Tải bản đầy đủ (.doc) (200 trang)

Thơ điền viên đời Đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 200 trang )

MỤC LỤC
3.2. Miêu tả cảnh sắc điền viên 68
4.4.1. Cấu trúc tán 136
4.4.2. Cấu trúc tụ 139
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Gần 3000 năm trước đây, ở đất nước tươi đẹp nơi phù sa hai con sông vĩ đại
Hoàng Hà và Dương Tử bồi đắp nên, người ta đã nghe vang những lời ca nồng đượm
mà thanh tao, ngọt ngào mà trang nhã, tình tứ mà phiêu du "Quan quan thư cưu, tại hà
chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu". Phải chăng vì thế mà nhân loại gọi đất
nước ấy là xứ sở của thi ca? Rất có thể. Nhưng, cái phong vận độc đáo tạo nên chân
dung thi quốc ấy không phải Kinh Thi mà chính là khí lực Đường thi. Đó là đỉnh cao
của thi ca nhân loại, trải qua hơn 1000 năm, vẫn giữ nguyên sức quyến rũ với những
người quan tâm và yêu thích nghệ thuật thơ ca. Trong thế giới Đường thi, thơ điền viên
là mảng thơ nổi bật với tên tuổi của những thi nhân kiệt xuất như Vương Duy, Mạnh
Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên… Mảng thơ này cùng thơ
sơn thủy, thơ biên tái, thơ du tiên, thơ du hiệp, thơ vịnh vật, thơ vịnh sử đã tạo nên
diện mạo kính vạn hoa thống nhất, đa dạng và sức sống mãnh liệt cùng sinh khí tràn trề
của thơ Đường. Ở nước ta, cho tới nay, chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính
chuyên biệt đề cập đến thơ điền viên đời Đường với tư cách một loại hình độc đáo, dù
người ta đã bàn rất nhiều đến thơ điền viên như một trường lưu không thể thiếu trong
nguồn chảy bất tận của Đường thi. Đa số nhà nghiên cứu ghép thơ điền viên với thơ
sơn thuỷ thành một dòng gọi là thơ sơn thuỷ điền viên và đánh giá nó là một dòng thơ
nổi bật đời Đường có nhiều thành tựu xuất sắc, mang cảm xúc chủ đạo của phần lớn thi
nhân đời Đường với những đại diện xuất chúng như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên
Các công trình nghiên cứu đã công bố đều có khuynh hướng đi sâu khai thác những
phương tiện nghệ thuật cơ bản và những tư tưởng nội dung chủ yếu của thơ sơn thuỷ
điền viên. Vấn đề nghiên cứu thơ điền viên trong tương quan độc lập với thơ sơn thuỷ
dưới góc nhìn từ cội nguồn văn hoá Trung Hoa là một vấn đề mới. Vì vậy, chúng tôi
muốn dành niềm ưu ái đặc biệt cho thơ điền viên, không chỉ bởi vị trí quan trọng của


nó mà còn hơn thế nữa, bởi sức tác động đầy mãnh lực với đời sống nội tâm con người.
1.2. Việc nghiên cứu thơ Đường không chỉ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về
văn hoá Trung Hoa mà còn cung cấp một chìa khóa góp phần giải mã thơ ca dân tộc,
nền thơ ca chịu ảnh hưởng sâu đậm phong khí thơ ca Trung Hoa, đặc biệt là phong cốt
1
Thịnh Đường. Với đề tài này, chúng tôi có tham vọng góp phần làm sáng tỏ hơn sự tiếp
biến văn hóa giữa hai nền văn hóa Trung Quốc và Việt Nam. Chúng tôi hi vọng luận án
này sẽ bổ sung lượng kiến thức nhất định về Đường thi cho thực tiễn giảng dạy thơ
Đường (và không chỉ riêng thơ Đường) trong nhà trường của chúng ta hiện nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài "Thơ điền viên đời Đường".
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Khám phá thơ điền viên từ cội nguồn văn hoá Trung Hoa. Triết học, tôn giáo,
phong tục tập quán và văn hóa tâm linh của người Trung Hoa ít nhiều đều có ảnh
hưởng tới đặc trưng thơ điền viên và tâm thức thi nhân, cho nên tìm về cội nguồn văn
hoá Trung Hoa là một cách để khám phá sâu sắc hơn, thấu triệt hơn một trong những
dòng thơ chủ đạo gần như mang khí vận của toàn Đường thi này.
2.2. Tìm hiểu một số đặc trưng nội dung cũng như nghệ thuật nổi bật của thơ điền
viên đời Đường, qua đó tìm hiểu thế giới nội tâm phong phú của các thi nhân điền viên
từ cội nguồn sâu thẳm của tâm thức truyền thống Trung Hoa.
2.3. Khẳng định vị trí quan trọng của thơ điền viên trong dòng chảy thơ Đường nói
riêng, trong nền thi ca Trung Hoa nói chung đồng thời thấy được mối quan hệ giữa nó
với những loại hình nghệ thuật khác (hội họa, điêu khắc, âm nhạc…) trong thế giới tinh
thần phong phú của đời sống con người cùng những ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi
trong nước, đặc biệt là ảnh hưởng tới thơ ca trung đại Việt Nam.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Khám phá văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng soi chiếu khá mới trong
nghiên cứu văn học hiện nay, luận án này khám phá thơ điền viên đời Đường qua việc
giải mã văn hóa Trung Hoa góp phần cung cấp một cách nhìn mới về thơ điền viên, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, giảng dạy thơ Đường ở Việt Nam.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần khẳng định vị thế đặc biệt

quan trọng không thể thay thế của dòng thơ điền viên trong toàn cảnh thơ Đường. Đây
có thể xem là chuyên luận đầu tiên ở nước ta nghiên cứu có chiều sâu về riêng mảng
thơ điền viên đời Đường.
Những đóng góp mới của luận án:
Luận án đưa ra khái niệm “thơ điền viên đời Đường”, nhấn mạnh những đặc điểm
riêng biệt của nó, khác với thơ điền viên Trung Hoa nói chung, cũng khác với thơ điền
2
viên đời Tấn và thơ điền viên đời Tống của những tên tuổi trứ danh như Đào Uyên
Minh, Phạm Thành Đại trong lịch sử thơ điền viên Trung Quốc.
Từ hướng tiếp cận văn hóa, luận án cho thấy cội nguồn sâu xa làm nảy sinh một
hiện tượng có thể xem là “đặc sản” của nền văn hóa và văn học Trung Hoa - thơ điền
viên - từ lúc phôi thai đến thời kỳ phát triển thành một dòng thơ nổi tiếng đời Đường.
Luận án không tập trung vào các đặc điểm nội dung và nghệ thuật đơn thuần của
thơ điền viên mà đặc biệt quan tâm tới sự kết hợp hài hòa của hai yếu tố này để tạo nên
những cảnh giới nghệ thuật độc đáo, đi sâu khám phá đặc trưng cơ bản, cốt lõi của thơ
điền viên trên ba phương diện: miêu tả cảnh sắc điền viên, phác họa cuộc sống ẩn dật
và tâm thức của thi nhân.
Luận án khảo sát, thống kê và phân tích, đánh giá chi tiết những bài thơ điền viên
đời Đường của hai thi nhân xuất sắc Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên đồng thời quan tâm
đến một số thi nhân khác cùng thi phái, cho phép người đọc có cái nhìn tổng hợp, khái
quát đồng thời rất cụ thể ở dòng thơ này. Phụ lục các bài thơ điền viên của luận án là tư
liệu khảo cứu hữu ích cho người đọc.
Luận án bổ sung thêm một hướng tìm hiểu thơ Đường từ góc độ đề tài bên cạnh
các hướng tìm hiểu quen thuộc từ góc độ thể loại, cấu trúc, ngôn ngữ , góp phần làm
phong phú hơn diện mạo nghiên cứu thơ Đường ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Dòng thơ điền viên đời Đường có nhiều đại diện xuất sắc, chúng tôi quan tâm đến
thơ của các thi nhân như Trừ Quang Hy, Lưu Trường Khanh, Thường Kiến, Tổ Vịnh,
Bùi Địch, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên nhưng chúng tôi chỉ chọn thơ của Vương
Duy, Mạnh Hạo Nhiên làm đối tượng nghiên cứu chính, bởi vì đây là hai đại diện xuất

sắc nhất của dòng thơ này. Toàn Đường thi của Bành Định Cầu chép thơ Vương Duy
và Mạnh Hạo Nhiên tổng có 630 bài (382 bài của Vương Duy, 248 bài của Mạnh Hạo
Nhiên), nhưng trong đó chỉ có 235 bài thơ điền viên theo quan điểm nghiên cứu của
chúng tôi, 235 bài thơ này trong Toàn Đường thi là đối tượng khảo sát chính của luận
án. Toàn Đường thi cũng chép thơ Vương Tích 42 bài, Bùi Địch 29 bài, Tổ Vịnh 36
bài, Trừ Quang Hy 188 bài, Thường Kiến 51 bài, Lưu Trường Khanh 505 bài, Vi Ứng
Vật 502 bài, Liễu Tông Nguyên 153 bài, mặc dù các thi nhân này đều thuộc dòng thơ
điền viên song không phải tất cả 1.506 bài thơ này đều là thơ điền viên. Trong phạm vi
3
luận án, chúng tôi chỉ sử dụng một số ít bài mang đậm sắc thái thơ điền viên trong số
1.506 bài thơ đó. Chúng tôi sử dụng nguyên tác chữ Hán trong Toàn Đường thi, bên
cạnh đó có sự tham khảo, đối chiếu với các cuốn thơ Đường đã được dịch ra tiếng Việt
của các dịch giả như Trần Trọng Kim, Khương Hữu Dụng, Nguyễn Hà, Ngô Văn Phú,
Nam Trân đặc biệt là cuốn Đường thi tuyển dịch của Lê Nguyễn Lưu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện luận án này dựa trên hai hướng tiếp cận: tiếp cận văn hóa và
tiếp cận thi pháp học, trong đó hướng tiếp cận văn học từ mã văn hóa là chủ đạo.
- Hướng tiếp cận văn hoá: chúng tôi tiến hành giải mã thơ điền viên đời Đường bắt
đầu từ mã văn hoá truyền thống Trung Hoa. Với cách tiếp cận này, vấn đề sẽ được nhìn
nhận có chiều sâu hơn, được khai thác triệt để hơn.
- Hướng tiếp cận thi pháp học: chúng tôi bắt đầu từ việc miêu tả đặc điểm của các
phương thức, phương tiện biểu hiện để thâm nhập hình tượng nghệ thuật, nắm bắt mã
văn hoá của các thi nhân.
Để thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành: giúp việc đánh giá các vấn đề đầy đủ, thấu triệt hơn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: nhằm xác lập cơ sở dữ liệu minh chứng cho
những luận điểm trong đề tài.
- Phương pháp phân tích, so sánh: được sử dụng khi triển khai các luận điểm nhằm
khai thác sâu hơn những vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp: giúp hệ thống các luận điểm và khái quát hoá những kết

luận khoa học.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung chính của luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cội nguồn văn hoá của thơ điền viên đời Đường
Chương 3: Cảnh vật và tâm thức nhà thơ trong thơ điền viên đời Đường
Chương 4: Chất họa trong thơ điền viên đời Đường
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Về cách gọi tên thi phái điền viên
Việc nghiên cứu Đường thi đã bắt đầu ngay từ đời Đường với phạm vi và phương
pháp nguyên thủy nhất là tuyển thơ, bình phẩm, thuật sự. Mặc dù chưa có tính khái
quát, song những phẩm bình mang khuynh hướng khảo sát toàn diện như Tư Không Đồ
thời Vãn Đường trong "Dữ Vương Giá bình thi thư" thực sự đáng chú ý: "Sau khi
Thẩm (Thuyên Kỳ), Tống (Chi Vấn) mới nổi lên, kiệt xuất với Giang Ninh, tung hoành
phóng túng với Lý (Bạch), Đỗ (Phủ), thật đã đạt đến cực điểm! Hữu Thừa (Vương
Duy), Tô Châu (Vi Ứng Vật) thú vị trong trẻo, tựa như gió mát trăng trong. Nguyên
(Chẩn), Bạch (Cư Dị) lực mạnh nhưng khí yếu, là đại thương nhân của đô thị. Lưu
Mộng Đắc (Lưu Vũ Tích), Dương Cự Nguyên cũng mỗi người đều có điểm nổi trội"
[33,225]. Có thể thấy, dù chưa có sự phân biệt rõ ràng chính xác, nhưng với việc đánh
giá cao thi phong giản dị, trong sáng của Vương Duy, Vi Ứng Vật và xếp hai nhà thơ
này vào một phong cách, đây có thể xem là nhận định sớm nhất về thi phái điền viên.
Từ đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh về sau, lịch sử nghiên cứu Đường thi ngày
càng phát triển, việc tuyển bản, tập bổ, biên niên ngày càng hoàn thiện, cách bình phẩm
phân tích ngày càng tinh tế, tính khái quát lý luận ngày càng cao. Giới nghiên cứu
Đường thi trải qua các thời đại đều quan tâm tới thi phái mà Vương Duy, Mạnh Hạo
Nhiên là đại diện. Các cuốn Chúng diệu tập, Nhị diệu tập của Triệu Sư Tú đời Nam
Tống chủ yếu tuyển thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lưu Trường Khanh cho thấy
tác giả có hứng thú đặc biệt với các nhà thơ thuộc thi phái này. Cuốn Đáp Lý Thiên

Anh thư của Triệu Bỉnh Văn đời Kim thì nói: "Thưởng thức thơ của cổ nhân, mỗi nhà
thơ có cái riêng của mình, nhưng phần nhiều có sự tương đồng về tính chất. Chẳng hạn,
Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận, Vi Tô Châu (Vi Ứng Vật), Vương Duy, Liễu Tử Hậu
(Liễu Tông Nguyên), Bạch Lạc Thiên thể hiện sự bình dị; Giang Yêm, Bão Minh Viễn
(Bão Chiếu), Lý Bạch, Lý Hạ thể hiện sự cao cả lớn lao; Mạnh Đông Dã (Mạnh Giao),
Giả Lãng Tiên (Giả Đảo) lại thể hiện cái khí ưu phẫn bất bình" [33,235]. Dù không trực
tiếp gọi tên thi phái nhưng việc sắp xếp các nhà thơ tương đồng về phong cách cùng
một dòng thơ cho thấy tác giả đã có ý thức về thi phái đồng thời đã nhận định chính
xác về đặc trưng thơ của thi phái điền viên là bình dị. Cuốn sách được coi là mẫu mực,
5
xây dựng được hệ thống cơ sở lý luận hoàn chỉnh trong nghiên cứu Đường thi đời
Minh là Đường thi phẩm vựng của Cao Bỉnh có nhận xét: "Niên hiệu Khai Nguyên,
Thiên Bảo thì có phiêu dật của Lý Hàn lâm (Lý Bạch), trầm uất của Đỗ Công bộ (Đỗ
Phủ); thanh nhã của Mạnh Tương Dương (Mạnh Hạo Nhiên); tinh tế của Vương Hữu
thừa (Vương Duy); giản dị chân thực của Trừ Quang Hy ; siêu phàm của Lý Hân,
Thường Kiến; đó chính là sự hưng thịnh của thời Thịnh Đường. Niên hiệu Đại Lịch,
Trinh Nguyên thì có Vi Tô Châu (Vi Ứng Vật) nhã đạm, Lưu Tùy Châu (Lưu Vũ Tích)
nhàn thoáng " [33,120]. Xem ra những bình luận của tác giả về thi nhân tiêu biểu và
thi phong của họ ở các giai đoạn đều chuẩn xác, dù không gọi tên thi phái nhưng Cao
Bỉnh nhận xét khá trúng những đặc trưng thường thấy trong thơ của các thi nhân thi
phái điền viên. Vương Sĩ Trinh đầu đời Thanh được xem là một nhà thi luận tiêu biểu,
chuyên theo đuổi thi phong thanh u cổ đạm của thi phái mà Vương Duy, Mạnh Hạo
Nhiên là đại diện. Trong cuốn Đường hiền tam muội tập tuyển chọn thơ của thi nhân
thời Thịnh Đường, ông coi hai nhà thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đứng đầu;
phần ngũ ngôn cổ thi trong Cổ thi tuyển của ông, từ Trung Đường về sau chỉ chép hai
nhà thơ Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên. Ông đánh giá rất cao thơ của các nhà thơ theo
dòng này, cho rằng thơ của họ làm lộ rõ cái chân diện mục của Đường thi, "ẩn chứa
phong lưu, bao hàm vạn vật", đạt tới cái "thần vận", cái "tình vị tự nhiên kỳ diệu, hàm
súc thâm thúy , ý vị sâu sắc mà lại khó nói rõ ra được" [33,249].
Từ thời Ngũ Tứ trở lại đây, lịch sử nghiên cứu Đường thi của Trung Quốc có sáng

tạo mới, từ quan niệm và phương pháp truyền thống hướng tới quan niệm và phương
pháp khoa học. Vì vậy, những công trình nghiên cứu ngày càng mang tính tổng hợp
cao, mở rộng mối liên hệ với nhiều lĩnh vực, cho thấy được nhiều chiều, nhiều phương
diện đồng thời tính chuyên biệt ngày càng sâu. Nếu ở thời kỳ trung đại, giới nghiên cứu
Đường thi khi nhắc đến Thịnh Đường dường như chỉ quan tâm đến Lý Bạch, Đỗ Phủ,
có đề cập đến thơ thuộc dòng Vương - Mạnh cũng chỉ là bình điểm thoáng qua, thì ở
thời kỳ sau này, các nhà nghiên cứu đã quan tâm nhiều hơn tới Vương Duy, Mạnh Hạo
Nhiên, Liễu Tông Nguyên , đặc biệt đã chú ý hơn tới vấn đề lưu phái, phong cách, thể
thức và coi trọng bình giá nghệ thuật. Trong "Vương Duy nghiên cứu luận văn sơ
biên", Trần Tài Trí đã tập hợp các công trình nghiên cứu về Vương Duy tại Trung
Quốc (bao gồm cả các công trình của các tác giả Nhật Bản, Hàn Quốc) từ năm 1948
6
đến năm 1999 (dĩ nhiên đây không phải là kết quả đầy đủ nhất). Theo thống kê của
chúng tôi, có tất cả 600 công trình, chủ yếu là các bài báo khoa học đăng trên các tạp
chí, tập san, học báo của các trường đại học, học viện hoặc chuyên san của một số địa
phương. Về thơ miêu tả thiên nhiên của Vương Duy, đa số tác giả sử dụng cụm từ thơ
sơn thủy điền viên hoặc thơ sơn thủy, thơ tự nhiên, rất ít khi dùng cụm từ thơ điền viên
(120 công trình nghiên cứu dùng cụm từ thơ sơn thủy điền viên, thơ sơn thủy, thơ tự
nhiên trong khi chỉ có 7 công trình dùng cụm từ thơ điền viên). Có thể thấy, với các tác
giả Trung Quốc, thơ điền viên hay thơ sơn thủy dường như không có sự khác biệt, họ
thường gộp chung lại gọi là thơ sơn thủy điền viên. Tên tuổi của Đào Uyên Minh -
người khởi xướng thơ điền viên và Tạ Linh Vận - người bắt đầu thơ sơn thuỷ cũng
thường được nhắc liền nhau.
Hầu hết các tác giả đều cho rằng dòng thơ lấy miêu tả ngâm vịnh cảnh vật sông núi
thiên nhiên làm chủ đạo đời Đường mà Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại diện xuất
sắc chính là thơ sơn thuỷ điền viên. Trong cuốn "Lịch sử văn học Trung Quốc" của Sở
nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (Dư Quan Anh - Tiền
Chung Thư - Phạm Ninh chủ biên), các tác giả cho rằng có "sự phân chia các trường
phái theo đề tài như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ sơn thuỷ điền viên" và
nhận định: "các nhà thơ sơn thuỷ điền viên kế thừa truyền thống nghệ thuật của Tạ

Linh Vận và Đào Uyên Minh. Trong việc phản ánh vẻ đẹp thiên nhiên cũng như trong
kĩ xảo miêu tả, họ có phát triển thêm và làm cho phong phú hơn" [1,415]. Theo quan
niệm của các tác giả cuốn sách, sự khác biệt giữa hai đề tài sơn thuỷ (sông núi) và điền
viên (ruộng vườn) là không rõ nét vì chúng đều nói về thiên nhiên, về cảnh vật tự nhiên
của thế giới khách quan. Nếu có khi nào họ gọi là "thơ sơn thuỷ" hoặc "thơ điền viên"
thì họ cũng vẫn ngầm hiểu nó bao hàm cả cảnh vật sơn thuỷ và cảnh vật điền viên:
"Trong các nhà thơ Thịnh Đường, Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Trừ Quang Hy đều
nổi tiếng về miêu tả sơn thuỷ điền viên, phong cách nghệ thuật cũng tương đối gần
nhau, nên gọi là phái thơ sơn thuỷ Qua thơ của thi phái này ta thấy tiếp sau Tạ Linh
Vận, thơ sơn thuỷ Trung Quốc lại một lần nữa xuất hiện và phát triển, thể hiện một mặt
phồn thịnh của thơ ca thời kì đó" [1,444]. Sách "Trung Quốc văn học sử" (Chương Bồi
Hoàn - Lạc Ngọc Minh chủ biên) không có nhận định về phái thơ sơn thuỷ điền viên
song khi nhận xét về các thi nhân tiêu biểu của thơ điền viên là Vương Duy, Mạnh Hạo
7
Nhiên thì các tác giả mặc nhiên coi hai cụm từ sơn thủy và điền viên là như nhau. Các
tác giả nhận xét thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên rất gần gũi với Đào Uyên Minh - thi
nhân khởi đầu phái điền viên nhưng lại gọi thơ của họ là thơ sơn thủy. Các tác giả sách
"Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc" (Nhà xuất bản Đại bách khoa toàn thư Trung
Quốc) cũng gọi chung thơ sơn thủy và thơ điền viên là phái thơ sơn thủy: "Tiêu biểu
cho những nhà thơ ca vịnh sơn thủy và cuộc sống điền viên có Vương Duy, Mạnh Hạo
Nhiên, Trừ Quang Hy, Thường Kiến Phái nhà thơ này về mặt khai thác cái đẹp tự
nhiên đã đưa thơ sơn thủy từ Lục triều tiến lên một bước dài" [121,242]. Trong cuốn
"Trung Quốc phân thể văn học sử" (Thi ca quyển, Triệu Nghĩa Sơn - Lý Tu Sinh chủ
biên) các tác giả giải thích rất rõ: "Nội dung thơ Thịnh Đường phong phú đa sắc nhưng
có hai đề tài chủ yếu là thơ biên tái và thơ sơn thủy điền viên. Thơ điền viên do Đào
Uyên Minh khai sáng, thơ sơn thủy do Tạ Linh Vận mở đầu, đến đời Đường thì hội tụ
lại, và sự hưng thịnh của các tác phẩm không phải là ngẫu nhiên" [149,87]. Như vậy,
các tác giả có phân biệt thơ sơn thủy và thơ điền viên nhưng chỉ là ở giai đoạn trước đó,
còn đến đời Đường thì theo họ, hai phái thơ này đã hòa nhập thành một gọi là thơ sơn
thủy điền viên. Do Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là hai đại diện xuất sắc nhất nên thi

phái này còn được gọi là Vương - Mạnh thi phái. Trịnh Chấn Phong trong "Trung
Quốc văn học đại sự niên biểu" nhận xét: "Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên cùng nổi
danh, hợp thành phái Vương - Mạnh, đều là thi nhân đại biểu của thi phái sơn thủy điền
viên thời Thịnh Đường. Thi nhân thuộc về thi phái này còn có Trừ Quang Hy, Thường
Kiến, Tổ Vịnh, Lưu Thận Hư, Bùi Địch" [141,77]. Sách "Trung Quốc văn học sử" của
Viên Hành Bái cũng khẳng định: "Đương thời, lấy Vương Mạnh làm trung tâm, còn có
những thi nhân tương cận với họ về thi phong như Bùi Địch, Trừ Quang Hy, Lưu Thận
Hư, Trương Tử Dung, Thường Kiến" [141,77].
Cùng chung quan điểm với các tác giả sách nghiên cứu lịch sử văn học, các tác giả
những công trình tổng hợp, khái quát chung nền văn hóa truyền thống Trung Hoa khi
nói về thơ Đường cũng không chú ý phân định tên gọi thi phái này, có thể gọi là phái
sơn thủy, có thể gọi là phái điền viên, cũng có thể gọi là phái sơn thủy điền viên. Sách
"Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc" (Vương Kiến Huy - Dịch Học Kim chủ biên)
khi ghi chép về các dòng phong cách trong lịch sử văn học Trung Quốc xác định thơ
đời Đường có ba thi phái: thi phái Hàn Mạnh do hai nhà thơ Hàn Dũ và Mạnh Giao là
8
đại biểu, thiên về gọt giũa ngôn từ, đi tìm sự bay bổng kỳ lạ về hình thức, có khía cạnh
thuộc khuynh hướng hình thức chủ nghĩa; thi phái biên tái bao gồm những nhà thơ giỏi
biểu hiện cuộc sống biên tái, đạt được thành tựu cao nhất là Cao Thích và Sầm Tham;
thi phái điền viên với những nhà thơ tiêu biểu là Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trừ
Quang Hy, Thường Kiến kế thừa và phát huy truyền thống của những thi nhân sơn
thủy điền viên ưu tú như Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận từ thời Ngụy Tấn. Sách "Lịch
sử văn hoá Trung Quốc" do Đàm Gia Kiện chủ biên cũng khẳng định: "Những nhà thơ,
đại biểu là Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên thì miêu tả non sông gấm vóc, thú sống nơi
sơn dã, nông thôn, hình thành phái thơ sơn thuỷ điền viên" [55,238]. Cuốn "Cội nguồn
văn hoá Trung Hoa" (Đường Đắc Dương chủ biên) thì gọi thơ miêu tả cảnh vật sơn
thuỷ là "thơ điền viên": "Thi nhân thời Thịnh Đường chia ra dòng thơ biên tái và dòng
thơ điền viên. Dòng đầu chú trọng đề tài chiến tranh và đấu tranh chính trị, phong cách
thơ mạnh mẽ, dòng sau chú trọng nhiều đến cảnh vật sơn thuỷ" [23,891]. "Đại cương
lịch sử văn hóa Trung Quốc" (Ngô Vinh Chính - Vương Miện Quý chủ biên) cũng xác

định thời Thịnh Đường, thơ Trung Quốc có hai phái thơ chính là "phái điền viên do
Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy làm chủ chốt, chuyên miêu tả cảnh ruộng vườn nhàn tản
và cảnh sông núi yên tĩnh" và phái biên tái do Cao Thích, Sầm Tham là nòng cốt. Theo
các tác giả, "Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên kế thừa Đào Tiềm, Tạ Linh Vận mà có
thành tựu cao. Cùng thi phái này còn có Trừ Quang Hy, Thường Kiến, Tổ Vịnh, Bùi
Địch" [14,205].
Bên cạnh những công trình tổng hợp, khái quát lịch sử văn học, văn hóa Trung
Quốc, những chuyên luận nghiên cứu sâu về thơ Đường cũng không thống nhất cách
gọi tên thi phái này. Trần Bá Hải trong chuyên luận "Đường thi học dẫn luận" khẳng
định: "Trên thi đàn Thịnh Đường quần tinh lấp lánh, có hai trào lưu đặc biệt thu hút sự
chú ý của mọi người, một là trào lưu thơ biên tái do Cao Thích, Sầm Tham, Lý Hàn,
Vương Xương Linh làm đại diện; hai là trào lưu thơ sơn thủy điền viên do Vương Duy,
Mạnh Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy, Thường Kiến làm đại diện Thơ sơn thủy điền viên
thì tổng hợp truyền thống vịnh tả điền viên của Đào Uyên Minh và tả cảnh sơn thủy
của Tạ Linh Vận, nhưng biến đổi thêm, lấy tình thú điền viên thưởng thức sơn thủy, lại
lấy nhãn quan sơn thủy để thưởng thức điền viên" [33,141]. "Sơn thủy điền viên thi
phái nghiên cứu" của Cát Hiểu Âm có nhận xét: "Sơn thủy điền viên là đề tài phổ biến
9
nhất trong thơ thời Thịnh Đường, và mọi người thường xếp Trừ Quang Hy, Tổ Vịnh,
Thường Kiến vào Vương Mạnh thi phái" [141,77]. Câu Nhĩ Bộ trong "Thịnh Đường
sơn thủy điền viên thi nhân" cũng đánh giá: "Thơ sơn thủy mở đầu với Tạ Linh Vận
thời Nam Triều, thơ điền viên mở đầu với Đào Uyên Minh đời Tấn Tống. Đến thời
Thịnh Đường, thơ sơn thủy điền viên hội nhập lại thành một thời kỳ phồn vinh, xuất
hiện nhiều thi nhân lấy việc sáng tác thơ sơn thủy điền viên làm chủ yếu, được gọi là
sơn thủy điền viên thi phái, lấy Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại biểu, ngoài ra còn
có Trừ Quang Hy, Thường Kiến, Tổ Vịnh, Bùi Địch" [127,2]. Trong chuyên luận
"Trung Quốc sơn thủy thi nghiên cứu", tác giả Vương Quốc Anh giải thích: "Trong lịch
sử văn học, đối với việc thêm danh xưng sơn thủy thi nhân cạnh tên của Đại Tạ, Tiểu
Tạ (Tạ Linh Vận, Tạ Diểu) đều không có dị nghị, nhưng về cách gọi Vương Duy, Mạnh
Hạo Nhiên thì từ trước đến giờ không thống nhất, hoặc gọi là điền viên thi nhân, hoặc

gọi là sơn thủy thi nhân, hoặc gọi tự nhiên thi nhân hoặc sơn thủy điền viên thi nhân.
Việc này dĩ nhiên là do Vương, Mạnh vừa viết thơ điền viên, cũng vừa viết cả thơ sơn
thủy, nhưng cơ bản là vì đại bộ phận thơ sơn thủy của họ đều ngầm chứa cái tình thú
điền viên. Gọi là tình thú điền viên, đương nhiên không phải ý nói trong thơ nhất định
phải có phong cảnh ruộng vườn, công việc nông gia, mà muốn hướng về cái hứng thú
thanh thản, điềm đạm tựa bài hát của trẻ chăn trâu giống như được biểu hiện trong đại
bộ phận thơ điền viên của Đào Uyên Minh" [125,202]. Theo cách giải thích của Vương
Quốc Anh, sở dĩ không có sự phân biệt sơn thủy với điền viên trong thơ Vương Duy,
Mạnh Hạo Nhiên là vì thơ của họ có sự dung hòa hứng thú điền viên với cảm quan sơn
thủy, điều mà trước đó Đào Uyên Minh và Tạ Linh Vận chưa làm được.
Trần Đồng Phương trong bài báo Sơn thủy, điền viên, dị thú biệt tình - thiển đàm
Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận đích quy ẩn hòa thi tác đăng trên Hoài Bắc môi sư viện
học báo năm 2001 đã có chú ý đến sự khác biệt giữa sơn thủy và điền viên, ông so sánh
người mở đầu thơ điền viên và người khai sáng thơ sơn thủy, cho rằng thơ điền viên
của Đào Uyên Minh miêu tả cảnh sắc điền viên thực chất là để nói lên phẩm cách kiên
trinh, cao ngạo của người kiên quyết không chịu thỏa hiệp với hiện thực đen tối, cái
tình của thi nhân gửi vào cảnh đậm đà chan chứa; còn thơ sơn thủy của Tạ Linh Vận
chủ yếu tập trung khắc họa vẻ đẹp của cảnh vật tự nhiên, thiên nhiên ở đây độc lập với
tâm tình thi nhân. Như vậy, tác giả đã phân biệt hai loại thơ dựa trên tiêu chí hòa hợp
10
giữa cảnh vật tự nhiên và tình cảm của con người. Đây là một gợi ý rất có ích cho
chúng tôi khi thực hiện luận án này.
Có thể thấy, đa số các nhà nghiên cứu Trung Quốc không quan tâm phân biệt sơn
thuỷ và điền viên trong thơ Đường mặc dù chúng là hai đề tài khác nhau, họ cũng
không thống nhất cách gọi tên thi phái sáng tác về đề tài này, có người gọi là thi phái
điền viên, có người gọi là thi phái sơn thủy, có người gọi là thi phái sơn thủy điền viên,
còn có người gọi là thi phái Vương - Mạnh. Việc các nhà nghiên cứu Trung Quốc để
lại chỗ trống khoa học này đã tạo nên ý tưởng nghiên cứu thú vị cho chúng ta. Do mối
quan hệ đặc biệt lâu đời giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc mà chúng ta
biết đến thơ Đường từ khá sớm. Nhưng do quan niệm Việt Nam và Trung Quốc là hai

nước đồng văn, cùng chung nền văn minh phương Đông, nên "thời trung đại, các nhà
văn Việt Nam dịch hoặc mô phỏng văn học Trung Quốc là để thưởng thức thẩm mỹ
chứ chưa coi là giới thiệu một nền văn học nước ngoài, do đó gần như chưa có một
công trình nghiên cứu văn học Trung Quốc hoàn chỉnh nào" [106,66]. Thành tựu
nghiên cứu thơ Đường của chúng ta thời trung đại mới chỉ dừng ở sưu tầm, trích dịch
tác phẩm, có thể kể những cuốn Đường thi quốc âm, Đường thi trích dịch, Đường thi
tuyệt cú diễn ca , trong đó nổi tiếng nhất là bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh.
Đến đầu thế kỷ XX, bắt đầu từ công việc dịch thơ Đường sang chữ quốc ngữ, chúng ta
mới quan tâm đến việc giới thiệu, nghiên cứu thơ Đường. Đầu những năm 40 của thế
kỷ XX đã xuất hiện những công trình dịch thơ Đường khá đầy đặn của Trần Trọng
Kim, Ngô Tất Tố, Nhượng Tống nhưng việc khảo cứu, phân tích thơ Đường vẫn
chưa được chú ý nhiều do văn học Việt Nam lúc bấy giờ đang chịu sự tiếp xúc mạnh
mẽ với văn học phương Tây. Phải đến cuối thế kỷ XX, chúng ta mới có nhiều thành tựu
trong nghiên cứu thơ ca cổ điển Trung Quốc, nhất là thơ Đường.
Về mảng thơ điền viên đặc sắc đời Đường mà Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại
diện, các nhà nghiên cứu Việt Nam phần nhiều theo quan niệm của các tác giả Trung
Quốc, cũng không đặt vấn đề phân biệt tên gọi thi phái, đa số đều xếp sơn thuỷ và điền
viên chung một dòng, và có thể gọi là phái sơn thủy điền viên, phái điền viên, phái sơn
thủy, phái Vương Mạnh, hay phái tự nhiên. "Đại cương văn học sử Trung Quốc" của
Nguyễn Hiến Lê khẳng định Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại biểu của "phái tự
nhiên", phái thơ "cho rằng không còn cách nào cải tạo được thời thế, nên chán đời,
11
muốn ẩn trong rừng sâu, núi thẳm, nghe tiếng suối, tiếng chim, nhìn mây bay, trăng
mọc. Họ chịu di phong của Đào Tiềm và Tạ Linh Vận, nhàn tản giữa cảnh thiên nhiên,
dùng nghệ thuật để tả cái thú nhấp trà trong sương sớm hoặc nhìn cúc dưới gió chiều"
[61,443]. "Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc" của các tác giả Trương Chính, Trần
Xuân Đề, Nguyễn Khắc Phi (NXB Giáo dục, H.1961) cũng nhận xét thơ tả cảnh của
Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là "thứ thơ sơn thuỷ điền viên của những người siêu
thoát, nhàn nhã, tách rời cuộc sống xã hội" [44,11]. Cuốn "Đại cương văn hoá phương
Đông" của Lương Duy Thứ khẳng định có thể chia thơ Đường thành bốn phái theo nội

dung và phong cách biểu hiện: phái biên tái, phái điền viên, phái lãng mạn, phái hiện
thực. Theo tác giả, phái điền viên "đề tài chủ yếu là cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, hai
nhà thơ tiêu biểu là Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên" [104,50]. Sách "Giới thiệu văn
hóa phương Đông" do Mai Ngọc Chừ chủ biên cho rằng thái độ sống "chọn con đường
ẩn sĩ, muốn ẩn mình nơi núi rừng bao la, tìm sự thanh tịnh cho cuộc sống và tâm hồn"
là đề tài sáng tác của phái thơ sơn thủy điền viên thời Thịnh Đường, đại diện là Vương
Duy, Mạnh Hạo Nhiên. Các thi nhân ấy "bằng những lời thơ tinh tế và dẹp đẽ miêu tả
cảnh sắc sông núi tươi đẹp và cuộc sống điền viên thanh tịnh, tâm hồn nhà thơ chìm
đắm trong thế giới tự nhiên đầy màu sắc, trút bỏ hết những vướng bận của đời sống
hiện thực xung quanh" [16,870]. Trong "Tìm hiểu thơ Đường", Trần Trọng San lại
đánh giá "Thơ thời Thịnh Ðường có thể xếp thành ba phái chính: phái biên tái, phái
điền viên và phái xã hội" trong đó "phái điền viên bắt nguồn từ thơ Ðào Uyên Minh
thời Tấn Trong thời kì này, phái điền viên có những tác giả hữu danh như nhà ẩn sĩ
phong lưu Mạnh Hạo Nhiên, vị thi Phật Vương Duy với những bài thơ đầy điệu nhạc, ý
họa và vị thi Tiên Lý Bạch phóng khoáng hồn nhiên" [86,6]. Cách phân chia thi phái
như trên và việc xếp Lý Bạch vào dòng thơ điền viên là một gợi ý khá mới lạ. Trong lời
giới thiệu cuốn "Thơ Đường", Nam Trân gọi phái thơ của Vương Duy, Mạnh Hạo
Nhiên, Trừ Quang Hy là "phái Vương Mạnh". Nguyễn Tôn Nhan trong "Từ điển văn
học cổ điển Trung Quốc" cũng giải thích về "Vương Mạnh thi phái": "Cuối đời họ đều
thoát ly hiện thực, ẩn cư ở nơi cảnh đẹp, sống cuộc đời ẩn dật thanh nhã an nhàn, thơ
thời kỳ này của họ chủ yếu là ca ngâm về vẻ đẹp của điền viên sơn thuỷ, diễn tả thú vui
nhàn hạ của bản thân mình" [72,885]. Trong "Bách khoa thư văn hóa cổ điển Trung
Quốc", Nguyễn Tôn Nhan khẳng định "trường phái thi ca ngâm vịnh cảnh sắc tự nhiên
12
sơn thủy và đời sống ruộng vườn ở đời Thịnh Đường" là sơn thủy điền viên phái
[73,228]. Trong các chuyên luận của một số tác giả chuyên nghiên cứu về thơ Đường,
thi phái mà Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên là đại biểu trứ danh đều được gọi là thi phái
sơn thủy điền viên. Như "Diện mạo thơ Đường" của Lê Đức Niệm khẳng định thời
Thịnh Đường "xuất hiện nhiều nhà thơ nổi tiếng đi vào đề tài xã hội, thiên nhiên và cá
nhân. Nhóm thơ sở trường sơn thuỷ điền viên có Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Trừ

Quang Hy…" [74,31]. "Thi pháp thơ Đường", công trình nghiên cứu về hệ thống
phương tiện nghệ thuật thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải cũng cho rằng đời Đường
có thi phái sơn thủy và thi phái biên tái, phái sơn thủy được khởi phát từ thời Lục triều
với Đào Tiềm và Tạ Linh Vận. Trong tiểu luận "Văn học Trung Quốc với nhà trường",
Hồ Sĩ Hiệp khi bình bài thơ Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đã nhận định: "Mạnh Hạo
Nhiên là người chủ xướng của thi phái sơn thủy điền viên cùng với Vương Duy"
[38,71]. Các công trình nghiên cứu riêng về Vương Duy như Về thơ Vương Duy của
Đinh Vũ Thùy Trang, Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường: Vương
Duy do Lê Nguyên Cẩn chủ biên, Nghệ thuật hội họa trong thơ sơn thủy điền viên của
Vương Duy và Một số đặc trưng cảnh giới nghệ thuật thơ Vương Duy của Trần Thị
Thu Hương đều đánh giá Vương Duy là chủ soái của thi phái điền viên sơn thủy. Như
vậy, đa số đều ghép thơ sơn thủy với thơ điền viên thành một dòng. Trong chuyên luận
"Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường", Nguyễn Sĩ Đại phân chia hệ
thống đề tài của thơ Đường trong đó có nhấn mạnh tới đề tài thiên nhiên và cho rằng sự
phân chia đề tài chỉ có tính chất tương đối vì "bất cứ đề tài nào cũng lấp lánh hình ảnh
thiên nhiên và trong đề tài thiên nhiên, điều các tác giả muốn gửi gắm vẫn là chuyện
con người" [24,56]. Tác giả đánh giá cao đề tài này trong thơ Đường, cho nó "vừa làm
nền, vừa là phương tiện biểu đạt, vừa thể hiện quan niệm đồng nhất giữa con người và
thế giới, là chuẩn mực, là sự hướng tới của con người" [24,65] và lấy thơ Vi Ứng Vật
để minh chứng cho luận điểm đó. Mặc dù không bàn trực tiếp về thi phái song tác giả
đặc biệt quan tâm đến đề tài thiên nhiên, là cơ sở hình thành thi phái điền viên (thực
chất phân chia thi phái là sơn thủy, là điền viên hay là biên tái đều dựa vào đề tài).
Chúng tôi nhận thấy trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã
bắt đầu chú ý phân biệt thơ điền viên và thơ sơn thủy. Trong lời giới thiệu "Đường thi
tuyển dịch", Lê Nguyễn Lưu phân chia thơ Đường theo đề tài và có khu biệt rõ ràng
13
sơn thuỷ với điền viên. Tác giả cho rằng thơ điền viên là "thơ miêu tả sinh hoạt nông
thôn hay cảnh ngộ nông dân" còn thơ sơn thuỷ là "thơ thiên nhiên có nội dung miêu tả
cảnh núi sông cây cỏ", là "một mảng thơ khá lớn, biểu hiện cảm xúc chủ đạo của hầu
hết các tác giả đời Đường" [66,116]. Chuyên luận Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung

Quốc và bài báo Thơ sơn thủy Vương Duy cũng thể hiện sự phân biệt thơ điền viên và
thơ sơn thủy của tác giả Trần Trung Hỷ. Ông cho rằng "thơ điền viên là loại thơ lấy
cảnh nông thôn, loại cảnh quan nhân vi (tức cảnh vật do bàn tay con người tái tạo sắp
xếp) làm đối tượng thẩm mỹ chính, về tâm lý tỏ ra an nhiên, tự tại, ổn định" [48,11],
còn "thơ sơn thủy là một thể tài độc lập của thơ ca, lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm
mỹ chủ yếu, thông qua miêu tả cảnh vật để bộc lộ tâm tình", tác giả còn nhấn mạnh
"tức là loại thơ lấy cảnh tự nhiên làm đề tài. Nó viết về núi sông, về trời đất bao la,
không chỉ đơn thuần miêu tả một cành hoa, một phiến đá, một cánh chim , tức chỉ là
cảnh tự nhiên một cách khách quan mà là cảnh tự nhiên đã được thi nhân chủ quan
hóa" [48,8]. Theo tác giả, đối tượng chủ yếu của thơ điền viên là cảnh nông thôn mang
tính nhân tạo, thể hiện ý thức quy ẩn theo mô hình xã hội nông nghiệp cổ truyền, bình
lặng và ổn định, còn thơ sơn thủy chủ yếu là miêu tả tự nhiên phong quang, cảnh vật
chất chứa tâm trạng lưu lạc, "tiếu ngạo giang hồ". Tác giả dựa vào tiêu chí đó để kết
luận "trong hơn 400 bài thơ của Vương Duy chỉ có khoảng trên dưới mười bài
(như Tân tình dã vọng, Chung Nam biệt nghiệp, Sơn cư thu minh, Sơn cư tức sự, Võng
Xuyên nhàn cư tặng Bùi tú tài Địch, Tặng Bùi thập Địch, Vị Xuyên điền gia…) đích
thực là thơ điền viên" [49,1]. Chúng tôi không cho rằng thơ điền viên của Vương Duy
chỉ có khoảng trên dưới mười bài, nhưng sự xác lập ranh giới đề tài và phân biệt thơ
sơn thuỷ với thơ điền viên như các ý kiến trên là những gợi ý bổ ích cho chúng tôi
trong việc xác định phạm vi của vấn đề nghiên cứu.
Về vấn đề tên gọi thi phái, theo chủ kiến của chúng tôi, phân chia sơn thuỷ và điền
viên thành hai thi phái khác nhau có lẽ hợp lý hơn. Sơn thủy và điền viên tuy có những
điểm tương đồng (cùng nói đến cảnh đẹp thiên nhiên khách quan, cùng thể hiện tâm
thức lánh trần thoát tục) song cái bình yên, ấm áp nơi ruộng vườn khác hẳn cái diễm lệ,
hùng vĩ của núi sông; cái an nhàn, thanh đạm giữa thôn quê không giống với cái tao
nhã, phóng khoáng quanh non nước; và trạng thái lánh đời ở ẩn của người vui với thú
điền viên cũng khác xa tâm thế ngao du thưởng ngoạn của kẻ phiêu dật chốn sơn thuỷ.
14
Đặc trưng không gian sơn thuỷ không trùng với không gian điền viên. Trong luận án
này, chúng tôi sẽ làm rõ sự khác biệt của hai kiểu không gian đặc trưng cho hai thi phái

sơn thủy và điền viên.
1.2. Về đặc trưng nội dung và nghệ thuật của thơ điền viên
Khi nhận xét về đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ điền viên, các nhà nghiên
cứu Trung Quốc đều có ý kiến tương đối thống nhất và họ đánh giá rất cao đặc trưng
của dòng thơ này trong việc biểu hiện đời sống tinh thần con người thông qua những
phương tiện nghệ thuật độc đáo. Các tác giả của sách "Tinh hoa tri thức văn hóa Trung
Quốc" (Vương Kiến Huy - Dịch Học Kim chủ biên) nhận xét: "Về mặt nghệ thuật, thơ
họ ngày càng tinh tế. Thông qua việc miêu tả cảnh sắc điền viên, họ bộc lộ tấm lòng tha
thiết đối với cuộc sống yên tĩnh và lòng mến yêu phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Qua
đó, họ cũng nói lên nỗi buồn khi có tài mà không gặp vận và sự oán ghét đối với bọn
quan trường hủ bại" [43,1177]. Theo đánh giá của các tác giả sách này thì thơ của thi
phái điền viên "giá trị tư tưởng không bằng thi phái biên tái, song vì họ đã miêu tả được
phong cảnh điền viên tươi đẹp, kỹ xảo nghệ thuật tương đối cao nên mới được người
đời sau tôn sùng" [43,1177]. "Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc" (Nhà xuất bản Đại
bách khoa toàn thư Trung Quốc) cho rằng: "Tác phẩm của họ phần lớn phản ánh tâm tư
tình cảm nhàn tản, ẩn dật, màu sắc thanh đạm, tình ý sâu xa, sử dụng nhiều hình thức
cổ thể năm chữ và thơ luật năm chữ" [121,242]. "Đường thi giám thưởng từ điển" của
133 tác giả (Thượng Hải từ thư xuất bản xã tái bản năm 2007) có nhận xét: "Tác phẩm
của Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Thường Kiến, Trừ Quang Hy đều thành công
trong việc miêu tả nét u tịnh của cảnh sắc, phản ánh tâm tình an tĩnh của thi nhân. Loại
thơ này khiến con người thoát ly việc đấu tranh với hiện thực, nhưng cũng có tác dụng
như một liều thuốc quý, giúp con người tránh khỏi thói ganh đua, xu nịnh đồng thời
cung cấp chuẩn mực không thể thay thế trong cách hưởng thụ vẻ đẹp của tự nhiên.
Những thi nhân này kế tục thơ sơn thủy điền viên của Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận,
Tạ Diểu, về sự tự nhiên, chất phác của tình cảnh thì không kém nhưng việc sử dụng
ngôn ngữ thì tinh thâm, thần diệu hơn nhiều. Thời kỳ sau có Vi Ứng Vật, Liễu Tông
Nguyên cũng theo đuổi phong cách này" [163,3]. Trần Bá Hải trong chuyên luận
"Đường thi học dẫn luận" nhận xét thơ điền viên "biểu hiện khá nhiều tư tưởng quy
điền ẩn dật và tình cảm nhàn nhã vô ưu, tạo được sắc thái thanh đạm, ý cảnh thâm trầm
15

kín đáo" và "thường dùng thể tài ngôn ngữ cổ thi, ngũ ngôn luật tuyệt" [33,141]. Câu
Nhĩ Bộ trong "Thịnh Đường sơn thủy điền viên thi nhân" cho rằng các thi nhân của thi
phái điền viên sơn thủy đã "lấy sơn thủy điền viên làm đối tượng thẩm mỹ, gửi sự tinh
tế của bút pháp vào cái tĩnh mịch của sơn lâm, cái mênh mang của thôn dã, thông qua
miêu tả phong cảnh tự nhiên cảnh vật nông thôn và cuộc sống ẩn cư an nhàn điềm đạm
để biểu đạt sự bất mãn đối với hiện thực, hướng về cuộc sống yên tĩnh nhàn du, biểu
hiện cái an tĩnh đạm bạc của tình cảm, cái khoan thai tự đắc của cuộc sống sơn cư.
Dòng thơ này thi cảnh sâu sắc tươi đẹp, phong cách điềm tĩnh đạm nhã, ngôn ngữ trong
sáng hàm súc, hay dùng thủ pháp bạch miêu" [127,2]. Lương Đình trong bài giảng
"Sơn thủy điền viên thi giám thưởng" đã khái quát ba đặc điểm nội dung chính của thi
phái này là "quy ẩn điền viên, chung tình sơn thủy; miêu tả cảnh đẹp núi sông, tha thiết
với thiên nhiên đất nước; chán ghét quan trường hủ bại, bày tỏ tư tưởng thanh nhàn,
biểu đạt phẩm cách thanh cao của bản thân, quyết không cùng một giuộc với sự thối nát
của chốn quan trường", còn về nghệ thuật thì đặc trưng là "tá cảnh trữ tình, dung tình
nhập cảnh" (mượn cảnh gửi tình, hòa tình với cảnh) [132,7]. Lâm Ngữ Đường trong
"Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa" còn đặc biệt đề cao nghệ thuật ấn tượng của
thi phái điền viên đến mức cho rằng riêng kỹ thuật tả cảnh của thi phái này đã thâu gọn
cả đặc trưng nghệ thuật của thơ Trung Hoa: "Thơ Trung Quốc đã đạt được mức tuyệt
diệu về thuật lý tưởng hóa, ám thị hàm súc và tế nhị. Thi sĩ không bao giờ gắng sức
diễn hết ý của mình chỉ dùng vài nét đơn sơ, thanh đạm, tinh xác để gợi một hình ảnh,
vẽ nên một bức tranh. Do đó mà phát sinh ra phái điền viên, rất thịnh hành, chuyên tả
cảnh bằng kỹ thuật ấn tượng. Các bậc thầy trong phái điền viên là Đào Uyên Minh, Tạ
Linh Vận, Vương Duy, Vi Ứng Vật" [27,102]. Tuy tác giả có nói thêm rằng kỹ thuật đó
ít nhiều đều được toàn thể thi sĩ Trung Hoa dùng chứ không riêng gì thi phái điền viên,
nhưng ta có thể thấy đặc trưng nghệ thuật của thơ điền viên luôn được đánh giá cao.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng thống nhất đánh giá cao những đặc điểm nội
dung, nghệ thuật của thi phái điền viên và ghi nhận những đóng góp quan trọng của thi
phái này vào không khí hưng thịnh chung của thơ Đường. Có thể khái quát những đặc
điểm nội dung cơ bản của thơ điền viên: miêu tả cảnh vật tự nhiên chốn sơn thủy điền
viên, phản ánh cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, biểu hiện cái yên tĩnh đạm bạc của tình

cảm khoan thai tự đắc chốn sơn cư, đồng thời bộc lộ kín đáo sự bất mãn với thời cuộc,
16
hướng về đời sống thanh nhàn, không màng danh lợi; nghệ thuật tiêu biểu là: thi cảnh
sâu sắc, tươi đẹp; phong cách đạm nhã, thanh tân; ngôn ngữ trong sáng hàm súc; sử
dụng thủ pháp bạch miêu, dùng ngũ ngôn cổ thể và ngũ ngôn luật tuyệt làm hình thức
thơ chủ yếu; kỹ xảo thể hiện cái đẹp của tự nhiên đạt đến trình độ cao.
Trong luận án này, chúng tôi không đi sâu phân tích những đặc điểm nội dung và
nghệ thuật cơ bản mà các nhà nghiên cứu trước đã thống nhất nêu ra. Dựa trên cách
tiếp cận văn học từ mã văn hóa, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ sự biểu hiện của cảnh vật
và tâm thức nhà thơ điền viên qua vẻ đẹp đầy chất họa trong thơ điền viên đời Đường.
1.3. Về các nhà thơ tiêu biểu của thi phái
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên
là hai đại diện xuất sắc của thơ điền viên đời Đường. Khi nhắc đến thi phái điền viên,
người ta chủ yếu quan tâm đến tác phẩm của hai đại diện này, đặc biệt đã dùng thơ điền
viên của họ làm cơ sở chính để khái quát những đặc trưng về tư tưởng nội dung và đặc
sắc nghệ thuật của toàn thi phái. Trần Hồng Thanh trong bài báo "Vương Mạnh sơn
thủy điền viên thi tỷ giảo" có nhận định: "Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên được xem là
hai thi nhân có thành tựu cao nhất trong thi phái sơn thủy điền viên, tác phẩm của họ
bất luận là nội dung tư tưởng, thủ pháp biểu hiện hay là từ đề tài, phong cách đến ý
cảnh, tình thú đều đại biểu cho thành tựu cao nhất của thơ sơn thủy điền viên" [151,1].
"Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc" (Ngô Vinh Chính - Vương Miện Quý chủ
biên) đánh giá thơ Mạnh Hạo Nhiên "giỏi dung hợp sự quan sát tinh tế với cảm thụ trên
đường ngao du đây đó, như các bài Lâm Động Đình, Quá cố nhân trang, Xuân hiểu
đều là những tác phẩm tươi mát tinh tế", còn thơ Vương Duy thì "giỏi vận dụng kỹ xảo
trác tuyệt để khắc họa sinh động đặc điểm phong cảnh thiên nhiên, phạm vi rộng lớn,
hùng vĩ, mới lạ, giàu cảm xúc" [14,205]. "Lịch sử văn hoá Trung Quốc" mà Đàm Gia
Kiện chủ biên đánh giá "Vương Duy có tài gợi ý cảnh, dùng ngôn ngữ tinh luyện, diễn
đạt những cảm thụ riêng trước thiên nhiên, để lại một âm vang không hề phai nhạt.
Tiêu biểu là các bài Vị Xuyên điền gia, Tích vũ Võng Xuyên trang tác, Tống Nguyên
nhị sứ Tây An. Thơ Mạnh Hạo Nhiên giản dị, đạm bạc, lời sơ sài mà ý sâu sắc, tiêu

biểu là các bài Quá cố nhân trang, Dạ quy Lộc môn ca" [55,238]. "Cội nguồn văn hoá
Trung Hoa" (Đường Đắc Dương chủ biên) cũng cho rằng "tác gia tiêu biểu của dòng
thơ sơn thuỷ điền viên có Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy, Tổ Vịnh, Bùi
17
Địch. Trong đó Vương Duy với Sơn cư thu minh trong thơ có họa; thơ sơn thuỷ Vọng
Động Đình hồ tặng Trương thừa tướng của Mạnh Hạo Nhiên khí thế hào hùng"
[23,891]. Tuy đây chỉ là những nhận định hết sức khái quát nhưng đặt trong phạm vi
những công trình nghiên cứu về toàn bộ nền văn hoá Trung Hoa mà văn học chỉ là một
trong rất nhiều thành tố, chúng ta sẽ thấy rằng Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên thực sự
được đánh giá là những thi nhân kiệt xuất. Với các công trình chuyên sâu về văn học,
điều này càng được khẳng định. "Lịch sử văn học Trung Quốc" (Dư Quan Anh - Tiền
Chung Thư - Phạm Ninh chủ biên) đánh giá "Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ đời Đường
đầu tiên làm nhiều thơ sơn thuỷ. Ông kế tục Tạ Linh Vận và mở đầu cho thơ sơn thuỷ
của Vương Duy. Thơ ông được giải phóng khỏi những đề tài nhỏ hẹp vịnh vật, ứng chế
của phong khí Sơ Đường, thể hiện nhiều hơn về cuộc sống, nói nhiều hơn về những vui
buồn của tầng lớp sĩ phu thời bấy giờ" [1,449]. Còn thơ Vương Duy thì phần lớn là
"thơ sơn thuỷ điền viên, nói về cuộc sống ẩn dật và phong cảnh thiên nhiên. Những bài
thơ này, không những số lượng nhiều mà về nghệ thuật cũng khá cao, tạo nên phong
cách nghệ thuật độc đáo của riêng ông" [1,453]. Ngoài những nhận xét giản lược này,
các tác giả cuốn sách có dẫn chứng một hai bài thơ của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên
để phân tích minh họa. Song, sự phân tích đó chỉ mang tính chất chấm phá. Các tác giả
"Trung Quốc văn học sử" (Chương Bồi Hoàn - Lạc Ngọc Minh chủ biên) cũng thấy "đề
tài miêu tả sơn thuỷ cảnh vật là một đề tài quan trọng trong thi ca Nam Triều, trải qua
một giai đoạn dài phát triển liên tục nên có thành tựu rất nổi bật. Đến Mạnh Hạo Nhiên,
thi ca sơn thuỷ lại được nâng lên một trình độ mới, chủ yếu thể hiện ở chỗ mối quan hệ
giữa tình với cảnh trong thơ chẳng những hỗ tương tôn nhau lên mà còn hòa quyện lại
rất chặt chẽ" [41,84]. Và "thi ca của Vương Duy có ảnh hưởng nhất đối với hậu thế
chính là thi ca về sơn thuỷ, điền viên… Sáng tác của Vương Duy luôn chan hòa tình
thơ ý họa, làm cho thi ca cổ điển của Trung Quốc được phong phú hơn, phát triển hơn
về mặt nghệ thuật trữ tình" [41,99]. Nhận định sâu hơn về bút pháp nghệ thuật của hai

thi nhân sơn thuỷ này, các tác giả cuốn sách cho rằng: "Cũng đi tìm những ý cảnh hồn
nhiên nhất thể như Vương Duy, nhưng họ Đào (Đào Uyên Minh) và họ Mạnh (Mạnh
Hạo Nhiên) thường thích dùng bút pháp đạm bạc, đơn giản, chỉ phác thảo vài nét để
biểu hiện, còn Vương Duy thì trái lại, rất chú ý đến bố cục, cấu trúc, tìm những ngôn
ngữ giàu màu sắc, để dùng một bút pháp vẽ tranh màu, truyền đạt đến cho người đọc
18
những mỹ cảm thanh tú, đẹp đẽ" [41,99]. Sau đó, các tác giả phân tích giản lược một
vài bài thơ sơn thuỷ của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên để minh họa cho những luận
điểm đã nêu.
Trong 600 công trình nghiên cứu về Vương Duy từ năm 1948 đến năm 1999 ở
Trung Quốc mà Trần Tài Trí đã tổng hợp sơ lược (xem "Vương Duy nghiên cứu luận
văn sơ biên"), chúng tôi thống kê thấy có 258 công trình trực tiếp nói đến mảng thơ
điền viên sơn thủy của Vương Duy, điều đó chứng tỏ giới nghiên cứu khá quan tâm
đến thành tựu của ông trong dòng thơ này. Đặc biệt thơ sơn thủy điền viên của Vương
Duy được xem là nguồn đề tài phong phú cho các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ của
nghiên cứu sinh các trường đại học Trung Quốc trong những năm gần đây. Có thể kể
một số luận văn như: Vương Duy sơn thủy điền viên thi Thịnh Đường phong thái nhất
thám của Lã Vinh Lợi (Đại học Sư phạm Liêu Ninh năm 2003), Vương Duy thi trung
hữu họa nghệ thuật nghiên cứu của Lý Viên (Đại học Sư phạm Nam Kinh 2004), Luận
Vương Duy sơn thủy thi ca đích thẩm mỹ ý tu của Hồ Thừa Anh (Đại học Dân tộc
Trung ương năm 2006), Thí luận Vương Duy tự nhiên thi trung đích sinh thái trí tuệ
của Vũ Quân (Đại học Sư phạm Sơn Đông năm 2006), Luận Vương Duy sơn thủy điền
viên thi đích hòa hài nghệ thuật của Tiêu Kiện (Đại học Sư phạm Quảng Tây năm
2007), Vương Duy đích siêu công lợi thẩm mỹ tâm thái dữ sơn thủy thi sáng tác của
Hàn Kiều (Đại học Sơn Đông năm 2008) Ngoài ra, một số bài nghiên cứu đăng trên
các báo, tạp chí, các Website những năm gần đây cũng chú ý tới mảng thơ này của
Vương Duy, như: Thân Đông Thành với bài Đào Tiềm điền viên thi hòa Vương Duy
điền viên thi tỷ giảo đăng trên Sào Hồ học viện học báo năm 2003, Lâm Văn Nguyệt
với bài Đào Uyên Minh, Mạnh Hạo Nhiên dữ Vương Duy đăng trên website
năm 2011 Trong các công trình này, các tác giả đều đánh giá

cao thơ sơn thủy điền viên của Vương Duy và đi sâu phân tích một số vấn đề nổi bật
như: cảnh giới nghệ thuật đặc sắc của thơ sơn thủy điền viên Vương Duy; thái độ đối
với nhân sinh và tâm trạng xuất thế, thoát tục, thoát vòng lợi danh của tác giả; ảnh
hưởng của Phật giáo và âm hưởng Thiền trong thơ sơn thủy Vương Duy; mối quan hệ
giữa thơ và họa qua nghệ thuật "thi trung hữu họa", tiêu chuẩn thẩm mỹ phản ánh qua
nghệ thuật "thi trung hữu họa" trong thơ Vương Duy; một số nét đặc trưng của phong
cách nghệ thuật thơ sơn thủy điền viên Vương Duy như thanh đạm, cao viễn, hài hòa,
19
nhàn nhã
Có thể thấy, hầu hết các nhà nghiên cứu Trung Quốc đều khẳng định Vương Duy
và Mạnh Hạo Nhiên là hai đại diện xuất sắc nhất của thơ điền viên đời Đường, ngay
cách gọi tên thi phái là "phái Vương Mạnh" đã đủ chứng minh điều đó. Họ thống nhất
trong việc đánh giá cao những đặc trưng nội dung và nghệ thuật của hai thi nhân này,
cho đó là đặc trưng của cả thi phái, thậm chí là đặc trưng của thơ Trung Hoa. Đặc trưng
đó chính là vẻ sâu thẳm, yên tĩnh, tràn đầy hơi thở cuộc sống mà vô cùng tinh tế của
cảnh giới nghệ thuật được chuyển tải qua một thứ ngôn ngữ trong sáng, lưu loát, thuần
khiết, cô đọng, mộc mạc chất phác, bình dị tự nhiên.
Với các học giả phương Tây, văn học Trung Quốc nói chung và thơ Đường nói
riêng được chú ý nhiều từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là từ khoảng những năm 50 của thế
kỷ này, khi các công trình nghiên cứu về văn học Trung Quốc được xuất bản ngày càng
nhiều thể hiện tình hình nghiên cứu, dịch thuật văn học cổ điển Trung Quốc ở phương
Tây thực sự khởi sắc. Thực tế cho thấy, các học giả phương Tây không quan tâm tới
việc nghiên cứu thơ ca cổ điển Trung Quốc dưới góc độ thi phái, trào lưu mà chỉ chú
trọng nhiều đến việc tuyển thơ và nghiên cứu những đại diện riêng lẻ. Lý Bạch, Đỗ
Phủ, Vương Duy là ba tác giả được họ quan tâm nhiều nhất. Tuy thi phái điền viên hầu
như không được khảo sát trong giới nghiên cứu phương Tây, nhưng những nghiên cứu
của họ về Vương Duy, thi nhân đại diện xuất sắc nhất của thi phái này ít nhiều đều cho
chúng tôi những tham khảo và định hướng hữu ích. N.Konrat, viện sĩ người Nga
chuyên nghiên cứu Đông phương học, trong "Phương Đông và phương Tây" khi đánh
giá về Vương Duy có nhấn mạnh đến thơ thiên nhiên của ông: "Bằng sáng tạo thơ, ông

đạt đến trạng thái hòa đồng với tự nhiên. Người ta gọi ông là nhà thơ thiên nhiên với ý
nghĩa này" [57,92] và "Với sáng tác của mình, Vương Duy đã cho thấy con người bằng
xúc cảm sâu sắc của cá nhân mình có thể làm cho thiên nhiên sống động như thế nào và
hòa đồng với nó ra sao" [57,96]. Thơ thiên nhiên ở đây có thể được hiểu chính là thơ
sơn thủy điền viên của Vương Duy, và N.Konrat đặc biệt nhấn mạnh đến sự hòa đồng
giữa cảnh vật thiên nhiên và tâm hồn thi nhân, điều mà chúng ta theo ngôn ngữ thơ ca
Trung Hoa vẫn thường gọi là "tình cảnh giao dung". Trong "Bút pháp thơ ca Trung
Quốc", Francois Cheng, một học giả người Pháp, tuy không có ý bàn luận sâu về một
thi nhân nào cả nhưng để minh chứng cho những luận điểm của mình về đặc trưng nổi
20
bật của nghệ thuật thơ ca cổ điển Trung Quốc, ông chủ yếu dùng thơ Vương Duy. Tác
giả giải thích ông dùng thơ Đường để minh họa cho chuyên luận của mình vì nó là
"đỉnh cao của thơ ca cổ điển bởi tính phong phú và đa dạng cũng như bởi những sự tìm
tòi về phương diện hình thức" [78,105]. Và với việc chủ yếu dùng thơ Vương Duy, đặc
biệt là mảng thơ điền viên với những bài như Lộc trại, Chung Nam sơn, Quá Hương
Tích tự, Điểu minh giản, Sơn cư thu minh để minh họa cho những đặc điểm độc đáo
của ngôn ngữ thơ Đường, tác giả đã đánh giá cao Vương Duy, thi nhân sáng tác thơ là
để "thể nghiệm về tinh thần, thể nghiệm về cái hư và về sự cảm thông với tạo hóa"
[78,113]. Francois Jullien trong "Minh triết phương Đông và triết học phương Tây" khi
bàn về mỹ học Trung Hoa có quan tâm đặc biệt đến ý niệm "cái nhạt", khi bình thơ
Vương Duy, ông nhấn mạnh bình thơ là "tôn vinh cái gì xa chứ không gần, tôn vinh cái
nhạt chứ không phải cái đậm (cái nổi): cái gì đậm và gần thì dễ nhận ra trong khi cái gì
nhạt và xa ta khó mà ý thức được" [51,997]. Ông cho rằng có một dòng thơ chuyên viết
về "cái nhạt" với cách diễn đạt "trong trẻo và nhạt, tinh tế và chắt lọc" gồm những tác
gia tiêu biểu như Đào Uyên Minh, Vương Duy, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên. Vị thơ
của những nhà thơ ấy "trong trẻo và lan tỏa ra xa như một ngọn gió thổi qua những
ngọn núi". Theo thiển ý của chúng tôi, ở đây, dịch giả dùng khái niệm "cái nhạt" là
chưa chuẩn xác, cái vị "trong trẻo và lan tỏa ra xa" trong thơ của Đào Uyên Minh,
Vương Duy, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên mà Francois Jullien muốn nhắc tới ấy
chính là "cái đạm" đặc trưng của thơ điền viên Trung Hoa. Francois Jullien dù không

bàn luận về thi phái điền viên nhưng tác giả đã nhận thấy sự tương đồng về phong cách
giữa các thi nhân trong thi phái ấy và nêu lên một đặc trưng mỹ học có mối liên hệ thân
thiết với đặc trưng nghệ thuật thơ điền viên trong sáng tác của họ.
Dù không nghiên cứu thơ điền viên nhưng những đánh giá ít nhiều có liên quan tới
thơ thiên nhiên và tác gia Vương Duy của các học giả phương Tây đã giúp học giả
châu Âu hiểu thêm về thơ Đường, đỉnh cao thơ ca của nhân loại, và định hướng cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
1.4. Điểm trống khoa học trong nghiên cứu thơ điền viên
Hầu hết các nhà nghiên cứu, cả ở Việt Nam, Trung Quốc đều ghi nhận sự xuất hiện
nổi bật của phái thơ điền viên đời Đường mà đại diện tiêu biểu là Vương Duy, Mạnh
Hạo Nhiên; giới nghiên cứu phương Tây tuy không quan tâm đến việc nghiên cứu thơ
21
Đường theo thi phái nhưng vẫn đặc biệt chú ý phân tích những đặc trưng nội dung và
nghệ thuật thơ Vương Duy - người được xem là chủ soái của thi phái này. Các ý kiến
đều đánh giá cao đặc trưng nội dung, nghệ thuật của thơ điền viên, đặc biệt của hai thi
nhân trứ danh đại diện thi phái và khẳng định đóng góp quan trọng của thi phái, của các
thi nhân trong sự phát triển rực rỡ của thơ Đường. Song, những khẳng định đó mới chỉ
dừng ở mức độ khái quát về một trường phái, nếu có tìm hiểu cụ thể hơn về các thi
nhân điền viên, thi phẩm điền viên thì cũng chỉ theo đúng bút pháp thuỷ mặc trứ danh
trong hội họa Trung Hoa, nghĩa là chỉ chấm phá vài nét. Gần đây cả ở Trung Quốc và
Việt Nam đều đã xuất hiện những công trình chuyên sâu nghiên cứu về thi phái nhưng
các tác giả hoặc là nghiên cứu điền viên sơn thủy thi hoặc là nghiên cứu sơn thủy thi
(như Sơn thủy điền viên thi phái tuyển tập của Liêu Trọng An, Trung Quốc sơn thủy thi
nghiên cứu của Vương Quốc Anh, Sơn thủy thi ca giám thưởng từ điển của nhiều tác
giả, Trung Quốc sơn thủy thi luận cảo của Chu Đức Phát, Trung Quốc sơn thủy thi
nghiên cứu luận văn tuyển của Đào Hán Vinh tại Trung Quốc, Thơ sơn thủy cổ trung
đại Trung Quốc của Trần Trung Hỷ tại Việt Nam). Chưa có công trình nào chuyên sâu
nghiên cứu về riêng mảng thơ điền viên đời Đường, đặc biệt là nghiên cứu theo hướng
giải mã văn hóa.
Do vậy, luận án của chúng tôi có thể được xem là công trình nghiên cứu chuyên

sâu đầu tiên ở Việt Nam về thơ điền viên đời Đường, đặc biệt bằng cách tiếp cận văn
hóa. Trong luận án này, chúng tôi muốn khẳng định mặc dù đều lấy vẻ đẹp của thiên
nhiên khách quan làm đối tượng miêu tả nhưng với đặc trưng thẩm mỹ và tâm thức thi
nhân riêng biệt, sơn thủy và điền viên là hai dòng thơ chứ không phải một. Chúng tôi đi
sâu nghiên cứu thơ điền viên trong tương quan với thơ sơn thủy và sẽ làm rõ hơn sự
khác biệt giữa hai dòng thơ này dựa trên sự khám phá đặc trưng của tâm thức thi nhân
được biểu hiện trong thơ và đặc điểm của cảnh vật được miêu tả trong thơ qua bút pháp
nghệ thuật “thi trung hữu họa” trứ danh của thơ ca cổ điển Trung Hoa.
CHƯƠNG 2. CỘI NGUỒN VĂN HÓA CỦA THƠ ĐIỀN VIÊN ĐỜI ĐƯỜNG
22
2.1. Khởi nguyên của một nền văn hoá
Nhân loại hằng thán phục chiều sâu 5000 năm của lớp trầm tích văn hoá Trung
Hoa, một trong những chiếc nôi văn minh của loài người được khởi nguyên và bồi đắp
bên hai dòng sông nổi tiếng: Hoàng Hà và Dương Tử. Hoàng Hà - dòng sông mang
nhiều phù sa nhất thế giới - và Dương Tử - con sông dài nhất Trung Quốc (dài thứ ba
thế giới) - đã tạo nên khu vực đồng bằng rộng lớn Hoa Bắc, Hoa Trung với những điều
kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi dưỡng nền văn minh Trung Hoa giàu bản sắc nông
nghiệp. Với người Trung Hoa nói riêng, người phương Đông nói chung, sản xuất nông
nghiệp gắn chặt sự phát triển của quốc gia. Do đó, tính chất nông nghiệp - nông thôn
được thể hiện ở nhiều bình diện và là nét chủ đạo xuyên suốt quá trình phát triển của
nền văn hóa. Từ văn hóa vật chất liên quan đến những nhu cầu thiết yếu của con người
như ăn, mặc, ở, đi lại… đến văn hóa tinh thần biểu hiện ở các tín ngưỡng và sinh hoạt
văn hóa dân gian đều mang đậm tính chất nông nghiệp - nông thôn. Xã hội lấy sản xuất
nông nghiệp làm chủ đạo nên con người phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, từ đó đối
với thiên nhiên, người Trung Hoa có cách ứng xử rất hòa đồng. Trải mấy ngàn năm
phát triển của nền văn hóa Trung Hoa, từ kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, con người
đã đúc kết bài học đúng đắn: muốn sản xuất hiệu quả phải thuận theo tự nhiên, từ đó
hình thành tâm lý sống hòa thuận, nương tựa vào thiên nhiên. Trong tâm thức cư dân
của một nền văn minh nông nghiệp thì thiên nhiên không chỉ là cảnh quan sơn thủy
hữu tình "núi non hiểm trở, sông nước mênh mông, ghềnh thác ào ào, hải đạo thăm

thẳm, nắng sương hòa hợp" [21,29] mà còn là chốn điền viên thôn dã thanh bình - nơi
ruộng vườn thân thiết gắn bó với cuộc sống của họ. Không gian sinh sống chủ yếu của
cư dân nông nghiệp là chốn ruộng vườn thôn dã. Vì vậy, nhắc đến chốn điền viên chính
là nhắc đến quê hương bản quán, đến sự gắn bó thân thuộc hàng ngàn đời. Trong nhận
thức của người Trung Hoa, ruộng vườn không đơn giản chỉ là nơi cày cấy gieo trồng,
nơi cung cấp thức ăn phong phú, nơi cư trú và hưởng thụ mà còn là nơi cảnh đẹp lý
tưởng để thưởng ngoạn và gửi gắm tâm tình đồng thời mang những ý nghĩa biểu tượng
gợi đến chiều sâu khôn cùng của những trầm tích văn hóa. Với họ, vườn là "thế giới thu
nhỏ, nhưng cũng là tự nhiên được khôi phục trong trạng thái nguyên sơ của nó, là sự
gợi mời khôi phục bản tính nguyên sơ của con người" [11,1005]. Chốn ruộng vườn
23
chính là nơi thanh lọc tâm hồn con người, là nơi giúp con người trở về với chính mình,
trở về với những tính thiện nguyên sơ đồng thời cũng là nơi gieo mầm sự sống, giúp
con người trở nên an nhiên trong sự đủ đầy của những nhu cầu vật chất và tinh thần. Ở
một khía cạnh nào đó, chốn điền viên trong tâm thức người Trung Hoa được tôn kính
như người mẹ, thân thuộc và bao dung. Cho nên người ta thường quan niệm đi thưởng
ngoạn cảnh quan sơn thủy, song lại trở về với chốn điền viên. Chốn điền viên hàng
ngàn năm vẫn như lòng mẹ, luôn chờ đợi để sẵn sàng ôm ấp vỗ về những tâm hồn khao
khát sự bình yên. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ điền viên nổi tiếng của thi nhân
điền viên đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc lại thiết tha như một lời mời gọi
trở về: Quy khứ lai từ. Đào Uyên Minh trong tác phẩm này đã bộc lộ niềm vui sướng
khôn cùng khi được trở về với thiên nhiên, xa lánh chốn quan trường vẩn đục ruỗng nát
mà ông căm ghét. Cảnh điền viên thanh bình giản dị khiến ông cảm nhận mình đã gửi
thân đúng chỗ đúng nơi, có thể thoát khỏi hiện thực đen tối mà giữ vững lý tưởng, chí
hướng thanh cao của mình.
Có thể thấy, từ sâu thẳm cội nguồn văn hoá Trung Hoa, con người đã thân thiết,
quyến luyến và nương tựa nhiều vào thiên nhiên. Cho nên, bày tỏ tình cảm yêu mến,
ngợi ca đối với núi sông cây cỏ là một điều hết sức tự nhiên. Người Trung Hoa từ xa
xưa đã biết bộc lộ tình yêu thiên nhiên của mình bằng nhiều cách, thơ điền viên chính
là một cách để nói lên tình yêu đó. Song, thơ điền viên không chỉ đơn thuần là miêu tả

cảnh vật thiên nhiên. Vì rằng, ở tâm thức người Trung Hoa, thiên nhiên dù rộng mở
đến đâu chăng nữa vẫn toát lên một vẻ u tĩnh hướng nội, hòa điệu với chiều sâu tình
cảm của con người. "Người Trung Quốc luôn luôn lấy sự gửi gắm tình cảm, bày tỏ tấm
lòng làm sự truy cầu thẩm mỹ cao nhất đồng thời biểu hiện sự quyến luyến và nương
tựa mãnh liệt đối với sông núi thiên nhiên" [54,123]. Theo truyền thống thẩm mỹ của
người Trung Hoa, "thơ là để bày tỏ chí hướng, được hát lên là để ngâm vịnh tiếng lòng,
thanh điệu nhờ vào ngâm vịnh mà bổng trầm dứt nối, vần luật khiến cho thanh điệu
thống nhất hài hòa" (thi ngôn chí, ca vịnh ngôn, thanh y vịnh, luật hòa thanh - chương
Nghiêu điển, sách Thượng thư, dẫn theo 98,401). Sách Tả truyện cũng nói "thi dĩ ngôn
chí" (dùng thơ để nói chí). Đời Hán, người ta giải thích rằng thi là chí, chí là chí hướng,
tình cảm của con người, dùng ngôn ngữ để biểu lộ ra là thành thơ, cho nên sách Mao
thi viết "thơ là chỗ đến của chí, ở trong lòng là chí, phát ra lời là thơ" (thi giả, chí chi sở
24

×