Tải bản đầy đủ (.docx) (231 trang)

Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 231 trang )

1
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Chuyên ngành Văn học dân gian
Mã số 62 22 36 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực.
Tác giả
Đặng Quốc Minh Dương
2
2
MỤC LỤC
Lời cam đoan 2
Mục lục 3
Các chữ viết tắt 5
Các bảng biểu……………………………………………………………… 5
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………… 6
0.1. Lý do chọn đề tài …….……………………………………………… 6
0.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 7
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
0.4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………… 8
1.5. Đóng góp của luận án …………………………………………… 9
1.6. Kết cấu luận án 10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………….…… … 11


1.1. Tổng quan về tình hình sưu tầm, biên dịch và tình hình nghiên cứu 11
1.2. Một số khái niệm liên quan ………………………… 22
1.3. Sự phân bố, phân loại kiểu truyện.… 28
Tiểu kết.……………………………………………………………… 35
CHƯƠNG 2: KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
………………………………………………………………………………… 37
2.1. Về tên gọi của truyện.………………… 37
2.2. Cách mở đầu truyện……………………………
41
2.3. Kết cấu của các nhóm truyện…………… 44
2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự vệ………………………… 44
2.3.2. Kết cấu nhóm truyện thủ lợi…………………………………… 46
2.3.3. Kết cấu nhóm truyện chơi khăm………………………………. 51
2.3.4. Kết cấu nhóm truyện trợ thủ………………………………… 54
2.4. Về kết thúc truyện ………………… 60
3
Tiểu kết………………………
66
CHƯƠNG 3: NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH
……………………………………………………………………………… 68
3.1. Nhân vật tinh ranh…………………… 68
3.2. Nhân vật đối thủ…………………………………………… 76
3.3. Nhân vật nạn nhân………………………………………… 82
3.4. Nhân vật trợ thủ tư tế………………………………… 85
Tiểu kết……………………………………………………… 93
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ MOTIF THƯỜNG GẶP TRONG KIỂU
TRUYỆNCON VẬT TINH RANH………………………………………… 95
4.1. Motif suy nguyên………………………………… 95
4.2. Motif thi tài…………………………………………… 97
4.3. Motif xử kiện.……………………………………… 100

4.4. Motif hoãn binh…………………………………………… 103
4.5. Motif giả mạo……………………………………………… 105
4.6. Motif xui bẩy………………………………………………………… 108
4.7. Motif sự bắt chước……………………………………………………. 110
4.8. Motif vi phạm điều ngăn cấm……………………………………… 112
4.9. Motif ăn vụng……………………………………………………… 114
4.10. Motif trao đổi………………………………………… 117
Tiểu kết……………………………………………………… 119
CHƯƠNG 5: KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH VÀ BẢNG TRA
CỨU A – T……… …………………………………………………… ……… 121
5.1. Các type truyện tương thích………………………… 121
5.2. Các type truyện không có sự tương thích………………………… 131
Tiểu kết……………………………………………………………… 145
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN…………………………………… 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………… 152
PHỤ LỤC 1: TÓM TẮT CÁC TRUYỆN KHẢO SÁT 161
PHỤ LỤC 2: CÁC TYPE TRUYỆN LOÀI VẬT TRONG BẢNG TRA CỨU
A – T VÀ CÁC TRUYỆN TƯƠNG THÍCH 201
4
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Châu Úc và châu Đại Dương: CU&CĐD
2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: ĐH KHXH&NV
3. Giáo dục: GD
4. Hà Nội: HN
5. Khoa học Xã hội: KHXH
6. Nhà xuất bản: Nxb
7. Sách đã dẫn: sđd
8. Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM

9. Văn hóa Dân tộc: VHDT
10. Văn hóa thông tin: VHTT
11. Văn học: VH
12. Của, thuộc Việt Nam: /VN
CÁC BẢNG BIỂU
1. Biểu đồ 1: Biểu đồ sự phân bố truyện kể theo châu lục
trang 29
2. Biểu đồ 2: Biểu đồ chia nhóm kiểu truyện con vật tinh
ranh trang 35
3. Biểu đồ 3: Biểu đồ về các cách gọi tên truyện
trang 40
4. Bảng 5.1: Bảng các type tương thích và không tương thích
của các châu lục trang 144
5
MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một loại hình của nghệ thuật ngôn từ, truyện dân gian có những đặc trưng
riêng. Nó sinh ra, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, được sáng tạo và tái tạo
theo những quy luật riêng. Một trong những quy luật và cũng là đặc điểm của truyện dân
gian đó chính là việc sử dụng những công thức nghệ thuật có sẵn trong kho tàng văn liệu
dân gian như các kiểu mở đầu, các kiểu kết thúc, các dạng kết cấu, các motif,…. Chính vì
thế, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phương pháp so sánh - lịch sử, B. N. Putilốp đã
xem “tính lặp lại” như một đặc tính nổi bật của dòng văn học này [55, tr. 7].
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc phát hiện “tính lặp lại” đã làm xuất hiện
khuynh hướng nghiên cứu truyện dân gian theo kiểu truyện (type). Thực tế nghiên cứu đã
cho thấy rằng: không chỉ dừng lại ở biên giới một dân tộc, quốc gia, nhiều kiểu truyện
còn mang các yếu tố tương đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa lý, văn hóa. Rất nhiều
công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào việc tìm hiểu các kiểu
truyện như kiểu truyện Thạch Sanh, kiểu truyện Cô tro bếp (Cinderella), kiểu truyện
người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện người mang lốt, kiểu truyện cậu bé

tí hon,… Tiếp cận truyện kể theo hướng này sẽ giúp thấy được những nguyên tắc sáng
tác truyền thống của một thể loại qua cách xây dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện,
cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết, motif trong truyện. Như vậy, hướng tiếp cận
truyện dân gian theo type sẽ giúp ta hiểu sâu hơn các kiểu tư duy, các nguyên tắc cấu tạo,
tổ chức truyện và những vấn đề liên quan như tính nhân loại, tính dân tộc,…
Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế giới, kiểu truyện con vật tinh
ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này,
nhân vật chính – một con vật nhỏ bé nhưng tinh ranh thường sử dụng các mưu kế, mánh
lới để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện mà tính
duy lý chiếm ưu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng nhân vật. Bên
cạnh tính duy lý, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi các câu chuyện giàu tính nhân văn và ý
nghĩa thẩm mỹ. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện con vật tinh ranh, một số nhà
6
nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một số khía cạnh nổi bật của
kiểu truyện. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cốt lõi như kết cấu, nhân vật, motif,… cần phải
được đào sâu và mở rộng hơn nữa nhằm đi đến những phát hiện khoa học về cấu trúc
tổng thể cũng như cấu trúc bộ phận của một kiểu truyện tiêu biểu, qua đó giúp ta có “cái
nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và hình thức của kiểu truyện.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh
ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới với mong muốn tìm đến những chứng
cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa
diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Kết quả khảo
sát sẽ giúp bổ sung những kiến thức, nhận định về tiểu loại truyện loài vật cũng như kiểu
truyện con vật tinh ranh. Đồng thời, đề tài hy vọng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích và cần
thiết cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian của bản thân. Như vậy, việc
nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế
giới vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
0.2.1.Việc khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh ở Việt Nam
và thế giới giúp chúng tôi thấy được sự phân bố của kiểu truyện. Hơn nữa, qua tập hợp

này cũng chứng minh sự phổ biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu, cũng như thấy
được diện mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu truyện khác.
0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,… để làm nổi rõ nét đặc trưng
của kiểu truyện. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường mở rộng so
sánh để thấy được những đặc trưng trong phương thức xây dựng nhân vật, kết cấu truyện,
các motif của Việt Nam cũng như của các khu vực, quốc gia, châu lục khác.
0.2.3. Chúng tôi tiến hành đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa
khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, mặt khác góp phần bổ sung một số type
truyện của Việt Nam cũng như của một số nước mà công trình chưa “phủ sóng” đến.
0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tất cả những truyện kể có nhân vật trung tâm là con vật tinh ranh trong truyện
dân gian Việt Nam và thế giới (đã được dịch mà người viết thu thập được) đều là đối
7
tượng nghiên cứu của đề tài. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những truyện
kể thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính của truyện là con vật và con vật này phải có tính
cách tinh ranh. Chúng tôi loại trừ những truyện có nhân vật trung tâm là con vật nhưng
không có tính cách tinh ranh hoặc những truyện có nhân vật tinh ranh là con người.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều cũng như được sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nhau
trong việc tìm kiếm các nguồn tài liệu nhưng chúng tôi vẫn không dám chắc rằng đã bao
quát hết kho truyện kể của các nước trên thế giới. Bởi như đã biết, Việt Nam là một quốc
gia đa dân tộc, việc khai thác vốn truyện kể của tất cả các dân tộc là hết sức khó khăn.
Tương tự, việc tiếp cận vốn truyện cổ của tất cả các quốc gia trên thế giới cũng là điều
không hề dễ dàng. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu triển khai đề tài trên cơ sở thống kê nguồn
truyện của các dân tộc thiểu số đã được dịch sang tiếng phổ thông và truyện cổ của các
nước đã được dịch sang tiếng Viêt.
Theo những tiêu chí trên, dựa vào 103 tuyển tập truyện kể dân gian (trong đó có
32 tập truyện, tuyển tập của Việt Nam, 71 tập truyện, tuyển tập của các nước, châu lục),
đến nay chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh. Đây là tài
liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài.
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài, trước hết trong điều kiện cho phép, chúng tôi tập hợp những
truyện kể thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Trên cơ sở đó,
chúng tôi tiến hành khảo sát kiểu truyện theo các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so sánh
đối chiếu. Nhờ phương pháp thống kê mà chúng tôi có được các số liệu để phân loại các
truyện kể; cũng qua đấy thấy được sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc, quốc gia,
khu vực hay châu lục. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện của các con
vật tinh ranh. Nhờ phương pháp này mà chúng tôi có những số liệu tin cậy, làm cơ sở để
đưa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học.
1.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Sau khi đã hoàn thành bước thống kê tư liệu – phân loại, chúng tôi sử dụng
phương pháp phân tích tư liệu. Các truyện kể sẽ được phân tích tỉ mỉ từng chi tiết và đánh
8
giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong quá
trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân vật tham
gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp, rút ra nhận
xét, đánh giá bản chất, đặc trưng của kiểu truyện.
1.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình
Phương pháp so sánh – loại hình được sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài.
Phương pháp này giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị biệt về nhân vật, kết
cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu vực khác nhau; so sánh nhằm phát hiện và
lý giải những vấn đề nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trường nảy sinh… của
kiểu truyện; so sánh để thấy được nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện con vật tinh
ranh của các dân tộc do chịu (hoặc không chịu) ảnh hưởng về văn hóa, xã hội, lịch sử….
Phương pháp so sánh sẽ được vận dụng một cách đặc biệt trong chương 5 – chương so
sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type trong kiểu truyện.
1.4.4. Phương pháp lịch sử - địa lý
Chúng tôi không sử dụng phương pháp này để tìm “quê hương ban đầu” hay “con
đường di chuyển” của các truyện kể mà để nghiên cứu theo type và motif. Thực chất của

việc nghiên cứu này là nghiên cứu cấu trúc, nghiên cứu hình thức của tác phẩm truyện
dân gian, cụ thể hơn là tiến hành phân loại các tác phẩm thành các type và motif, khảo sát
cấu trúc – dạng thức của type và motif. Chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử - địa lý
nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif.
1.4.5. Phương pháp mô hình hóa
Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về sự phân loại, phân bố, về cách gọi tên
truyện, các dạng kết cấu… chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ, qua đó
giúp người đọc dễ dàng nắm được các nội dung trình bày.
0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.5.1. Như đã biết, đặt trong tương quan với các tiểu loại, các thể loại khác, truyện
loài vật “chưa được chú ý sưu tầm nghiên cứu – nhất là nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr.
50]. Kết quả nghiên cứu về kiểu truyện con vật tinh ranh sẽ giúp chúng ta có cái nhìn một
cách cơ bản, đa diện về kiểu truyện con vật tinh ranh của Việt Nam và thế giới. Kết quả
này sẽ là tiền đề giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu truyện loài vật nói chung –
một tiểu loại vốn ít được quan tâm nghiên cứu cả ở Việt Nam và thế giới.
9
0.5.2. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi luôn chú ý đến việc so sánh kiểu
truyện giữa các nước, các khu vực, châu lục với nhau. Nhờ đó, chúng tôi phát hiện các
giá trị độc đáo riêng biệt, bản sắc cũng như nét chung, tương đồng mang tính toàn cầu
của kiểu truyện.
0.5.3. Hiện nay, trên bản đồ folklore thế giới, Việt Nam cũng như phần lớn các
nước Đông Nam Á đang là “một khu vực rộng lớn để trắng” [dẫn theo 148, tr. 170], chưa
có sự định vị. Việc luận án dành Chương 5 để so sánh, đối chiếu với Bảng tra cứu A – T
sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam thực hiện hoài
bão xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian Việt Nam, qua đó
góp phần giúp khắc phục tình trạng nêu trên.
0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có kết
cấu gồm 5 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận liên quan đến đề

tài.
- Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chương 4: Một số motif thường gặp trong kiểu truyện con vật tinh ranh.
- Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
I.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU
I.1.1. Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện
Ở Việt Nam, truyện cổ được ghi chép từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu của
nền văn học viết như: Báo cực truyện, Giao Chỉ ký, Ngoại sử ký (thế kỷ XII), Việt điện u
linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế kỷ XIV-
XV), Thế kỷ XIX và thời kì cận đại của thế kỉ XX, hoạt động sưu tầm, biên soạn truyện
cổ càng được nhiều người chú ý, trong đó, có thể kể đến các công trình như: Chuyện khôi
hài (1882), Chuyện đời xưa (1886) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1880: tập 1,
1885: tập 2) của Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của Phan Kế Bính,… Liên
quan đến đề tài nghiên cứu, tập truyện đầu tiên xuất hiện truyện kể của kiểu truyện này là
tập Truyện cổ nước Nam (1932 – 1934) của Nguyễn Văn Ngọc. Trên cơ sở nhận thức
rằng: “trong khoa văn học dân gian, việc sưu tầm và chỉnh lý tư liệu phải được coi là tiền
đề hay cơ sở” [148, tr. 217] nên sau Cách mạng tháng Tám (1945) hoạt động sưu tầm,
biên soạn mới bắt đầu trở thành một hoạt động mang tính khoa học và thành một ngành
khoa học độc lập. Từ giai đoạn này, bên cạnh các công trình sưu tầm truyện cổ người
Việt, còn có các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc anh em như: Truyện cổ tích miền núi
(1958), Truyện cổ Tây nguyên (1961), Truyện cổ dân tộc Mèo (1963), Truyện cổ Việt Bắc
(1963),… Một số công trình xuất hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát như:
Truyện cổ Xê Đăng, Truyện cổ Cà Tu, Truyện cổ Mạ, Truyện cổ Cơ Ho, Truyện cổ Khơ
me Nam Bộ, Truyện cổ dân gian Chăm, Truyện cổ Ê Đê, Truyện cổ M’nông, Kho tàng

truyện cổ tích Việt Nam, Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên, Truyện cổ các
dân tộc Việt Nam,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tổng hợp thành các tổng
tập như Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (4 tập, 6 quyển), Tổng tập Văn
11
học dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển) và bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam (23 tập). Xin điểm qua một số công trình tiêu biểu:
- Công trình Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam, gồm 4 tập do tổ Văn học
các dân tộc thuộc Viện Văn học chỉnh lý, biên soạn và xuất bản trong những năm 1963 –
1967. Đây là cột mốc quan trọng trong việc sưu tầm biên soạn truyện cổ dân gian. Tuyển
tập này tập hợp 234 truyện của hơn 30 dân tộc anh em.
- Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, gồm 2 tập. Công trình tập hợp 97
truyện của 20 dân tộc ít người ở miền Nam nước ta, do Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn và
Y Điêng biên soạn.
- Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) do Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên
soạn, khảo dị, giới thiệu 200 truyện của dân tộc Kinh (Việt). Công trình được Nxb Văn
Sử Địa, Nxb Sử học, Nxb KHXH xuất bản từ năm 1958 đến năm 1985. Năm 1993, viện
Văn học xuất bản công trình này trọn bộ 5 tập; năm 2000, Nxb Giáo dục gộp lại thành 2
tập và cho tái bản.
- Từ năm 2002 - 2007, lần lượt các tập của bộ Tổng tập Văn học dân gian người
Việt (19 tập, 20 quyển) đã hoàn thành việc công bố - trong đó chúng tôi chú ý tập 6, tập 7
- truyện cổ tích (do Nguyễn Thị Huế chủ biên). Đây là bộ tổng tập được biên soạn dựa
theo cách phân loại cốt truyện theo tiểu loại (cổ tích thần kỳ, cổ tích loài vật và cổ tích
sinh hoạt). Bên cạnh bản chính, tác giả còn tập hợp, giới thiệu các bản khác có cùng cốt
truyện của người Việt hoặc của các dân tộc thiểu số để so sánh, đối chiếu.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu Văn hóa tiến hành
biên soạn và xuất bản bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23
tập) – trong đó, chúng tôi chú ý đến tập 14 – truyện cổ tích do Nguyễn Thị Yên chủ biên.
Công trình này giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam theo
từng thể loại. Bên cạnh tính quy mô, công trình còn có điểm mới là: các bản kể được xuất
bản dưới hình thức song ngữ (chữ dân tộc hoặc phiên âm tiếng dân tộc).

Tuy bắt đầu muộn hơn nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, công tác biên
dịch truyện cổ cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề tài nghiên cứu, bản dịch sớm
nhất là Truyện dân gian Lào (1962), kế đến là các tập truyện như Truyện dân gian Trung
Quốc (1963), Truyện cổ Cao Miên (1968),… Từ những năm 80 - 90, công việc biên dịch
12
càng được chú ý, đẩy mạnh. Có hàng trăm tập truyện, tuyển tập truyện dân gian nước
ngoài được chuyển dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, trong đó, một số công trình có liên
quan đến đề tài như: Truyện cổ Grim, Truyện cổ dân gian Bêlôrútxia, Truyện dân gian
Nga, Truyện dân gian Ukraina, Truyện cổ dân gian Ấn Độ, Truyện cổ Hàn Quốc, Truyện
kể dân gian châu Phi, Truyện cổ Campuchia, Truyện cổ Mã Lai, Truyện cổ Inđônêxia,…
Nói về việc biên dịch, biên soạn không thể không nhắc đến Ngô Văn Doanh. Ông đã có
rất nhiều công trình về truyện dân gian các nước, các châu lục khác nhau, trong số đó,
phải kể đến bộ tuyển tập Truyện cổ năm châu, tuyển tập Kho tàng truyện cổ thế giới cũng
như tuyển tập về các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đây là kho tư liệu rất quý giúp
cho các nhà nghiên cứu Việt Nam dễ dàng tiếp cận với kho truyện kể của các nước.
Gần đây, một số tác giả đã biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo đề tài, theo
nhân vật. Chúng tôi quan tâm đến các tập truyện như Truyện cổ tích về các loài vật của
Phạm Thu Yến, Truyện cổ tích về loài vật của Lan Anh, của Lê Châu, Truyện cổ về các
loài vật của Thúy Quỳnh, Truyện kể về những con vật thông minh của Sơn Khê, Truyện
kể về các loài vật của Thu Lan,
Như vậy, có thể khẳng định rằng tình hình sưu tập, biên dịch truyện dân gian luôn
được các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam quan tâm, chú ý. Nhờ vậy, nó đã giúp cho
người viết có được những cốt truyện cùng các bản kể về kiểu truyện để khảo sát và
nghiên cứu. Điểm qua các công trình trên có thể thấy rằng, phần lớn các tập truyện, tuyển
tập được biên dịch là truyện dân gian của các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa trước
đây, các nước trong khu vực Đông Nam Á - khối Asean, các nước gần gũi với Việt Nam
về mặt địa lý và các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng là điều dễ hiểu
bởi vì tình hữu nghị của các nước dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau – mà một trong những
điều cần biết đầu tiên đó là vốn quý của dân tộc: kho tàng văn hóa dân gian.
I.1.2. Về tình hình nghiên cứu

Theo Chu Xuân Diên, năm 1865, O. Mile là người đầu tiên xem truyện loài vật
như một tiểu loại. Trong cách phân loại này, “truyện cổ tích thần kỳ”, “truyện cổ tích
động vật” và “truyện cổ tích sinh hoạt” đã được xác định như ba thể loại cơ bản [21,
tr.241]. Giới thiệu về tiểu loại này, Từ điển Văn học – bộ củ, cho rằng “Truyện cổ tích
loài vật có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng
nhân cách hóa giới tự nhiên. Ở nhiều nước, tính chất cổ xưa của truyện loài vật đã bị pha
13
trộn với khuynh hướng của người đời sau, mượn truyện loài vật để nói về xã hội loài
người. Do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ ngôn có những trường hợp không có sự
phân biệt thật rạch ròi” [125, tr. 1840]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu folklore đều thống
nhất cho rằng, truyện cổ tích loài vật thường có 3 lớp chính [149, tr. 115 - 119]:
- Lớp truyện hình thành sớm nhất là những truyện vật tổ gắn với tín
ngưỡng, tô tem giáo của người nguyên thủy. Lớp truyện này còn bảo lưu khá nhiều trong
các dân tộc còn ở trình độ phát triển bán khai;
- Lớp truyện phản ánh đặc điểm của loài vật. Qua đặc tính đó, người ta
muốn truyền lại cho nhau những tri thức về thế giới tự nhiên nhằm chinh phục nó, sử
dụng nó phục vụ cho đời sống con người;
- Lớp truyện đồ chiếu quan hệ xã hội loài người vào quan hệ của các con
vật. Lớp truyện này có xu hướng ngụ ngôn hóa.
Tuy được biết đến như một tiểu loại từ sớm nhưng truyện loài vật nói chung, kiểu
truyện con vật tinh ranh nói riêng vẫn chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy
đủ. Thực trạng này đã được V. Ia. Propp chỉ ra, khi ông cho rằng tiểu loại truyện cổ tích
loài vật ở Nga và các nước phương Tây “chưa từng được coi là đối tượng nghiên cứu”
[210, tr. 310]. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ trước, Hoàng Tiến Tựu cũng
nhận định: “Bộ phận truyện kể về loài vật chưa được chú ý sưu tầm nghiên cứu, nhất là
nghiên cứu chuyên sâu” [186, tr. 50]. Năm 2002, Phạm Thu Yến cũng nhận thấy thực
trạng đó. Nhà nghiên cứu cho rằng: “việc nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật
của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200, tr. 84]. Đến nay, tình hình nghiên cứu
tiểu loại cũng như kiểu truyện con vật tinh ranh vẫn chưa được cải thiện là bao. Tuy thế,
đây đó đã có một số bài viết nghiên cứu về một vấn đề nào đó của kiểu truyện hoặc một

vài ý kiến nhận xét, đánh giá với mục đích minh họa cho các công trình nghiên cứu về
những kiểu truyện khác, những vấn đề khác. Chúng tôi điểm qua một số bài viết đó.
1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] của Anti Aarne và Stith Thompson chia
truyện kể thành 5 cụm lớn: Truyện cổ tích động vật, Những truyện kể thông thường,
Truyện cười và giai thoại, Truyện kể theo công thức và Những truyện còn lại chưa phân
loại. Trong phần I. Animal tales - truyện cổ tích động vật lại được hai tác giả sắp xếp theo
trình tự sau:
14
- Từ 1 – 99: Động vật hoang dã
- 100 – 149: Động vật hoang dã và vật nuôi
- 150 – 199: Người và động vật hoang dã
- 200 – 219: Vật nuôi
- 220 – 249: Chim
- 250 – 274: Cá
- 275 – 299: Các con vật khác và các vật dụng.
Trong các nhóm type truyện trên, A. Aarne và S. Thompsom lại phân cấp và gọi
tên các type truyện từ 1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” (the clever animal). Như
vậy, trong Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện, các type truyện con vật thông minh thuộc
nhóm truyện động vật hoang dã. Cách phân nhóm này chỉ có giá trị tương đối. Bởi thực
tế các type truyện kể về mưu kế của loài vật còn xuất hiện khá nhiều ở các nhóm khác.
Tiểu nhóm “con vật thông minh” có 138 type truyện, trong đó có cả type truyện mở rộng
của vùng phủ sóng (truyện cổ Phần Lan, một phần của các nước Bắc Âu, các nước Nam
châu Âu, Đông Nam châu Âu và Ấn Độ). Ở đây, hai tác giả chú ý khảo sát và giới thiệu
những đơn vị truyện trọn vẹn, lưu truyền trong một vùng địa lý nhất định. Vì vậy, nó rất
giới hạn trong phạm vi khảo sát và mang tính chọn lựa.
Gắn liền với Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện là công trình gồm 6 cuốn Mục lục
các motif của văn học dân gian [205] của S. Thompson. Ở đây, Thompson tiếp cận
truyện kể từ đơn vị motif. Ông sắp xếp các motif theo logic từ các motif huyền thoại, siêu
nhiên đến các motif hiện thực, hài hước. Ông ký hiệu 23 chương theo các chữ cái La tinh
từ A đến Z. Trong mỗi chương, các mục được sắp thành từng nhóm lớn, cứ mỗi nhóm

được trao cho 100 số hoặc những bội số của 10, ví dụ: B0 – B99: con vật huyền thoại,
B100 - B199: con vật ma thuật. Kế đến, tác giả cũng chia các nhóm lớn này thành từng
cụm theo hàng chục. Cụm hàng chục đầu tiên trong một nhóm lớn dành cho những ý
tưởng chung (general idea), những ý tưởng riêng biệt sẽ xếp tiếp theo. Cách làm này
được thực hiện tiếp tục trong mỗi cụm nhỏ. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu là nội dung
chương K - Deceptions (trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh khóe lừa bịp), gồm hơn
2300 motif nói về các mánh lừa dối, việc làm của kẻ cắp và tên đểu cáng, những việc lừa
phỉnh để bắt giữ hoặc để trốn thoát, sự dụ dỗ, ngoại tình, trá hình, đánh lừa,…
15
Nhìn chung, đây là hai công trình có tính ứng dụng cao. Nó tỏ ra có ích cho những
ai nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan – nhất là giúp cho việc “tra cứu” (index)
được nhanh chóng, thuận tiện.
2. Năm 1960, Tập san nghiên cứu Châu Phi (Cahiers d’Études africaines) có hai
bài viết liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu. Đó là bài viết của Denise Paulme bàn về
việc Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] (nội dung bài viết này sẽ
được chúng tôi đề cập đến nhiều hơn trong phần 1.3.2 Sự phân loại) và bài viết Mưu
mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] của Claude Braymond. Trong bài viết, nhà nghiên
cứu lần lượt tìm hiểu các vấn đề như: mục tiêu của bẫy (les fins du piège), chiến lược bảo
vệ (stratégies de protection), bẫy trung gian của bẫy (le piège moyen d’un piège), cơ chế
bên trong của bẫy (mécanisme interne du piège),… Với cách làm trên, ông đã phân loại
cái bẫy (mưu mẹo) dựa vào mục đích mà nó hướng đến. Hướng tiếp cận này giúp cho
người đọc dễ dàng tra cứu về hệ thống mưu mẹo trong truyện kể dân gian châu Phi cũng
như áp dụng để nghiên cứu kiểu truyện con vật tinh ranh ở các đất nước, châu lục khác.
Đây là bài viết đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về mưu mẹo. Bài viết có giá trị học thuật
cao, hữu ích cho những người nghiên cứu về kiểu truyện mang tính duy lý.
Cũng nói về truyện kể châu Phi, nhà nghiên cứu người Nga, E. X. Kốtlia có bài
giới thiệu khá chi tiết về truyện kể của châu lục này. Kốtlia cho rằng: “Truyện kể về loài
vật chiếm một vị trí rất lớn trong văn học dân gian các dân tộc châu Phi và nếu so sánh
với truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích thế tục thì loại truyện này tỏ ra là một thể
loại đã hoàn toàn phát triển và định hình rõ rệt, với đặc điểm riêng của mình, với một

cụm chủ đề, với các kiểu nhân vật chính” [94, tr. 29]. Theo ông, kiểu truyện con vật tinh
ranh là “hình thức cổ điển của thể loại này, là một chuỗi khá đầy đủ các chủ đề truyện cổ
xoay quanh một nhân vật phổ biến kẻ láu cá (ranh mãnh, lừa đảo, bịp bợm), truyện kể các
cuộc phiêu lưu và thủ đoạn của nhân vật này. Nhờ có sự láu cá và khôn khéo mà nhân vật
này đã thắng cuộc trong các tính huống khác nhau” [sđd, tr. 29]. Bài viết là những gợi
mở, mách bảo rất đáng quý để tìm hiểu kiểu truyện con vật tinh ranh.
3. Trong Sáng tác thơ ca dân gian Nga (tập 1), A. M. Nôvicôva dành một phần để
bàn về kiểu truyện con vật tinh ranh. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Trong loại truyện kể về
loài vật ở Nga, các truyện cổ tích về con cáo nhiều hơn cả” [138, tr. 277]. Gắn liền với
con vật này là một chuỗi các motif cáo ăn trộm cá, cáo lừa bịp (bắt cá), cáo xưng tội, cáo
16
làm bà đỡ, cáo làm quan tòa, cáo làm mẹ đỡ đầu cho sói,… Nôvicôva nhận thấy tính hai
mặt của nhân vật con vật tinh ranh mà theo nhà nghiên cứu là “không phải tiêu biểu với
phônclo”. Bà nói thêm “Trong tất cả các truyện, con cáo đều được miêu tả là khéo léo,
giỏi giang, nhanh trí, mưu mẹo – đó là những tính cách không thể không thán phục. Song
đồng thời con cáo cũng được miêu tả như là một tên dối trá, trộm cắp, tính toán, hay thù
oán, tàn nhẫn,… Thái độ hai mặt đối với nhân vật không phải là tiêu biểu đối với
phônclo, vì phônclo mang tính chuẩn mực rất chặt chẽ và có khuynh hướng bộc lộ thái độ
hết sức phân minh” [sđd, tr. 277 – 278]. Những nhận xét của Nôvicôva không chỉ đúng
cho truyện dân gian Nga mà nó còn phù hợp với kiểu truyện con vật tinh ranh ở nhiều
quốc gia, khu vực khác.
Trước đó, trong công trình Truyện cổ tích [210], V. Ia. Propp dành chương VI để
nghiên cứu về truyện cổ tích loài vật. Trong chương này nhà nghiên cứu đã tìm hiểu các
vấn đề như tính đa dạng, tính quy tắc, nguồn gốc, cách phân loại của truyện loài vật.
Propp nhận định rằng: “Trung tâm của thể loại truyện cổ tích về loài vật là những con vật
khôn ngoan, hay có thể gọi là tinh ranh, và bao giờ cũng là kẻ chiến thắng nhờ ưu thế
vượt trội đó của mình” [210, tr. 307]. Theo Propp, ở Nga thời Trung đại đã từng tồn tại
một dòng văn học về loài cáo. Nhận xét về các mưu kế của con cáo, ông cho rằng: “Sự
lừa dối ở đây thể hiện ưu thế vượt trội của kẻ khôn ranh so với người ngu đần hay nhẹ dạ,
cả tin. Theo quan điểm của chúng tôi, sự lừa dối thường bị phán xét và định kiến về mặt

đạo đức. Nhưng trong truyện cổ tích về loài vật, ngược lại, sự lừa dối lại tạo sự thán
phục, như là một hình thức thể hiện sự khôn ngoan vượt trội của kẻ yếu so với kẻ mạnh”
[sđd, tr. 310]. Đây là công trình rất có giá trị cho những ai nghiên cứu tìm hiểu về truyện
loài vật nói chung – kiểu truyện con vật tinh ranh nói riêng.
4. Với truyện kể Mã Lai – Inđônêxia thì con can - chi (Kancil, Pêlanđúc, mang
lửa, hươu, hoẵng) là con vật tiêu biểu của trí thông minh, ranh mãnh. Đức Ninh trong bài
viết Truyện cổ tích Mã Lai – Inđônêxia [136] đã có những giới thiệu khái quát về nhóm
truyện đang khảo sát. Theo Đức Ninh, can - chi “là con vật nhỏ bé nhưng thông minh,
lanh lợi, nhanh nhẹn. Đây là hình tượng nhân vật đại diện cho trí thông minh của nhân
dân. Biết mình nhỏ bé, sức yếu nên con can - chi đã phát huy trí thông minh để giải thoát
mình trong những tình huống sống còn, khi phải đối mặt với những kẻ mạnh, hung dữ,
17
tàn ác” [136, tr. 92]. Với dung lượng của một bài viết ngắn, người đọc cũng không thể
nào đòi hỏi một sự giải quyết toàn vẹn, thấu đáo hết mọi vấn đề.
5. Trong quan niệm dân gian của Ấn Độ, vẹt được xem là một con vật tinh khôn.
Khái quát về chùm truyện con vẹt trong Truyện cổ dân gian Ấn Độ [46], Nguyễn Tấn
Đắc cho rằng: “Truyện dân gian Ấn Độ có khá nhiều mẩu chuyện kể về những con vẹt
thông minh khôn ngoan, biết cách đối phó trong những cảnh ngộ cực kỳ khó khăn” [46,
tr. 25]. Ở một bài viết khác, khi giới thiệu về truyện dân gian Campuchia, nhà nghiên cứu
nhắc đến chùm truyện con thỏ của đất nước này. Bên cạnh những nét chung về tính cách
tinh ranh của con vật tinh ranh, ông còn phát hiện ra ở kiểu truyện đặc điểm “không còn
có yếu tố thần kỳ nào cả, mà chỉ có trí tuệ. Trí tuệ dân gian đã bịa ra hay nói đúng hơn đã
sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó gỡ, những “tình huống câu đố”, rồi trí tuệ dân
gian lại tự mình gỡ giải những tình huống đó một cách bất ngờ, dễ dàng, gây hứng thú
đặc biệt cho người nghe” [44, tr. 392]. Tuy chỉ là bài viết ngắn nhưng nó chứa đựng
những nhận định có giá trị, gợi mở nhiều vấn đề thú vị liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6. Ở Việt Nam, trước năm 1990, các giáo trình văn học dân gian vẫn chưa xem
truyện loài vật như là một tiểu loại truyện cổ tích. Có thực tế này bởi vì tình hình sưu tầm
truyện cổ tích loài vật lúc đó chưa đủ số lượng tạo nên “vấn đề” để các nhà nghiên cứu
tách riêng tìm hiểu. Chính vì thế mà sau này, khi tiếp cận thêm nguồn tư liệu, phương

pháp nghiên cứu mới, Võ Quang Nhơn đã thay đổi quan điểm phân loại truyện cổ tích.
Ông thẳng thắn thừa nhận: “Vấn đề phân loại văn học dân gian nói chung và phân loại
truyện cổ tích nói riêng còn nhiều cách lý giải và xử lý chưa thống nhất, chưa phù hợp
với yêu cầu khoa học” [121, tr. 436]. Từ nhận thức đó, ông điều chỉnh lại cách phân loại
truyện cổ tích các dân tộc thiểu số, gồm: Truyện cổ tích thần kỳ, cổ tích loài vật và cổ
tích sinh hoạt. Đây là quá trình tự luận chiến để thay đổi quan niệm phân loại. Võ Quang
Nhơn thực sự là người có nhiều đóng góp trong việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân
gian các dân tộc thiểu số.
Thực ra thì từ năm 1984, trong mục từ “truyện cổ tích” (Từ điển văn học – tập 2,
bộ cũ), Chu Xuân Diên đã xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại. Nhận định về tiểu
loại này, nhà nghiên cứu khái quát: “Ở loại truyện cổ tích về loài vật, có sự kết hợp
những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân cách hóa giới tự
nhiên” [125, tr. 453]. Những khái quát ngắn gọn này có tính gợi mở cao.
18
Kế thừa thành quả của bộ giáo trình do Đinh Gia Khánh chủ biên, đồng thời vận
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tiên tiến trong và ngoài nước, năm 1990, bộ giáo
trình Văn học dân gian của trường Đại học Tổng hợp do Lê Chí Quế chủ biên được xuất
bản. Cùng thời điểm này, Hoàng Tiến Tựu (1990) cũng cho xuất bản bộ giáo trình của
ông. Cả hai bộ giáo trình đều xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại riêng. Nhắc đến
kiểu truyện này, Lê Chí Quế đã có những nhận định gợi mở rất đáng quý. Theo tác giả
“kết cấu phổ biến của những câu chuyện về con vật thông minh (đôi khi láu cá) là sự
chiến thắng của con vật bé hơn với con vật lớn hơn không phải bằng sức lực mà bằng
trí”. Từ nhận định đó, nhà nghiên cứu đề cập đến kiểu truyện con thỏ tinh ranh, ông cho
rằng “con thỏ bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, thông minh đã lập mưu lừa được cả voi, hổ, cá
sấu là những con vật to khoẻ và độc ác” [149, tr. 116 - 117]. Lê Chí Quế cũng cho rằng,
truyện kể về con thỏ không chỉ xuất hiện nhiều trong truyện dân gian Việt Nam mà còn là
con vật tiêu biểu trong truyện dân gian Campuchia, vùng Đông Nam Á và nhiều nước
trên thế giới.
Năm 2000, Lê Trường Phát biên soạn tài liệu Thi pháp văn học dân gian cũng
nhắc đến nhân vật con thỏ tinh ranh. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ nổi tiếng tinh khôn,

hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong truyện của các dân tộc thiểu số, nhất là ở các dân tộc
miền núi Trường sơn và các dân tộc Khơ me Nam Bộ, Chăm…” [140, tr. 61]. Tiếp nối
công trình trên, năm 2002, Phạm Thu Yến công bố bài viết Vấn đề giới thiệu, nghiên cứu
đặc điểm truyện cổ tích loài vật với việc sáng tác cho thiếu nhi hiện nay. Phạm Thu Yến
cho rằng: “chúng ta có một kho truyện cổ tích loài vật phong phú về số lượng, đặc sắc về
nghệ thuật”. Tuy vậy, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy “việc nghiên cứu đặc điểm nội
dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức. Hầu như chưa có một
công trình nào lấy truyện cổ tích loài vật làm đối tượng nghiên cứu riêng biệt (…) chưa
có bài nghiên cứu nào hướng đến việc khảo sát, nghiên cứu truyện cổ tích loài vật một
cách độc lập như một đối tượng nghiên cứu riêng” [200, tr. 84]. Sau khi có những nhận
xét khái quát, nhà nghiên cứu lần lượt tìm hiểu các nội dung như: vấn đề tuyển chọn và
giới thiệu truyện cổ loài vật, vấn đề phân biệt truyện loài vật với truyện ngụ ngôn hay
những đặc điểm về nhân vật, kết cấu….của thể loại này.
7. Gần đây, dưới sự chủ trì của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu
Văn hóa đã lần lượt cho ấn bản bộ Tổng tập Văn học dân gian người Việt (19 tập, 20
19
quyển) và bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23 tập). Bên
cạnh nội dung chính là các truyện kể, Nguyễn Thị Huế và Nguyễn Thị Yên đã có những
bài tổng thuật, giới thiệu về tình hình sưu tập, nghiên cứu truyện cổ Việt Nam từ trước
đến nay. Trong bài Khải luận (dùng chung cho cả hai tập 6 và 7), khi giới thiệu về tiểu
loại truyện cổ tích loài vật, Nguyễn Thị Huế đã có kết luận rất cô đọng – mà chúng tôi
gọi là tổng kết “ba không – một có”. Nhà nghiên cứu cho rằng kiểu truyện này “không có
nhân vật lý tưởng, không có kết thúc có hậu, không có công thức và mang tính chất hiện
thực” [74, tr. 33]. Đây là những đúc kết có tính gợi mở rất cao. Còn Nguyễn Thị Yên
trong bài Dẫn luận truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam đã có những nhận định
mang tính tổng kết đầu tiên về tiểu loại này trong kho tàng truyện cổ các dân tộc thiểu số
Việt Nam. Ở đây, nhà nghiên cứu chú ý đến tính đối lập giữa con vật thông minh và các
đối thủ: “Đặc điểm tính cách của loài vật cũng được đưa vào nhóm truyện về những con
vật thông minh như thỏ, khỉ, cáo mà đối lập với nó là những loài vật to xác nhưng hữu
dũng vô mưu như hổ, sư tử, sói, cá sấu và đôi khi còn có cả voi mà ở mỗi dân tộc lại có

những sáng tạo riêng” [198, tr. 62]. So với truyện cổ tích loài vật của người Việt thì
truyện của các dân tộc thiểu số đa dạng, phong phú về nội dung hơn, cốt truyện sinh
động, mộc mạc và có phần chân thực hơn [sđd, tr. 66 - 67]. Đây là “bộ sách đầu tiên tập
hợp được số lượng lớn truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số dưới dạng song ngữ và
“được sắp xếp theo các tiểu loại” [sđd, tr. 80].
8. Năm 2005, dưới sự hướng dẫn khoa học của Chu Xuân Diên, chúng tôi thực
hiện đề tài Kiểu truyện con thỏ tinh ranh trong truyện cổ Việt Nam [40]. Qua công trình
này chúng tôi đã phác thảo chân dung về kiểu truyện ở Việt Nam. Thỏ - nhân vật chính
của kiểu truyện, luôn đóng vai là kẻ chủ động đánh lừa, chơi khăm các nhân vật to lớn, có
sức mạnh hơn nó. Phần thắng lợi trong những lần “chạm trán” thường thuộc về thỏ. Với
số lượng bản kể có hạn (58 truyện) và trong phạm vi giới hạn (loài thỏ và chủ yếu khảo
sát ở Việt Nam) nên công trình vẫn bỏ ngỏ nhiều điều thú vị và buộc phải mở rộng
nghiên cứu khi có điều kiện.
9. Ngoài ra, trong khá nhiều tập truyện, bên cạnh nội dung chính là các bản kể,
chúng tôi cũng ghi nhận được nhiều nhận định, khái quát rất đáng quý qua các lời giới
thiệu của các tập truyện này. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng trong lời
giới thiệu của Truyện cổ Khơ me Nam Bộ cho rằng con thỏ tinh ranh thuộc “nhóm nhân
20
vật nhỏ bé, có nhiều đức tính đáng quý như thông minh, mưu trí, dũng cảm” [174, tr.13];
Y Thi trong Truyện cổ M’nông lại khái quát về cách ứng xử thông minh của nhân vật con
thỏ. Ông cho rằng “nhân vật con thỏ tinh ranh có cách ứng xử cực kỳ thông minh trong
mọi tình huống. Trí tưởng tượng nhiều khi phát triển một cách phong phú không lường
trước được” [161, tr.19-20]; trong lời giới thiệu cho tập Truyện cổ Cơ Ho, khi đề cập đến
kiểu truyện “có chất trí tuệ” này, nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cho rằng “loại truyện
này nhằm ca ngợi những con vật tuy bé nhỏ, nhưng thông minh, mưu trí, có khả năng
đánh bại những con vật to lớn, hung ác” [164, tr.8]. Chúng ta có thể thấy những nhận
định tương tự trong lời gới thiệu của của các công trình sưu tầm như Truyện cổ Xê Đăng
của Ngô Vĩnh Bình hay Truyện cổ Ê Đê của Y Điêng – Hoàng Thao hoặc Truyện cổ các
dân tộc Trường sơn - Tây nguyên của Đặng Nghiêm Vạn,…
10. Bên cạnh đó, cũng cần nhận thấy rằng, từ những năm 80 của thế kỷ trước cho

đến thập niên đầu của thế kỷ này, nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới cũng
được các nhà chuyên môn chuyển dịch sang tiếng Việt, trong đó, phải kể đến các công
trình như Sáng tác thơ ca dân gian Nga, Thi pháp của huyền thoại, Tuyển tập V. Ia.
Propp (2 tập), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Mỹ học folklore, Cành vàng,… Về
phía các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, trước hết phải kể đến các bộ
giáo trình Văn học dân gian của trường Đại học Sư Phạm Hà Nội (1961 – 1962), kế đến
là bộ giáo trình của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên (1972 - 1973), tiếp theo là bộ
giáo trình do Lê Chí Quế chủ biên (1990), của Hoàng Tiến Tựu (1990) cũng như hai giáo
trình Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước cách mạng tháng 8-1945) (1981) của
Phan Đăng Nhật và Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (1983) của Võ
Quang Nhơn. Ngoài những bộ giáo trình trên, thời gian này ở Việt Nam cũng xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận mang tính đánh giá, tổng kết như: công
trình Nghiên cứu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1978) của Đỗ Bình Trị; công
trình Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học (1987) và công trình Văn học dân gian -
mấy vấn đề phương pháp luận và thể loại (2004) của Chu Xuân Diên; công trình Truyện
cổ tích người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện (1994) của nhà nghiên cứu Tăng Kim
Ngân; công trình Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (2001) của Nguyễn Tấn
Đắc; công trình Văn hoá dân gian – khảo sát và nghiên cứu (2001) của Lê Chí Quế; công
trình Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái học của truyện cổ tích của V. Ja.
Propp (2007) của Đỗ Bình Trị;… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tìm hiểu,
21
nghiên cứu theo hệ đề tài, kiểu truyện. Hướng nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ
nhiều kiểu nhân vật, đề tài, trong đó phải kể đến các công trình tiêu biểu như: Thạch
Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á của Nguyễn Thị
Bích Hà, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Thị Huế,
Khảo sát và so sánh một số típ và mô típ truyện cổ dân gian Việt Nam – Nhật Bản của
Nguyễn Thị Nguyệt, Kiểu nhân vật “chàng ngốc” trong kiểu truyện cổ tích các dân tộc
Việt Nam của Phạm Thu Yến,
Như vậy, dù chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về Kiểu truyện
con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới nhưng để thực hiện đề tài,

chúng tôi cũng đã được thừa hưởng thành quả của nhiều công trình sưu tầm và nghiên
cứu trong và ngoài nước, trong đó có cả những công trình khảo sát, nghiên cứu lý luận và
những công trình sưu tầm, tập hợp, biên dịch truyện dân gian. Tất cả đã giúp cho người
viết rất nhiều về mặt phương pháp luận cũng như có được những cốt truyện cùng các bản
kể về kiểu truyện để khảo sát và nghiên cứu. Những công trình này đã giúp chúng tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài, cả ở những điều đã được giải quyết và những gì mà
các tác giả chưa đề cập đến, chưa làm thỏa mãn người đọc. Những gợi mở, những điều
còn bỏ ngỏ đó đã thúc bách chúng tôi bước tiếp vào nghiên cứu vấn đề Kiểu truyện con
vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới.
I.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.2.1. Tinh ranh - tên gọi của kiểu truyện/kiểu nhân vật chính
Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu folklore trên thế giới đã có nhiều cách định
danh khác nhau về kiểu nhân vật/kiểu truyện con vật tinh ranh. A. Aarne gọi tập hợp các
type truyện này là truyện “con vật thông minh” (the clever animal) [203]. Trong công
trình Mục lục các motif của văn học dân gian [205], S. Thompson lại dùng khái niệm
deceptions (trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh khóe lừa bịp). Khi nghiên cứu về truyện
dân gian châu Phi, Kốtlia sử dụng khái niệm “láu cá”. Trong nhận định trên, nhà nghiên
cứu ngầm giải thích rằng “láu cá” bao gồm các tính cách như ranh mãnh, lừa đảo, bịp
bợm [94, tr. 29]. Như vậy, nội hàm của khái niệm này khá giống với dụng ý của
Thompson. Trong cách hiểu của người Việt Nam, khái niệm “thông minh” mang ý nghĩa
đề cao, ngợi khen. Các khái niệm “trò lừa dối”, “mưu mẹo gian dối”, “mánh khóe lừa
22
bịp” (Thompson) hay “láu cá”, “ranh mãnh”, “lừa đảo”, “bịp bợm” (Kốtlia) lại có ý phê
phán. Do vậy, các khái niệm trên chưa thật sự phù hợp, chưa truyền tải hết tính đa diện,
đa chiều của nhân vật tinh ranh - nhân vật chính của kiểu truyện.
Nhận thấy khó có thể tìm được một khái niệm đắc dụng cho kiểu truyện trên phạm
vi toàn thế giới, A. Dundes – nhà nghiên cứu người Mỹ lại đưa ra hai khái niệm
"trompeur"(kẻ lừa đảo) và "trickster" (kẻ ranh mãnh) để so sánh nhân vật này trong
truyện kể châu Phi và châu Mĩ. Theo Dundes "những câu chuyện châu Phi khai thác là
thứ tình bạn giả tạo và kẻ bịp bợm sẽ phải trả giá cho sự phá vỡ cam kết của mình, trong

khi những kẻ bịp trong chuyện ở châu Mĩ thì lại vướng vào điều cấm và bị trừng phạt"
[dẫn theo 209, tr. 569]. Chúng tôi đồng quan điểm với D. Paulme khi cho rằng các khái
niệm và cách so sánh này "không thực sự hợp lí". Bởi theo chúng tôi, những nét khác biệt
trong truyện kể của các nước, các khu vực là điều tất nhiên. Chính điều đó làm nên sự
phong phú, đa diện của kiểu nhân vật, kiểu truyện. Tuy có những đặc điểm riêng mang
tính dân tộc, khu vực nhưng giữa chúng có những tương đồng trong cách xây dựng nhân
vật, cốt truyện, cách dẫn dắt, xâu chuỗi các tình tiết, motif trong truyện. Do vậy, không
nên vì những nét khác biệt mà dùng nhiều khái niệm để gọi tên cùng một kiểu truyện.
C. Braymond và D. Paulme lại đề xuất một khái niệm mang chất trung tính nhiều
hơn. Braymond gọi đây là kiểu truyện “mưu mẹo” (ruse) [207]. Còn Paulme dùng khái
niệm mà trước đây Thompson đã đề xuất: “décepteur” (tiếng Anh là deception) – kẻ ranh
mãnh/bịp bợm. Nhưng ở đây, theo quan niệm của bà thì khái niệm này “không hề đem lại
sắc thái xấu nào về nghĩa” [209, tr. 569]. Cách hiểu như vậy cũng chưa bao quát hết các
khía cạnh về nhân vật chính của kiểu truyện.
Ở Việt Nam, trong một số tuyển tập, tập truyện hay các giáo trình, các nhà nghiên
cứu đã đề xuất các khái niệm khác nhau như: “thông minh” [149, tr.117; 174, tr.15; 161,
tr.19; 164, tr.8], “tinh khôn”, “láu lỉnh” [47, tr.10], “gian giảo” [188, tr 16],… Các thuật
ngữ vừa nêu cũng chưa lột tả hết những nét tính cách về kiểu nhân vật này.
Trong khi đi tìm một khái niệm để đặt tên cho kiểu truyện, chúng tôi chú ý đến
nhận định về tính hai mặt mà Nôvicôva, Lê Trường Phát và Phạm Thu Yến đã nhận thấy
ở con vật này. Thực ra, trước đó, khi tìm hiểu về con cáo, Propp cũng đã linh cảm về điều
này, khi ông viết “Trung tâm của thể loại truyện cổ tích về loài vật là những con vật khôn
23
ngoan, hay có thể gọi là tinh ranh” [210, tr.307] (người viết nhấn mạnh); Lê Chí Quế
cũng có cảm nghiệm tương tự khi gọi tên kiểu truyện này là “con vật thông minh (đôi khi
láu cá)” [149, tr.117] – người viết nhấn mạnh. Từ thực tế khảo sát trên, chúng tôi cho
rằng khái niệm “tinh ranh” có thể diễn tả được những nét tính cách khác nhau, thậm chí
là trái ngược của nhân vật chính của kiểu truyện. Bởi theo Từ điển tiếng Việt, “tinh ranh”
có nghĩa là “ranh mãnh và khôn ngoan” [157, tr.789]; trong đó, “ranh mãnh” có nghĩa là
“tinh quái, tò mò” (sđd, tr. 663), mang nghĩa nghĩa phê phán, còn khôn ngoan thì có

nghĩa là “khéo léo trong việc cư xử” (sđd, tr. 441), mang nghĩa ngợi khen. Như vậy, khái
niệm "tinh ranh" truyền tải tương đối trọn vẹn tính “hai mặt” của nhân vật chính trong
kiểu truyện. Do vậy, chúng tôi sử dụng khái niệm “tinh ranh” để đặt tên cho tên nhân vật
chính và cũng là tên của kiểu truyện.
1.2.2. Kết cấu và kết cấu truyện kể dân gian
Kết cấu là thuật ngữ chỉ toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Nó
là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức
năng rất đa dạng: bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm, triển khai, trình bày hấp dẫn cốt
truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra
tính toàn vẹn của tác phẩm như một hiện tượng thẩm mỹ. Nội hàm của thuật ngữ này
không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận,
chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể
của tác phẩm. Kết cấu bao gồm bố cục, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của
tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện; nghệ
thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở
thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Do bị quy định bởi đặc điểm truyền miệng nên kết cấu của truyện kể dân gian
thường ở dạng đơn tuyến và có tính tuyến tính. Các sự kiện, hành động trong truyện được
kể theo trình tự thời gian: hành động nào xảy ra trước kể trước, hành động xảy ra sau kể
sau. Cốt truyện của truyện kể dân gian thường thông qua các sự kiện và motif. Nhìn
chung các truyện dân gian có dung lượng ngắn, kết cấu truyện sáng rõ và hoàn chỉnh. Ở
đây, sự ngắn gọn không có nghĩa là đơn giản mà là một tổ chức có độ nén về dung lượng
thông tin theo cách của văn học dân gian.
24
1.2.3. Nhân vật và nhân vật truyện kể dân gian
Trong các thể loại văn học tự sự và kịch, nhân vật là yếu tố cơ bản nhất, là công
cụ, phương tiện để tác giả thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Do đó, muốn hiểu và
nắm được chủ đề tác phẩm, trước hết, phải tìm hiểu hệ thống nhân vật trong tác phẩm.
Tùy từng góc độ khác nhau có thể chia nhân vật thành nhiều kiểu loại khác nhau như:
nhân vật chính - nhân vật phụ, nhân vật chính diện – nhân vật phản diện, nhân vật tính

cách, nhân vật loại hình, nhân vật chức năng,… Hầu hết các nhân vật trong sáng tác
truyền miệng đều là những nhân vật chức năng. Nhân vật này có các đặc điểm, phẩm chất
cố định từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ
nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Loại
nhân vật này đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm. Nó có tính khái quát cao
và bền vững.
Nhân vật truyện kể dân gian tồn tại chủ yếu qua hành động, được nhận diện qua
hành động. Bản thân nhân vật và hành động của nó ít nhiều mang tính biểu tượng. Vì
vậy, ngay cả các mưu mẹo trong kiểu truyện này cũng chỉ được miêu tả như những hành
động, chứ chưa có quá trình phát triển tâm lý.
1.2.4. Motif
Ở Việt Nam, trước khi sử dụng thuật ngữ “motif”, các nhà nghiên cứu đã sử dụng
một số thuật ngữ có nghĩa tương đương như “mẫu đề”, “khuôn”, “dạng”. Năm 1983,
Nguyễn Tấn Đắc là người đầu tiên nhắc đến khái niệm motif. Theo nhà nghiên cứu thì
“motif chỉ một thành tố nhỏ của truyện, thường có thể tách rời được, có thể lắp ghép
được, ít nhiều khác lạ, bất thường, đặc biệt, là yếu tố đặc trưng của truyện kể dân gian”
[42, tr.282]. Để nhận dạng motif, theo ông “bản thân motif cũng có thể là mẩu kể ngắn và
đơn giản, một sự việc đủ gây ấn tượng hoặc làm vui thích cho người nghe, phải có cái gì
đó làm cho người ta nhớ và lặp đi lặp lại, nó phải khác cái chung chung” [sđd, tr.282].
Năm 1992, Từ điển thuật ngữ Văn học đã định nghĩa thuật ngữ này như sau: Motif “nhằm
chỉ những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng
nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian”
[58, tr.136]. Trong tương quan với cốt truyện, motif là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện.
Vì thế, nghiên cứu motif là một công việc thiết yếu góp phần giúp người đọc hiểu cốt
25

×