh dưỡng từ kí chủ để sinh trưởng và phát triển,

gây suy dinh dưỡng và tổn thương các bộ phận nội tạng như gan, mật cho người và
động vật.
Trứng giun, sán có đặ
c điểm, kích thước, hình dạng khác nhau: trứng giun
thường có hình bầu dục, hình ôvan, kích thước khoảng từ 50-70 µm. Khi bị bài xuất

18
ra môi trường, nếu gặp điều kiện thuận lợi, trứng giun sán nhiễm vào cơ thể người và
vật nuôi qua con đường tiêu hoá và tiếp tục kí sinh gây bệnh cho kí chủ. Khi gặp điều
kiện không thuận lợi: khô nóng (nhiệt độ > 45
0
C) thì trứng giun sán không phát triển
được, dần bị phá huỷ. Đặc điểm dễ nhận biết trứng giun sán đã bị hỏng dưới kính
hiển vi là chúng bắt màu toàn bộ khi nhuộm xanh Metylen.
Vi khuẩn Salmonella
Salmonella là trực khuẩn gram (-), kích thước trung bình 3x5µm, có nhiều lông
xung quanh, sống hiếu khí không bắt buộc, phát triển tốt ở 37
o
C, trên môi trường
nghiên cứu thông thường, pH thích hợp là 7,2. Salmonella có khả năng hình thành
khuẩn lạc trên một số môi trường có chất ức chế đặc biệt (sử dụng để phân lập), ở
môi trường dịch thể làm đục nhanh môi trường trong thời gian ngắn nhất.
Salmonella thuộc họ Enterobacteriaceae có hơn 2000 loài thuộc các nhóm A,
B, C1, D1, E1. Salmonella thường gặp ở các loài động vật, đặc biệt là trâu bò, ngan,
ngỗng, vịt và chuộ
t. Vi khuẩn này dễ lây nhiễm vào các sản phẩm thịt, vì vậy nhiễm
độc do Salmonella trước đây gọi là nhiễm độc thịt.
Nguồn nhiễm Salmonella là từ phân người bệnh (hoặc người đã khỏi bệnh
nhưng còn mang mầm bệnh) và từ động vật (trâu, bò, cừu, dê, lợn, ngựa, chó ). ở
động vật vi khuẩn thường gây bệnh khác nhau: Phó thương hàn ở bê, nghé, lợn,

thương hàn ở lợn con. Nhiều độ
ng vật khoẻ mạnh vẫn mang mầm bệnh và điều này
rất nguy hiểm với người.
Theo một số tài liệu nghiên cứu của Việt Nam thì Salmonella đã gây bệnh cho
một số loài gia súc. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Nội và cộng sự năm 1989
cho thấy rằng có 82 – 90% lợn bị ỉa chảy do nhiễm Salmonella. Theo kết quả công
bố của Lê Văn Tạo và cộng s
ự thì có 50% thuộc S.cholerae suis, 12% S.enteritidis,
6,25% S.typhimurium còn lại là các serotype khác gây bệnh cho lợn.
Đường lây nhiễm chủ yếu của Salmonella là đường tiêu hoá. Theo kết quả
công bố của Lowry và Bate thì có 42 trường hợp bị nhiễm độc do Salmonella trong

19
tổng số các trưòng hợp bị ngộ độc thịt. Bệnh thương hàn ở người chủ yêu do ăn phải
thịt nhiễm Salmonella. Các triệu chứng như sốt, nôn, đau bụng, ỉa chảy và có thể bị
viêm dạ dày xuất hiện sau khi ăn thức ăn bị nhiễm Salmonella trong khoảng từ 12
đến 24 giờ. Cũng theo Lowry và Bates thì một lượng nhỏ vi khuẩn Salmonella
thuộc
các serotype S.typhi, S.paratyphi A và B có mặt trong thực phẩm cũng đủ để phản
ánh tình trạng kém vệ sinh trong quá trình giết mổ.
Salmonella là vi khuẩn nguy hiểm đối với sức khoẻ con người nên yêu cầu tất
cả các loại phẩm không được có loại vi khuẩn này trong 25g mẫu thực phẩm theo
tiêu chuẩn của WHO, theo tiêu chuẩn Việt Nam Salmonella không được có mặt
trong thực phẩm.
Vi khuẩn E.coli
Vi khuẩn Escherichia coli luôn luôn có mặt trong phân tươi nên
được coi là vi khuẩn
chỉ thị về độ sạch, độ nhiễm phân của nước. Để đánh giá độ sạch của nước người ta
dùng chỉ số coliform .
Vi khuẩn E.coli sản sinh hai loại độc tố: Độc tố chịu nhiệt và độc tố không chịu

nhiệt. Những chủng có khả năng sản sinh độc tố này là nguyên nhân gây bệnh ỉa chảy
ở người. Những serotype có khả
năng gây ngộ độc thức ăn như: 026, 056, 086, 0111,
0119, 0125, 0127, 0157:H7.
E.coli được coi như nhân tố chỉ điểm tình trạng vệ sinh của thực phẩm. Theo
ICMSF-Uỷ ban quốc tế chuyên về thực phẩm có chứa vi khuẩn thì sự có mặt và số
lượng của vi khuẩn E.coli trong thực phẩm có thể không liên quan trực tiếp đến sự có
mặt của vi khuẩn gây bệnh, nhưng nếu chúng có mặt với s
ố lượng lớn thì có nguy cơ
nhiễm vi khuẩn gây bệnh càng nhiều. Vì vậy đối với thực phẩm tươi sống, nhất là
sản phẩm động vật, bắt buộc phải xác định tổng số E.coli. Đây là một tiêu chuẩn cần
thiết để đánh giá tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Virut H5N1:

20
Cúm gà hay cúm gia cầm là một loại bệnh do virus gây ra cho các loài gia cầm
hay chim và có thể xâm nhiễm vào một số loài động vật có vú. Virus này được phát
hiện lần đầu tiên tại Ý vào đầu thập niên 1900 và giờ đây phát hiện hầu hết ở mọi nơi
trên thế giới. Virus cúm gà có tên khoa học là Avian influenza thuộc nhóm virus cúm
A, họ Orthomyxociridae. Đây là những retrovirus, mang vật liệu di truyền là những
đoạn phân tử RNA, sợi đối mã ( sợi âm tính). Biến chủng H5N1 của virus cúm gà bắt
đầu hoành hành từ năm 1997 và có nguy cơ bùng phát thành đại dịch cúm đối với con
người trong tương lai.
Theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết 2 năm phòng chống dịch cúm gia cầm diễn
ra tại Hà Nội vào ngày 18/4, dịch cúm đầu năm 2004 đã làm giảm 0,5% tăng trưởng
GDP quốc gia, tuơng đương trên 3000 tỷ đồng. Nhiều hộ, trang trại, doanh nghiệp
chăn nuôi gia cầm lâm vào cảnh mất trắng. Một số vùng tuy không có dịch nhưng
việ
c duy trì đàn gia cầm rất khó khăn, đặc biệt đối với những cơ sở chăn nuôi tập
trung, quy mô lớn, do không tiêu thụ được gia cầm, sản phẩm gia cầm.

Cúm gà không chỉ gây thiệt hại về vật chất, mà nguy hiểm hơn là đe doạ sức
khoẻ con người. Theo báo cáo của Bộ Y tế, dịch cúm gia cầm đã kéo theo sự xuất
hiện của cúm A phân tuýp H5N1 trên người. Kể từ truờng hợp m
ắc bệnh đầu tiên đến
nay, 3 đợt dịch xảy ra với 71 trường hợp mắc bệnh tại 26 tỉnh thành trên cả nước
trong đó có 36 trường hợp đã tử vong. Gần 73% trường hợp mắc bệnh có liên quan
đến cúm gia cầm bị bệnh và 52% do ăn thịt và làm thịt gia cầm bệnh. Bộ y tế nhận
định, dịch cúm gia cầm đã lặp đi lặp lại, hiện tại mầm bệ
nh trong gia cầm là khá phổ
biến. Đã có biểu hiện người lành mang virus, không có triệu chứng lâm sàng làm cho
virus lây lan nhanh trong cộng đồng, không bị phát hiện là rất lớn.
Virut gây bệnh lở mồm long móng
Bệnh lở mồm long móng gây ra bởi một loại virut nhỏ nhất trong các virut qua
lọc, thuộc họ Picornaviridae, nhóm Aphtovirut, nhân virut là ARN, capsomer có 4
loại protein ( VP1, VP2 , VP3, VP4), trong đó VP1 có vai trò quan trọng nhất trong
việc gây bệnh cũng như là loại kháng nguyên chính tạo ra kháng thể chống lại bệnh

21
lở mồm long móng. Cấu trúc hình cầu của các hạt virut ngoài việc giữ tính ổn định
và bảo vệ vật liệu di truyền với những tác nhân có hại của môi trường còn có khả
năng gây tác dụng phụ khi xâm nhập tế bào. Có 2 loại hạt virut là hạt lớn và hạt nhỏ,
đặc tính gây nhiễm và gây miễn dịch liên quan đến các hạt lớn.
Virut lở mồm long móng là virut không có vỏ bọc do vậy chúng có sức đề
kháng cao với các dung môi h
ữu cơ như cồn, ete Virut lở mồm long móng sản sinh
trong tế bào chất của tế bào, có tính hướng thượng bì và hướng cơ.
Ở Việt Nam, bệnh lở mồm long móng được phát hiện lần đầu tiên ở Nha Trang
năm 1898, dịch phát ra lẻ tẻ ở một số các địa phương trong cả nước vào các thời kỳ:
1920 – 1922 bệnh phát ra ở Bắc, Trung, Nam bộ. Từ năm 1954, bệnh vẫn xảy ra ở
nhiề

u tỉnh miền Nam. Bệnh ít thấy ở miền Trung mà thường xảy ra ở các tỉnh biên
giới giáp với Campuchia rồi do vận chuyển động vật, sản phẩm động vật mà bệnh
tiến vào sau trong một số địa phương thuộc lãnh thổ nước ta . Năm 1969, bênh phát
nặng cả ở trâu bò, lợn từ Sài Gòn rồi lan ra các tỉnh.
Cuối năm 1992 đến đâu năm 1993, sau một thời gian dài miền Bắc không có
bệ
nh lở mồm long móng, bệnh lở mồm long móng đột nhiên bùng phát ra ở 4 tỉnh
thuộc khu 4 cũ và bệnh còn kéo dài đến năm 1994.
Năm 1995, bệnh lại phát mạnh, rộng khắp 26 tỉnh, thành phố phía nam; riêng
vùng khu 4 cũ bệnh phát ra lẻ tẻ. Đặc biệt từ giữa tháng 6/1999 bệnh lở mồm long
móng gia súc đã bùng phát ở Cao Bằng, sau đó xảy ra ở một số tỉnh thuộc các vùng
trong cả nước, tính đến 31/12/1999 đã có 55 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương
có trâu bò mắc bệnh với số lượng trâu bò mắc bệnh lên tới 112.579 con; trong đó
52 tỉnh có lợn mắc bệnh với tổng số lợn mắc bệnh là 25.820 con.
3.1.2.4. Tình hình sử dụng phế thải chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp
Dinh dưỡng trong phân chuồng tươi chủ yếu nằm dưới dạng các hợp chất hữu cơ
cây trồng khó có thể hấp thụ được.
Ở nhiều nơi nông dân Việt Nam đã có kinh
nghiệm xử lý phân chuồng trước khi đưa ra bón trực tiếp cho cây trồng. Để tăng khả
năng sử dụng nhanh các chất dinh dưỡng cần thiết phải được chế biến để chuyển hoá

22
các chất hữu cơ phân tử lớn thành các chất vô cơ phân tử nhỏ hơn và các chất khoáng
dễ tiêu. Hiện tại việc chế biến phân chuồng chủ yếu là áp dụng biện pháp ủ phân.
Nguyên lý của quá trình ủ phân chuồng là dưới tác động của các vi sinh vật háo khí
và yếm khí, cấc chất hữu cơ phân tử lớn sẽ chuyển thành chất hữu cơ phân tử nhỏ và
nhờ vậy các chất khoáng khó tiêu chuy
ển thành dễ tiêu.
Phân tích một đơn vị khối lượng phế thải chăn nuôi, người ta đã thu được kết

quả thành phần dinh dưỡng trong từng loại tập hợp trong bảng 4.
Bảng 4: Thành phần hoá học của một số loại phân gia súc, gia cầm
Thành phần ( %)
Vật nuôi
H
2
0 N P
2
O
5
K
2
O CaO MgO
Lợn 82 0, 8 0, 41 0, 26 0, 009 0, 1
Trâu, bò 83, 1 0, 29 0, 17 1 0, 35 0, 13
Ngựa 75, 7 0, 44 0, 35 0, 35 0, 15 0, 12
Cừu 68,0 0,60 0,20 0,20 0,02 0,24
Gà 56, 0 1, 63 0, 54 0, 85 2, 4 0, 74
Vịt 56, 0 1 1, 1 0, 62 1, 7 0, 35

Số liệu bảng 4 cho thấy trong phế thải chăn nuôi gia súc có chứa một hàm

23
lượng dinh dưỡng đa, trung lượng tương đối cao. Theo Phạm Văn Toản và Trương
Hợp Tác sử dụng phân hữu cơ cho đất và cây là cách tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất để
trả lại cho đất chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng mà cây trồng đã lấy đi để sinh
trưởng, phát triển như: đạm, lân, kali và các chất khoáng. Phân hữu cơ không những
có tác dụng cung cấp dinh dưỡng cho cây mà còn có kh
ả năng cải tạo độ màu mỡ cho
đất, giữ ẩm đất và cải tạo môi trường sống tốt cho hệ vi sinh vật đất, chống xói mòn,

thoái hoá, bạc màu ngoài ra còn tăng hiệu lực của phân bón vô cơ lên 8-10%.
Ngoài ra trong phân gia súc, gia cầm còn chứa các yếu tố vi lượng với lượng
như sau:
Bo 50-200g/10 tấn
Cu 50-150g/10 tấn
Mn 500-1000/10 tấn
Co 2-10g/10 tấn
Mo 5-25g/10 tấn [8, 53,60].
Trong công trình nghiên cứu của mình. V. Porphyre và Nguyễn Quế Côi đã
nhìn nhận phế thả
i chăn nuôi là sản phẩm của chăn nuôi. Trên thực tế, người nông
dân không những biết cách sử dụng nguồn phế thải chăn nuôi làm phân bón cung cấp
dinh dưỡng cho cây trồng mà còn sử dụng nó như một nguồn thức ăn trong nuôi trồng
thuỷ sản. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà người nông dân sử dụng phế thải chăn nuôi
ở dạng này hay dạng khác.
Trực tiếp: sử dụng phế th
ải chăn nuôi dạng rắn đã qua xử lý như nguồn thức ăn
cho thuỷ sản
Gián tiếp: Sử dụng phế thải rắn và lỏng chưa qua chế biến để những loài thuỷ
sinh có thể dễ dàng hấp thụ, qua đó độ phì của ao được cải thiện
Cũng trong các kết quả nghiên cứu của mình, V. Porphyre và Nguyễn Quế Côi
cho thấy có đến 77% hộ nuôi cá tại Thái Bình sử dụng ph
ế thải chăn nuôi làm thức ăn
nuôi trồng thuỷ sản và thu được kết quả tốt.

24
3.2. Kỹ thuật xử lý nhanh phế thải chăn nuôi
Trong nông nghiệp, người nông dân đã biết sử dụng phân ủ (compost) sản xuất
từ phế thải chăn nuôi phục vụ cho sản xuất trồng trọt, nhằm cung cấp chất dinh dưỡng
cho cây trồng và cải tạo độ phì nhiêu của đất. Thông thường để phế thải chăn nuôi

hoai mục hoàn toàn đòi hỏi thời gian ủ từ 4-6 tháng.
Trướ
c năm 1970, công ty Groeikraga Organic Fertilizea ở Nam Phi đã sản
xuất phân ủ (compost) từ nguồn nguyên liệu là phân chim và amoni carbonat. Năm
1982, Công ty Dickerson Composting Plant ở Mỹ đã sản xuất 100.000 tấn compost trị
giá 7.000.000 USD. Theo T.C Juang, từ năm 1986 ở Đài Loan đã phát triển sản xuất
compost. Hàng chục loại compost được tung ra thị trường phục vụ cho sản xuất thuốc
lá, chè, ngô Cũng như Đài Loan, các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia,
Philippin, Indonesia đã sản xuất và sử dụ
ng compost rộng rãi cho nhiều loại cây
trồng: cọ dầu, cao su, mía, lúa Tại Ấn Độ sản lượng phân hữu cơ từ các nguồn phế
thải khác nhau là 1750 triệu tấn đạt giá trị hàng hoá 536 triệu USD. Tại Thái Lan số
lượng phân hữu cơ do các cơ sở nhà nước sản xuất là 24.000 tấn cùng với 100.000
tấn do các công ty tư nhân sản xuất.
Tại Việt Nam, trong khuôn khổ dự án sản xuất thử nghiệm KC 04 - DA11, năm
2005 B
ộ môn Vi sinh vật - Viện Thổ nhưỡg Nông hóa đã sản xuất thử nghiềm thành
công 2500 kg chế phẩm Compost Maker phục vụ cho sản xuất hàng nghìn tấn phân
bón hữu cơ sinh học từ nguồn phế thải chăn nuôi.
Để rút ngắn thời gian ủ cũng như hạn chế tối đa các ảnh hưởng không có lợi
của quá trình chế biến phân ủ đến môi trường, kỹ thuật ủ nhanh (Rapid Composting)
đã được nghiên c
ứu và ứng dụng rộng rãi tại Ấn Độ, Mỹ, Canada trong đó ngoài các
yếu tố cân bằng tỷ lệ C/N, điều khiển nhiệt độ, độ thông khí của khối ủ, các nhà khoa
học đặc biệt quan tâm đến vai trò của vi sinh vật khởi động (microbial activator) và vi
sinh vật làm giàu dinh dưỡng phân ủ.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình ủ:

×