Tải bản đầy đủ (.doc) (166 trang)

Ngôn ngữ mảnh vỡ trong tiểu thuyết của Toni Morrison

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.19 KB, 166 trang )

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
2.1. Mục đích nghiên cứu 2
2.2. Đối tượng nghiên cứu 3
2.3. Phạm vi nghiên cứu 3
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 6
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN 6
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7
1.1. PHÊ BÌNH LÍ LUẬN VỀ “MẢNH VỠ” 7
1.1.1. Trên thế giới 7
1.1.2. Ở Việt Nam 10
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TONI MORRISON 16
1.2.1. Nghiên cứu về Toni Morrison trên thế giới 16
1.2.2. Nghiên cứu về Toni Morrison ở trong nước 33
Chương 2: KHÁI NIỆM “NGÔN NGỮ MẢNH VỠ” 40
2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 40
2.2. “NGÔN NGỮ MẢNH VỠ” 47
2.2.1. Mảnh vỡ như là đặc trưng của tư duy hậu hiện đại 51
2.2.2. Nội hàm khái niệm 62
Chương 3: NGÔN TỪ MẢNH VỠ 65
3.1. NGÔN TỪ HỖN ĐỘN 66
3.1.1. Mảnh vụn ngôn từ – tấm gương của thế giới đảo ngược 69
3.1.2. Sức mạnh phá hủy của ngôn từ trong thế giới ảo 74
3.2. NGÔN TỪ RỜI RẠC VÀ PHI CHUẨN 79
3.2.1. Ngôn từ rời rạc 79
2


3.2.2. Ngôn từ phi chuẩn 90
3.3. NGÔN TỪ SAI LẠC 93
3.3.1. Sự sai lạc ngẫu nhiên 96
3.3.2. Nick – name (biệt hiệu) 98
3.3.3. Cái tên bị nguyền rủa 101
Chương 4: NHÂN VẬT MẢNH VỠ 105
4.1. KHÁI NIỆM “NHÂN VẬT” VÀ “NHÂN VẬT MẢNH VỠ” 105
4.1.1. Nhân vật 105
4.1.2. Nhân vật mảnh vỡ 108
4.1.2.1. Nhân vật truyền thống 108
4.1.2.2. Nhân vật mảnh vỡ 111
4.2. NHÂN VẬT MẢNH VỠ CỦA TONI MORRISON 114
4.2.1. Sự phá hỏng bản thể – Pecola 115
4.2.2. Ghép nối mảnh vỡ bản thể – Milkman 123
4.2.3. Nửa người nửa ma hay bản thể Beloved 131
4.2.4. Vị thánh bất hạnh hay bản thể vỡ nát của Baby Suggs 137
4.2.5. Cuộc chiến đấu vì bản thể của người mẹ giết con – Sethe 142
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các thông tin và kết quả trong luận án là do tôi tự tìm hiểu, đúc kết và
phân tích một cách nghiêm túc, trung thực trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Thảo
LỜI CẢM ƠN
4

Luận án này được hoàn thành tại khoa Ngữ văn, Bộ môn Lý luận văn
học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Lời đầu tiên, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS.
Lê Huy Bắc, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi
những kiến thức quý giá trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu;
giúp tôi có thể hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, các thầy cô trong Bộ môn Lí luận văn học và Văn học nước
ngoài của nhà trường, đã nhiệt tình giúp đỡ và truyền đạt cho tôi
những kiến thức và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá
trình học tập và hoàn thiện luận án này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những người
thân luôn ủng hộ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2013
Tác giả
ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo
MỞ ĐẦU
5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lần đầu tiên trong văn học Hoa Kỳ (Mỹ), nữ văn sĩ người da đen Toni
Morrison đã nhận được giải thưởng Nobel văn học cao quý. Viện Hàn lâm
Thụy Điển khi công bố giải thưởng đã nhận định Morrison là một “văn sĩ
thượng thặng”, mà tác phẩm “được khắc họa đẹp đẽ và gắn bó một cách kì diệu
với cuộc sống, con người”. Tình yêu và sức sống, bi kịch, khát vọng và nỗi
đau… của người nô lệ da đen đã được thể hiện bằng một tài năng nghệ thuật
trác tuyệt. Tất cả những điều ấy đã hoà trộn và tạo nên vẻ đẹp kinh ngạc trong
những tác phẩm của bà. Tiểu thuyết của Toni Morrison đã gây chấn động và
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu phê bình trên thế giới.

Sáng tác của Morrison được xếp vào vị trí của những kiệt tác kinh điển.
Bà được đưa vào hàng ngũ những nhà nhân văn của mọi thời Tác phẩm của
bà hiện đang được dạy ở nhiều trường đại học và phổ thông ở Mỹ, cũng như
một số trường đại học, cao đẳng trên thế giới. Ở Việt Nam hiện nay đã có hai
tiểu thuyết là Người yêu dấu (Beloved) và Mắt biếc (The Bluest Eye) được dịch
sang tiếng Việt.
Ngôn ngữ nghệ thuật là phương tiện để nhà văn mô hình hóa thế giới, qua
đó bộc lộ toàn bộ tài năng nghệ thuật và tư tưởng của nhà văn, đồng thời là
tiếng nói nghệ thuật của nhà văn về thế giới. Morrison trong nỗ lực không mệt
mỏi của mình, đã kiến tạo một thế giới nghệ thuật đặc sắc, bằng ngôn ngữ và
lối tư duy của hệ hình hậu hiện đại: ngôn ngữ mảnh vỡ.
Ngôn ngữ mảnh vỡ là lối diễn ngôn để Morrison khắc họa thực trạng và
cuộc đấu tranh giành quyền sống cho những người đồng bào đáng thương của
bà. Đồng thời, bà cũng đề nghị tha thiết về một sự bình đẳng giữa các tiếng nói,
các ngôn ngữ; đồng nghĩa với việc giành quyền sống công bằng cho các chủng
tộc, màu da. Ta có thể nhận thấy, ngòi bút tràn đầy thiên tính nữ và tình yêu
thương mênh mang, sức sống lạc quan của Morrison cuộn chảy trên từng trang
viết. Viết về một thế giới bị tàn phá, lệch lạc song Morrison không hề tuyệt
vọng. Bà chỉ cho những người đồng bào yêu quý con đường đến với tự do: đó
là tình yêu thương, sự nối kết với lịch sử và văn hóa. Morrison là người đã ca
khúc ca chiến thắng, đã cất đôi cánh vĩ đại kết tinh từ tôn giáo da đen nhân bản
6
nguyên thủy và sức mạnh của cộng đồng, của tình yêu thương.
Trong phạm vi tài liệu chúng tôi thu thập được, các nhà nghiên cứu mới
chỉ đề cập đến vấn đề mảnh vỡ, chưa có bài nào khái quát và chỉ ra đặc trưng
ngôn ngữ mảnh vỡ trong diễn ngôn nghệ thuật hậu hiện đại và trong tiểu thuyết
của Morrison. Sự cách tân này xuyên suốt, tạo ra sự độc đáo, sức cuốn hút kì
lạ, thể hiện tài năng nghệ thuật phi thường và đó có lẽ cũng chính là nguyên
nhân mang lại thành công vang dội cho Morrison.
Vì thế, chúng tôi quan tâm nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ mảnh vỡ trong

tiểu thuyết của Toni Morrison (Fragmentary language in Toni Morrison’s
novels) với mong muốn đưa ra một hướng tiếp cận khả dĩ khám phá được
những lớp ý nghĩa nghệ thuật ẩn sâu trong tác phẩm của nữ văn sĩ da màu này.
Thực hiện đề tài, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần mở ra một hướng nghiên
cứu mới đối với ngành lí luận văn học. Đó là nghiên cứu các tác phẩm văn học
hậu hiện đại thế giới dưới góc nhìn kí hiệu học hậu hiện đại. Nó sẽ giúp chúng
ta khai phá những khung trời mới lạ bằng sắc màu kì diệu của nghệ thuật, khắc
phục được những hạn chế của các cách tiếp cận trước đây, chủ yếu là tiếp cận ở
phương diện thế giới quan, tư tưởng hệ. Thành công của luận án sẽ có đóng
góp thiết thực cho việc thúc đẩy xây dựng diện mạo hệ thống lí thuyết về
nghiên cứu phê bình văn học hậu hiện đại trong nước, một gương mặt vừa quen
thuộc vừa đầy lạ lẫm.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ mảnh vỡ trong tiểu thuyết của
Morrison để thấy những đặc trưng nghệ thuật của Morrison, những sáng tạo,
cách tân của bà trong sáng tác.
Trên cơ sở đó, luận án hướng đến những vấn đề thuộc về văn hóa da trắng, da
đen trong sự xung đột, hòa giải và những di chứng không thể xóa bỏ giữa các chủng
tộc áp bức và bị áp bức trong đời sống con người thời hậu hiện đại.
Về mặt lí luận, khái niệm ngôn ngữ mảnh vỡ, một đặc trưng của văn học
hậu hiện đại cũng được làm rõ, có thể trở thành một công cụ để nghiên cứu văn
7
học hậu hiện đại nói chung.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết
Morrison. Trọng tâm là cách biểu đạt, cách cắt nghĩa thế giới ấy bằng hình
tượng ngôn từ. Sau khi xác lập khái niệm ngôn ngữ mảnh vỡ, luận án khảo sát
ngôn ngữ mảnh vỡ trong tiểu thuyết của bà ở các phương diện cơ bản là lớp
ngôn từ mảnh vỡ và lớp nhân vật mảnh vỡ. Chúng tôi quan niệm “ngôn từ” và

“nhân vật” là ngôn ngữ, là lối biểu đạt, diễn ngôn mảnh vỡ hậu hiện đại.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là ba cuốn tiểu thuyết của Toni Morrison:
Mắt biếc (The Bluest Eye), Người yêu dấu (Beloved) và Bài ca của Solomon
(Song of Solomon). Trong đó, Mắt biếc và Người yêu dấu đã được dịch sang
tiếng Việt, tiểu thuyết Bài ca của Solomon, chúng tôi tiến hành khảo sát trên
nguyên bản tiếng Anh. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, đối với hai cuốn
Mắt biếc và Người yêu dấu chúng tôi cũng tiến hành đối chiếu, so sánh với
nguyên tác.
Ba cuốn tiểu thuyết này có thể đại diện và kết tinh đặc trưng tiểu thuyết
Morrison, đã được giới nghiên cứu phê bình văn học thế giới khẳng định.
Trong đó, thế giới của người da màu được đề cập với sự có mặt đầy đủ của các
thế hệ: Mắt biếc là câu chuyện về một cô bé; Người yêu dấu là câu chuyện về
người mẹ và con gái; Bài ca của Solomon viết về người cha và con trai
Đối với Người yêu dấu, tác phẩm được giới phê bình nghiên cứu trên thế
giới đánh giá cao, thời báo Los Angeles khẳng định, đây là “một kiệt tác… thật
tuyệt vời… không thể tưởng tượng nổi nền văn học Mỹ nếu thiếu nó”, còn tạp
chí Chicago Sun ca ngợi “Tác phẩm hoàn hảo nhất của Toni Morrison. Chưa
có cái gì bà viết lại nâng bà lên cao đến thế, lại thể hiện tài năng phi thường,
gây sửng sốt đến thế”…
Ngoài ba cuốn đã được đề cập, Morrison còn có sáu tiểu thuyết khác là
Thiên Đường (Paradise), Sula, Tar Baby, Jazz, Yêu (Love) và Lòng nhân (A
Mercy). Tuy chúng tôi không khảo sát kĩ các tiểu thuyết này, nhưng trong quá
trình nghiên cứu luận án sẽ có những liên hệ và so sánh để thấy được cái nhìn
8
thống nhất trong sáng tác của Morrison.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Luận án kết hợp nghiên cứu lí luận với vận dụng phân tích tác phẩm của
tác giả nữ da đen Mỹ đầu tiên đoạt giải Nobel văn học.
Ở phương diện lí thuyết, chúng tôi khảo sát, nghiên cứu hoàn cảnh ra đời,

xác lập nội hàm khái niệm ngôn ngữ mảnh vỡ như là một đặc trưng diễn ngôn
của thời kì hậu hiện đại nói chung và văn học hậu hiện đại nói riêng.
Tiếp đó, chúng tôi vận dụng khảo sát trên ba tiểu thuyết tiêu biểu của
Toni Morrison. Tác phẩm của bà mang đặc trưng của tiểu thuyết hậu hiện đại,
với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mới lạ, đóng góp cho văn học thế giới
những diện mạo mới.
Song song với quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành dịch tiểu thuyết
Bài ca của Solomon (Song of Solomon) sang tiếng Việt. Công việc nghiên cứu
và dịch thuật tác phẩm của Toni Morrison góp phần giới thiệu những di sản
văn hóa của nhân loại, làm phong phú kho tàng văn học nước ngoài ở Việt
Nam. Trước mắt, luận án giúp sinh viên tiếp cận với nền văn học Mỹ – Phi, với
phong cách nghệ thuật độc đáo, những cách tân mạnh mẽ, tinh thần nhân văn
lớn lao của các tác giả đương đại.
Luận án có ý nghĩa khoa học, có đóng góp thiết thực cho việc nghiên cứu
lí thuyết phê bình hậu hiện đại, đó là việc nghiên cứu một thuật ngữ lí luận
công cụ và tập dượt vận dụng nghiên cứu những tác phẩm văn xuôi hậu hiện
đại, một lĩnh vực hãy còn khá mới mẻ ở trong nước.
Ở Việt Nam, đây là luận án đầu tiên có tính chất tổng hợp, khái quát về
thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Morrison trên những phương diện cơ bản. Luận
án đã tập hợp được một số nhận định về đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết, đặc
biệt là tính mảnh vỡ – đặc trưng của văn học hậu hiện đại – trong tiểu thuyết
của bà.
Luận án cũng làm nổi bật được sự độc đáo trong nghệ thuật trần thuật,
khẳng định ngôn ngữ mảnh vỡ trong thế giới tiểu thuyết Morrison, một lối hành
văn táo bạo, mới mẻ, kiệt xuất.
9
Thành công của luận án bắc một cây cầu nhỏ cho những người nghiên cứu
tiếp theo về thế giới nghệ thuật của Morrison nói riêng, cũng như nghiên cứu
về văn học hậu hiện đại nói chung.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành đề tài này, dưới cái nhìn của lí thuyết Phê bình hậu hiện
đại, chúng tôi áp dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp văn hóa – xã hội: Chúng tôi nghiên cứu tiểu thuyết của
Morrison trong mối liên hệ mật thiết với hoàn cảnh văn hóa, xã hội. Những nội
dung của tiểu thuyết được phân tích, soi rọi từ góc nhìn văn hóa, xã hội. Đó là
những vấn đề văn hóa, xã hội của người da đen, cộng đồng người da đen trong
môi trường văn hóa, xã hội người da trắng.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học lịch sử: Phương pháp này chúng
tôi sử dụng để chỉ ra những cách tân trong văn học hậu hiện đại – những hình
thức nghệ thuật phản truyền thống, những kĩ thuật tiểu thuyết còn mang tính
thử nghiệm, mới mẻ.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học lí thuyết: Phương pháp này được
áp dụng chủ yếu khi chúng tôi phân tích, tìm hiểu những biện pháp nghệ thuật
cơ bản của nhà văn khi xây dựng tác phẩm. Luận án chỉ ra vai trò, giá trị của
những chi tiết, kĩ thuật, hình thức nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để biểu đạt
nội dung tư tưởng trong tác phẩm.
- Phương pháp phê bình tiểu sử: Chúng tôi nghiên cứu tiểu sử của nhà
văn để thấy được mối quan hệ, tác động qua lại giữa cuộc đời và sự nghiệp
sáng tác, những cơ sở để minh giải về thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của một
cây bút khá đặc biệt trên thế giới: một nữ văn sĩ người da đen.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác phân tích, bình giá… để vừa mở
rộng vừa đào sâu vấn đề cần nghiên cứu.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
10
Về phương diện lí thuyết, luận án tổng hợp và xác định nội hàm khái niệm
thuật ngữ ngôn ngữ mảnh vỡ, đặc trưng của văn học hậu hiện đại. Thuật ngữ
này đã được sử dụng rải rác trong các công trình nghiên cứu về văn học hậu
hiện đại, tuy nhiên, nội hàm khái niệm vẫn chưa được làm rõ. Từ chỗ minh giải
nội hàm khái niệm, đóng góp của luận án là xây dựng một công cụ lí luận để
nghiên cứu về văn học hậu hiện đại nói chung.

Về thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Morrison, luận án làm sáng tỏ nghệ
thuật ngôn ngữ mảnh vỡ, khẳng định những giá trị chân, thiện, mỹ và những
đóng góp lớn của Morrison đối với văn học hậu hiện đại thế giới – một nữ nhà
văn hãy còn khá mới mẻ đối với bạn đọc Việt Nam.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Sau phần Mở đầu, luận án được triển khai theo bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Khái niệm “Ngôn ngữ mảnh vỡ”
Chương 3: Ngôn từ mảnh vỡ
Chương 4: Nhân vật mảnh vỡ
Các chương này dù đứng độc lập vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau,
cùng hướng vào việc chỉ ra đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết Morrison và ý
nghĩa của nó đối với nghiên cứu, phê bình lí luận văn học.
Cuối cùng là phần Kết luận, Danh mục các công trình liên quan đến đề
tài luận án và Tài liệu tham khảo.
Chương 1
11
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Ở chương tổng quan này, chúng tôi tiến hành khảo sát, tóm tắt, tổng thuật
những luận điểm cơ bản trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến tính
mảnh vỡ ở trong nước và trên thế giới, cũng như những công trình khảo cứu
chuyên sâu về vấn đề này trong tiểu thuyết của Toni Morrison.
1.1. PHÊ BÌNH LÍ LUẬN VỀ “MẢNH VỠ”
1.1.1. Trên thế giới
Khó có thể bao quát hết mảng tài liệu này đối với việc nghiên cứu xuất
phát từ Việt Nam. Dẫu sao, chúng tôi cũng cố gắng thu thập các công trình
nghiên cứu trong phạm vi có thể. Dưới đây là những tài liệu chúng tôi có được
ở vào thời điểm thực tại.
Thuật ngữ mảnh vỡ (còn gọi là tính phân mảnh, ghép mảnh, mảnh ghép),
là một trong những đặc tính nổi bật của văn học hậu hiện đại. Các nhà nghiên

cứu chú ý đến những đặc trưng của tự sự hậu hiện đại: mảnh vỡ, chắp nối,
những phiến đoạn chia cắt, không liền mạch… Trong cuốn Các khái niệm và
thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ, phần
viết về Chủ nghĩa hậu hiện đại đã khái quát: “Cốt lõi của phê bình hậu hiện đại
chính là việc nghiên cứu những phương thức khác nhau của kỹ thuật trần thuật,
tập trung vào việc xây dựng diễn ngôn rời rạc, tức tính cắt mảnh (fragmentaire)
của trần thuật” [35;398].
Trong cuốn Dẫn luận lí luận văn học, nhà phê bình văn học Terry
Eagleton xác định, “tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại điển hình nhất là tùy tiện,
đa trị, lai ghép, lệch tâm, dễ thay đổi, ngưng đọng, hệt như một mô phỏng”
[dẫn theo 9;30].
Khi đi vào đặc trưng của văn xuôi hư cấu hậu hiện đại, nhà nghiên cứu
Barry Lewis đã đề cập đến các phương diện sau: “sự hỗn độn thế tục, cóp nhặt,
mảnh vỡ, sự nới lỏng tổ chức, tính hoài nghi và vòng tương tác” [9;31].
Do chưa có điều kiện nghiên cứu sâu rộng tính mảnh vỡ trong văn học thế
12
giới nói chung, phần này chúng tôi khảo sát và thuật lại theo công trình của
Stuart Sim, cuốn Từ điển phê bình về tư tưởng hậu hiện đại (Critical
Dictionary of Postmodern Thought).
Theo Stuart Sim, các nhà văn hậu hiện đại tấn công vào những nền tảng
muôn đời của văn học. “John Hawkes có lần đã tiết lộ, khi bắt đầu viết lách,
ông cho rằng “những kẻ thù thực sự của tiểu thuyết là cốt truyện, nhân vật, cấu
trúc và chủ đề”. Tất nhiên là, rất nhiều tác giả sau đó đã làm rất tốt công việc
của họ để giáng những đòn búa tạ vào bốn hòn đá tảng trên của văn học, đưa
nó vào địa hạt của sự lãng quên. Không những cốt truyện bị nghiền, bị tán
thành những mảnh nhỏ của sự kiện và chi tiết, các nhân vật thì tan rã ra thành
những mớ ước muốn mãnh liệt, cấu trúc thì không hơn gì những màn cảnh sân
khấu chớp nhoáng, ngắn ngủi, mà cả các chủ đề cũng trở nên quá mờ nhạt đến
mức có thể nói một sự sai lầm đến tức cười nếu nói rằng chắc chắn các cuốn
tiểu thuyết là một “thể loại như thế, như thế nào đó” [131;125–26].

Jonathan Baumbach quan sát một truyện ngắn trong tập Sự trở về của
nghi lễ (The Return of Service,1979), và nhận định nếu “bạn đọc một truyện
trong thời buổi này thì nó không hề là câu chuyện một tẹo nào cả, không hề có
những cảm xúc truyền thống” [131;126].
Các nhà văn hậu hiện đại không tin tưởng ở sự trọn vẹn và tính hoàn
chỉnh, người bạn đồng hành của các câu chuyện trong quá khứ. Một trong
những cách để thay thế đó là sự đa kết thúc (nhiều khả năng kết thúc cho một
câu chuyện), điều này đã chống lại sự đóng kín bằng cách đưa ra rất nhiều kết
thúc cho một cốt truyện.
Theo nghiên cứu của Stuart Sim, một số nhà văn khác phá vỡ cách kể
chuyện theo trình tự có mở đầu, kết thúc trọn vẹn bằng những cách khác nhau:
“Fowles phá vỡ lối kể chuyện bằng cách nhảy dù, (phô bày sự thân mật, gần
gũi) của ông với Marx, Darwin và những người khác. Ông trực tiếp nói chuyện
với người đọc, thậm chí ở một mức độ bước hẳn vào trong câu chuyện của
chính ông với tư cách như là một nhân vật. Đa kết thúc là một phần của những
chiến thuật nhảy dù đó. Fowles từ chối chọn lựa giữa hai kết cục hoàn chỉnh
cho tiểu thuyết của ông: kết thúc thứ nhất là Charles và Sarah tái hợp sau
13
chuyện tình giông bão, kết thúc thứ hai là họ tiếp tục tách rời, không thay đổi.
Do đó ông tạo nên một yếu tố chính không chắc chắn trong cuốn sách. Ông
thậm chí còn dây dưa đến một khả năng thứ ba, đó là để Charles ở trên tàu, tìm
kiếm Sarah trong thành phố: ‘nhưng quy ước ngầm của tiểu thuyết Victorian
cho phép, không có điểm bắt đầu, không có kết thúc ’” [131;127].
Một cách thức khác để phá vỡ tính hoàn kết của văn học truyền thống là
“làm cho không có điểm bắt đầu và không có kết thúc, bằng cách bẻ gẫy văn
bản thành những mảnh vụn hoặc từng phần, bị chia cắt bởi không gian, nhan
đề, các con số hoặc các biểu tượng. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Richard
Brautigan và Donald Barthelme đầy ắp những mảnh vỡ. Một số tác giả khác
thậm chí còn đi xa hơn và mảnh vỡ là của chính kết cấu văn bản với các hình
minh họa, bản in hoặc trộn lẫn với điện ảnh. Như Raymond Federman đưa nó

vào trong lời giới thiệu cho Tiểu thuyết siêu thực: Tiểu thuyết hiện nay và
mai sau (1975): “trong những không gian nơi không có gì để viết, các tác giả
tiểu thuyết có thể, ở bất cứ thời điểm nào, đưa vào chất liệu (dấu trích dẫn, các
bức tranh, các sơ đồ, bảng biểu, chữ ký, những mẩu của văn bản/diễn ngôn
khác ) hoàn toàn không liên quan gì đến câu chuyện” [131;127].
Minh họa cho điều này, Stuart Sim dẫn câu chuyện Người vợ cô đơn của
Willie Master (1967) của William Gass. “Tác giả đã thực hiện tất cả những
điều trên trong 60 trang giấy kì quặc của nó, và đó là một văn bản của nhà văn
hậu hiện đại tuyệt vời (parexelence). Những trang giấy đó, trong bản thân nó
gồm bốn màu khác nhau: màu xanh sổ tay ghi chép, xanh kaki, màu đỏ dâu và
màu trắng bóng láng. Một phụ nữ “nude” nằm ườn chiếm hết trang bìa trước.
Nàng là một người vợ vỡ mộng, người ẩn dụ cho sự hiện thân của ngôn ngữ
tình dục (lovemaking language)”. Bên cạnh đó, tác giả đề cập đến một ví dụ
nữa, để minh họa cho tính ghép mảnh, sự bị bẻ gãy của văn bản, đó là tác phẩm
của Marshall McLuhan. “Sự bài trí, bày đặt thực sự kì cục, lập dị có lẽ được
thiết kế bởi Marshall McLuhan trong chất gây ảo giác. Sự đa dạng của các mặt
chữ (in đậm, in nghiêng), các phông chữ (Gô tích; kí tự), các kí hiệu (biểu
tượng của âm nhạc, chất giọng), và sự pha tạp các cách sắp xếp (nhiều cột,
nhiều lời chú thích), tranh giành không gian với những hình ảnh lố bịch (những
14
vết bẩn của tách cà phê, dấu hoa thị khổng lồ). Trong một bài nghiên cứu khái
quát, Ronald Sukenic gọi đó là “một cơn mưa rào bất chợt của những sự kiện
mảnh vỡ”” [131;127–28].
Tác giả nhận định, “Với những tác phẩm theo kiểu như vậy được viết bởi
Fowles, Brautigan, Barthelme và Gass, quả thật là điều khó khăn khi chúng ta
không nhớ đến lời đề từ nổi tiếng của E. M. Forster trong Howards End: “Sống
trong những mảnh vỡ sẽ chẳng còn bao lâu nữa.” Chúng ta có thể thấy những
đối âm này với một lời phát biểu của nhân vật trong tác phẩm Xem trăng của
Barthelme (1968): ‘Những mảnh vỡ là hình thái duy nhất mà tôi tin tưởng’. Hai
trạng thái này chứng tỏ sự khác biệt dữ dội giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ

nghĩa hậu hiện đại” [131;128].
Có thể thấy, mảnh vỡ là một đặc trưng tiêu biểu của văn học hậu hiện đại
phương Tây. Các nhà văn hậu hiện đại đã nói bằng ngôn ngữ mảnh vỡ, thứ
ngôn ngữ nghệ thuật, mà theo họ, có thể giải phóng được tư duy, xúc cảm, thể
hiện sinh động vẻ đẹp vốn có của cuộc sống. Những sáng tạo mới lạ của các
nhà văn hậu hiện đại trong ngôn ngữ mảnh vỡ trên các yếu tố: ngôn từ, nghệ
thuật kể chuyện, nhân vật, cốt truyện, theo chúng tôi nhận thấy, như là một
biểu hiện chống lại những trung tâm đã cũ mòn, xơ cứng, muốn phá vỡ, bẻ gẫy,
lật tung, đào xới tất cả, muốn tìm đến những mảnh đất mới lạ cho sáng tác
nghệ thuật, đồng thời, đó cũng là biểu hiện của sự khao khát thoát khỏi những
hệ thống quy tắc, chuẩn mực đã lỗi thời, khiến họ ngạt thở, không còn khả
năng tái sinh. Ngôn ngữ mảnh vỡ, là một sáng tạo đặc biệt thành công của các
nhà văn hậu hiện đại, để có thể thể hiện, bộc lộ tâm thức của con người thời
đại.
1.1.2. Ở Việt Nam
Thuật ngữ “mảnh vỡ” cũng giành được sự quan tâm thích đáng trong
nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia
tháng 1 năm 2013 Văn học hậu hiện đại – lí thuyết và thực tiễn, có 5/30 bài
trực tiếp nghiên cứu về mảnh vỡ, đề cập đến các vấn đề từ cốt truyện đến nhân
vật, ngôn từ mảnh vỡ. Đó là các bài “Kiểu nhân vật phụ nữ mảnh vỡ trong
Thằng điên và quỷ sứ của Sarkadi Imre” của Mai Thị Liên Giang; “Cốt truyện
15
phân mảnh, lắp ghép trong tác phẩm của Murakami” của Nguyễn Anh Dân;
“Về mảnh vỡ ngôn ngữ của David Lurie trong Ruồng bỏ của J.M. Coetzee” do
Nguyễn Thị Ngọc Thủy viết; “Ngôn từ mảnh vỡ trong tiểu thuyết của Toni
Morrison” của Nguyễn Thị Minh Thảo; “Kí hiệu rỗng trong ngôn ngữ trần
thuật của Kafka” của Đoàn Thị Việt Nga. Ngoài ra, hầu hết các bài viết còn lại
đều có đề cập đến thuật ngữ mảnh vỡ như là một đặc trưng của văn học hậu
hiện đại.
Trong bài đề dẫn Hậu hiện đại như là một siêu ngôn ngữ, Lê Huy Bắc

nhận xét “Ngày nay, những khái niệm mảnh vỡ, phân mảnh, trò chơi, phi trung
tâm, liên văn bản, nhại, hỗn độn, đã trở nên quá quen thuộc với giới nghiên
cứu trẻ và sách báo” [68;5]. Lê Nguyên Cẩn trong công trình Về một vài khái
niệm của chủ nghĩa hậu hiện đại, ghi nhận: “Chủ nghĩa hậu hiện đại là sự tiếp
nối điển hình xu hướng tính phân mảnh”, về sự “giải” các siêu tự sự, tạo ra các
tiểu tự sự “Với đại tự sự sẽ có giải đại tự sự, nghĩa là tạo ra các tiểu tự sự, bởi
vì theo J.F. Lyotard thì ngày nay “chúng ta là nhân chứng chứng kiến sự đập
vụn, xé lẻ “những lịch sử lớn” và sự xuất hiện vô vàn những “câu chuyện lịch
sử manh mún”, đơn giản, cục bộ; ý nghĩa của những thiên trần thuật có bản
chất “cực kì nghịch lí” ấy không phải là hợp thức hóa tri thức, mà là “kịch tính
hóa sự hiểu biết của chúng ta về khủng hoảng” [68;10]. Nhà nghiên cứu khẳng
định: phi trung tâm hóa, phân rã, phân mảnh (mảnh vỡ) là khuynh hướng của
triết học hậu cấu trúc (giải cấu trúc), nhằm mục đích loại bỏ tư tưởng “trung
tâm”:
“Cũng như vậy, phi trung tâm hóa nghĩa là tạo ra nhiều trung tâm, mỗi
nhân vật trong tác phẩm trở thành một trung tâm của một câu chuyện nào đó;
giữa các câu chuyện này có thể hoặc không có mối liên hệ nào và không có khả
năng kết hợp lại với nhau; tất cả tạo thành các mảnh vỡ được khớp nối theo sở
thích của tác giả. Vì thế, khi đọc tác phẩm hậu hiện đại, người đọc sẽ phải
phiêu lưu trôi dạt theo các mảnh vỡ mà không nắm bắt được câu chuyện, vả lại
cũng chẳng có một câu chuyện nào theo mô hình kể chuyện truyền thống được
đưa ra ở đây cả. Người đọc sẽ rơi vào trạng thái bất định mà nguyên lí bất định
trong toán học đã được E. Thom đưa ra. Trạng thái bất định đó cũng là hiện
16
thực của cuộc sống đương diễn ra.
“Mỗi mảnh vỡ trở thành một câu chuyện, có thể lôgic có thể không, tùy
thuộc trạng thái của nhân vật người kể chuyện, trạng thái kể có ý thức hay vô
thức. Cho nên, mỗi mảnh vỡ đều có giá trị tự thân, giá trị đó lớn hay nhỏ, tùy
thuộc chuẩn đánh giá của người đọc mà không nằm trong ràng buộc với một
chuẩn chung nào cả. Chuẩn chung chỉ xuất hiện khi xã hội là một tổng thể, còn

ở chủ nghĩa hậu hiện đại, xã hội là giải kết hợp, là không thể liên kết được với
nhau, là nằm trong trạng thái tâm thần phân lập. Tính đa trị được hiểu là như
thế” [68;13].
Trong bài Phân tâm học cấu trúc và lí thuyết ngôn ngữ của J. Lacan,
Châu Minh Hùng phân tích tính luôn luôn phân mảnh của ngôn ngữ do bản
chất của ngôn ngữ khi được diễn đạt ra bên ngoài sau khi đã được sắp xếp, cắt
xén, biên tập bởi ý thức (do trật tự và luật lệ quy định, chi phối). “Trong cách
nhìn ấy, với Lacan, vô thức là một cấu trúc phức tạp của tinh thần, nó chỉ bắt
đầu xuất hiện khi con người tham gia vào đời sống văn hóa xã hội. Nó là sản
phẩm của xung đột và hòa hoãn giữa tự nhiên và văn hóa xã hội, giữa ham
muốn và trật tự luật lệ, giữa tính toàn vẹn và tính bị phân mảnh. Điểm khác
biệt giữa Lacan với Freud là trong khi Freud nhấn mạnh vào bản tính tự nhiên
và sinh lí mà con người có thể nhận diện thông qua kết tập các mảnh vỡ trong
giấc mơ, Lacan lại nhấn mạnh vào tính văn hóa xã hội đã tạo ra lối mòn và sự
chệch hướng trong nhận thức thông thường. Theo Lacan, bản tính tự nhiên và
sinh lí là cái toàn vẹn nhưng không thể nhận diện được trọn vẹn vì nó luôn
luôn bị phân mảnh, tức bị cắt xén, biên tập bởi trật tự và luật lệ của Biểu trưng.
Bao viền xung quanh đời sống chúng ta là những Biểu trưng với hình thức ước
lệ là kí hiệu ngôn ngữ, cho nên không có chủ thể nào độc lập với trật tự Biểu
trưng và ngôn ngữ, chính Biểu trưng và ngôn ngữ đã đi vào chiều sâu tinh thần
và điều hành cuộc sống của chúng ta, nó che đậy và kìm nén sự thực và tư
tưởng làm cho chúng ta rơi vào trạng thái vô minh hay ngộ nhận
(misrecognition). Nói một cách đơn giản (trong khi bản chất của vấn đề không
hề đơn giản), chúng ta luôn bị (nhưng lại tự tin là được) nói và hành động theo
các nguyên tắc của trật tự và luật lệ mà quên rằng thực chất cuộc sống không
17
phải thế, chúng ta ít có cơ hội phản tỉnh rằng, các Biểu trưng và ngôn ngữ đã
tạo thành thứ mặt nạ che đậy thực chất cuộc sống luôn muốn nổi loạn ở xung
quanh chúng ta và trong chúng ta” [68;34].
Nghiên cứu về Nhân vật hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam sau

1986, Lê Văn Trung chỉ ra bốn kiểu nhân vật điển hình, đó là kiểu nhân vật
phân rã hình tượng trung tâm, những nhân vật ngoại biên, dị biệt; kiểu nhân vật
nữ quyền; những nhân vật kí hiệu và những nhân vật mảnh vỡ, ghép mảnh. Ở
kiểu nhân vật mảnh vỡ, ghép mảnh, tác giả nhận xét: “Đặc điểm nổi bật của
kiểu nhân vật này là sự vụn vỡ từng mảnh của mỗi cá nhân, là mối quan hệ cực
kì lỏng lẻo, rời rạc của các nhân vật trong cùng một tác phẩm. “Những nhân vật
“tôi” trong rất nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ
Anh Thái, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nhật
Chiêu là những cái “tôi” vụn vỡ thành những mảnh rời rạc. Đó không phải là
những cái tôi phân thân nữa mà là nhiều cái tôi trong một hình tượng. Những
cái tôi đa diện, những cái tôi vô nghĩa lí, những cái tôi nghịch dị” [68;96].
Phùng Văn Tửu trong bài Biểu tượng “Ông bố chết” trong tiểu thuyết của
Donald Barthelme ghi nhận về tính chất mảnh vỡ của phong cách ngôn từ
“Cuốn Cẩm nang…, truyện trong truyện Ông Bố Chết, về cơ bản vẫn cùng
phong cách với đại bộ phận còn lại, có những mục câu cú mảnh vụn, nhưng
cũng có những mục loằng ngoằng thiếu các loại dấu chấm câu. Có nhiều ý kiến
nghiêm túc chắc chắn khiến Thomas và Julie tâm đắc, nhưng lại xen lẫn với vô
số điều vô nghĩa lí hoặc hài hước như các mục nói về màu sắc của các ông bố
chi phối tính cách, về bộ phận sinh dục của các ông bố so với của những ai
không phải là bố ” [68;141].
Cùng đề cập đến Mảnh vỡ, bài viết Cốt truyện phân mảnh, lắp ghép trong
tác phẩm của Murakami của Nguyễn Anh Dân nghiên cứu các kiểu cấu trúc
cốt truyện mang phong cách hậu hiện đại của nhà văn người Nhật. Đó là các
kiểu “cốt truyện phân mảnh, lắp ghép; phi tuyến tính; mô hình cốt truyện lồng
khung”. Với các kiểu kết cấu này, tác giả đã tạo nên những “không – thời gian
ảo hóa, mê lộ khiến con người lạc lối, lầm lẫn; những cốt truyện và kết cấu mê
cung, phân mảnh, đầy biến ảo, lôi cuốn, hấp dẫn”. Về kiểu cốt truyện phân
18
mảnh, qua khảo sát, tác giả nhận xét: “Cốt truyện phân mảnh là hình thức tổ
chức các sự kiện, biến cố không theo một trình tự mà có sự gián đoạn, phân

cách, khiến cho người đọc khó theo dõi, khó giải mã. Phân mảnh là một hình
thức đặc trưng của tư duy hậu hiện đại, nơi mà mọi giá trị đều bị phá vỡ và cảm
quan “phân mảnh” về thế giới ngự trị” [68;157].
Với bài Kiểu nhân vật mảnh vỡ phụ nữ trong “Thằng điên và Quỷ sứ”
của Sarkadi Imre, Mai Thị Liên Giang khảo sát và thấy nhân vật trong tác
phẩm này là những con người mảnh vỡ – đặc trưng của nhân vật hậu hiện đại,
lạc loài, cô đơn, không tính cách, không tình cảm, mất liên lạc với nhau. “Cũng
như nhiều nhà văn hậu hiện đại khác, một trong những thủ pháp nghệ thuật của
Sarkadi Imre là xây dựng kiểu nhân vật mảnh vỡ. Tiếp xúc với các nhân vật
trong tác phẩm, chúng ta gặp các nhân vật với những đổ vỡ, chấn thương tinh
thần trước những điều phi lí của xã hội. Trong Thằng điên và quỷ sứ, kiểu nhân
vật này thể hiện rõ nhất qua hình ảnh bác sĩ Sebuếc Dôntan. Mảnh vỡ là
khuynh hướng sáng tác tiêu biểu của chủ nghĩa hậu hiện đại. Đơn giản bởi
mảnh vỡ chính là bản thể của hiện tồn hậu hiện đại” [68;205].
Ngôn ngữ mất chức năng giao tiếp, ngôn ngữ vô nghĩa, vô hồn, ngôn ngữ
bất lực là những đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật David Lurie trong tác phẩm
Ruồng bỏ, tác phẩm của nhà văn Nam Phi đoạt giải Nobel năm 2003 mà
Nguyễn Thị Ngọc Thủy đã chỉ ra trong bài viết Về “mảnh vỡ ngôn ngữ” của
David Lurie trong “Ruồng bỏ” của J.M. Coetzee. Những kiểu loại ngôn ngữ
đối thoại đó, tác giả cho rằng “Chúng tôi gọi kiểu ngôn ngữ đối thoại này là
ngôn ngữ có tính chất mảnh vỡ.” David Lurie mặc dù biết ba thứ tiếng nhưng
cuối cùng ấp úng không thể sử dụng được ngôn ngữ để diễn đạt suy nghĩ của
mình. “Ông hoàn toàn mất khả năng diễn đạt cho người khác hiểu tâm trạng
ngổn ngang và những suy nghĩ của mình về bản chất thật của cái mà người ta
gọi là nỗi nhục nhã ông đang mắc phải. Hơn ai hết, một giáo viên dạy thông tin
như ông hiểu rằng ngôn ngữ đang bị “sáo, mòn như bị mối ăn ruỗng từ bên
trong”. Chỉ còn các đơn âm là còn nghe thấy, thậm chí nghe cũng không hết”
[68;220]. Kiểu ngôn ngữ vô hồn đó thể hiện sự mất niềm tin và đứt vỡ trong
tâm hồn con người.
19

Lê Huy Bắc trong bài Trung tâm – ngoại biên: vua thất thế, sãi làm vua
(website: phongdiep.net) phân tích tính mảnh vỡ, vô thức trong đời sống hậu
hiện đại và tính chất trò chơi của ngôn ngữ, sự dao động của trung tâm – ngoại
biên – một quy luật của tồn tại lịch sử trong tác phẩm của Đặng Thân: “Cái
‘ngoại biên’ hiện nay là ngoại biên hậu hiện đại (hoặc giả tất cả mọi ngoại biên
trong lịch sử đều là ngoại biên hậu hiện đại?). Tác phẩm hậu hiện đại tiêu biểu
tại thời điểm này chính là 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân.
Người đọc có thể tìm thấy ở đây vô vàn điều “khác biệt” với tư duy tiểu thuyết
Việt đương thời và trước đó. Cấu trúc sách cho thấy thân phận của một môn đồ
trung thành của mảnh vỡ trí tuệ, mảnh vỡ internet. Những mảnh vỡ vô chủ, vô
đích, trôi dạt trên sự sống theo những ngẫu nhiên, nhưng vẫn không thiếu
những biểu tượng, ẩn dụ về một gái Việt nạ dòng lang chạ với đủ phường đàn
ông vì sự thông minh, lãng mạn nhưng nhẹ dạ, vì đam mê xác thịt nhưng lại
muốn làm giàu, vì một lí tưởng vật chất nhưng lại nghiêng ngả trước những
cám dỗ đồi bại đội lốt tinh thần cao cả bởi nhiều kẻ đốn mạt, trục lợi thâm
hiểm Theo đó, với lối tư duy trác tuyệt của mình, Đặng Thân đã biến ngôn
ngữ thành phi ngôn ngữ, biến khả năng giao tiếp thành thảm họa, biến lịch sử
thành hư cấu và hư cấu thành lịch sử, biến khoa học thành trò chơi, biến
chuyện tình yêu thành xác thịt và xác thịt thành tình yêu, biến bạn thành thù và
thù thành bạn, biến nhà thông thái thành kẻ ngốc và kẻ ngốc thành thông thái,
biến tri thức thành phản tri thức, biến vĩ nhân thành cuồng nhân ngay trong
chính “cái vĩ” của mình Một cái nhìn đa diện, đầy chất chơi về cuộc đời như
thế đã cho thấy sự bất an về bản thể, về hành trình sống của nhân loại. Một bất
an ngẫu nhiên, không xuất phát từ thực tại mà dường như tự khi cái được gọi là
trái đất hình thành và khi cái được gọi là con người ra đời”.
Tác giả Nguyễn Hưng Quốc trong bài: Các lí thuyết phê bình văn học
(chuyên đề Chủ nghĩa hậu hiện đại), đưa ra nhận xét sau: “Khác với chủ nghĩa
hiện đại vốn đặt trên nền tảng chủ nghĩa duy lý của Descartes và gắn liền với
phong trào Khai Sáng, nhấn mạnh vào lý trí, khoa học, kỹ thuật và những sự
tiến bộ theo hướng tuyến tính; chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với chủ nghĩa

hậu cấu trúc, đề cao tính bất định, tính đứt đoạn, tính đa dạng và tính phân
20
mảnh. Chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương phi tâm hoá (de – centring), do đó,
chấp nhận những sự lắp ghép ngẫu nhiên (collage) và những sự nhại lại
(pastiche), chấp nhận sự kết hợp lỏng lẻo giữa các thành tố trong tác phẩm như
những thủ pháp nghệ thuật quan trọng. Khác với chủ nghĩa hiện đại vốn hoàn
toàn hướng đến tương lai, cổ vũ các cuộc cách mạng, khuyến khích mọi hành
vi phủ định và phản kháng, chủ nghĩa hậu hiện đại kết hợp cái nhìn về tương
lai với một chút hoài niệm đối với quá khứ, kết hợp dễ dàng giữa cái cũ và cái
mới, giữa truyền thống và sự cách tân” [153].
Như thế, mảnh vỡ là một trong những phạm trù trung tâm của của lí
thuyết phê bình hậu hiện đại. Các nhà nghiên cứu trong cũng như ngoài nước
đã sử dụng rộng rãi khái niệm này để khảo cứu tác phẩm văn chương hậu hiện
đại. Nhưng quả đúng như tinh thần hậu hiện đại, mỗi người sử dụng mỗi kiểu
và chưa có ai quy tụ thành khái niệm cụ thể. Chúng tôi nhận thấy, cũng chưa có
ai chỉ ra đặc trưng của ngôn ngữ hậu hiện đại là ngôn ngữ mảnh vỡ, mặc dù họ
có thể phân tích rất kỹ các biểu hiện của nó. Từ tất cả những quan điểm và cách
sử dụng trên, chúng tôi dựa vào đó để xác lập khái niệm “ngôn ngữ mảnh vỡ” ở
chương hai.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TONI MORRISON
1.2.1. Nghiên cứu về Toni Morrison trên thế giới
Với sự nổi tiếng của mình, Toni Morrison được nghiên cứu hầu như là
rộng khắp thế giới, công việc đó vẫn đang tiếp diễn. Đến nay, việc thống kê có
bao nhiêu công trình nghiên cứu về bà gần như là không thể, kể cả việc hiểu
thấu đáo tác phẩm của bà vẫn là thách thức lớn đối với nhiều thế hệ nghiên
cứu. Xuất phát từ Việt Nam, nơi văn học Mỹ và Toni Morrison chưa được
nghiên cứu nhiều, thì đối với chúng tôi, việc tập hợp tài liệu tham khảo quả là
không dễ.
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu tiểu thuyết Morrison, chúng tôi
thấy các khuynh hướng tiếp cận các tiểu thuyết của bà chủ yếu là: Phê bình nữ

quyền, phê bình hậu hiện đại, phê bình phân tâm học, tiếp cận từ góc độ văn
hoá, lịch sử… tập trung vào các vấn đề sau:
21
Xu hướng nghiên cứu tư tưởng của nhà văn: các vấn đề chủng tộc, giới
tính, lịch sử, vấn đề bản sắc, cá nhân và cộng đồng, vấn đề nữ quyền, tinh thần
nhân văn… Bên cạnh đó, còn có xu hướng thiên về thi pháp và kỹ thuật tiểu
thuyết của Toni Morrison như chất thơ trong tiểu thuyết, các yếu tố văn hoá
dân gian, không khí tôn giáo, nghệ thuật trần thuật đa chủ thể thông qua dòng
tâm tư và sự luân phiên điểm nhìn, các đặc điểm của kỹ thuật tiểu thuyết hậu
hiện đại. Đặc biệt, tính mảnh vỡ được nhìn nhận như là một đặc trưng của tiểu
thuyết Morrison, thể hiện ở cả trong nội dung cũng như kĩ thuật tiểu thuyết.
Với nỗ lực của bản thân, chúng tôi tóm tắt những hướng nghiên cứu cơ bản về
tiểu thuyết của Morrison như sau:
Thứ nhất, tiểu thuyết của Toni Morrison được nghiên cứu dưới cái nhìn
phân tâm học. Những vấn đề về nỗi sợ hãi, ám ảnh, những chấn thương tinh
thần, tâm lí nô lệ… được phân tích khá kĩ để lí giải những nội dung tư tưởng
trong tiểu thuyết của Morrison.
Quan tâm tới những bi kịch của người da màu, J. Brooks Bouson (Phó
giáo sư tiếng Anh tại Đại học Loyota ở Chicago) có bài Yên lặng như vốn dĩ:
Xấu hổ, chấn thương và chủng tộc trong tiểu thuyết của Morrison (Quiet As
It’s Kept: Shame, Trauma, and Race in the Novels of Toni Morrison). Phân tích
sâu ở phương diện phân tâm học, tâm thần học và văn hóa, nhà nghiên cứu đã
đi vào những vấn đề tâm lý của người da đen trong xã hội mà họ không được
coi là người. Họ luôn cảm thấy đau đớn trong từng giờ khắc của cuộc sống, nỗi
xấu hổ chủng tộc tràn ngập (luôn thấy mình xấu xí, thấp kém – điều mà văn
hóa trắng đã ghim vào tâm khảm của họ, như những chiếc kim châm), khiến
cho tâm hồn và cuộc sống của họ vỡ nát: những trái tim vỡ nát, tâm hồn tan
nát, những gia đình vụn nát. J. Brooks Bouson khám phá những vấn đề này
trong cả bảy tác phẩm của Morrison (The Bluest Eye, Sula, Song of Solomon,
Tar Baby, Beloved, Jazz và Paradise).

Cuốn Mỹ học của Toni Morrison: Nói những điều không thể nói, (The
Aesthetics of Toni Morrison: Speaking the Unspeakable) tuyển công trình của
các tác giả: Marc C. Conner, Susan Corey, Barbara Johnson ), nhà nghiên cứu
Marc C. Conner viết “Số phận của Pecola trong tiểu thuyết này là mảnh vỡ và
22
sự tan rã tinh thần toàn diện: ‘Một sự hủy hoại tổng thể’. Bị tàn phá đồng thời
bởi sự tiếp xúc của cô với điều không thể nói và bởi sự phản đối cô của cộng
đồng, Pecola bị tổn thương tinh thần, được kí thác cho sự tồn tại vĩnh hằng trên
cái ngoại biên, “bên rìa thành phố”, vĩnh viễn vô gia cư. Miner miêu tả sự hủy
hoại tâm lí của cô như “một giới hạn cuối cùng mà việc xác định nhân dạng cô
là cả vấn đề” [85,52].
Viết về Nỗi xấu hổ và sự tức giận trong“Mắt biếc” (Shame and anger in
The Bluest Eye), Jill L. Matus nhận định: “Chấn thương của chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, đối với cả kẻ phân biệt chủng tộc lẫn nạn nhân, là sự vỡ mảnh
khốc liệt của một cái tôi” [111;36–37].
Morrison từng nói động cơ thúc đẩy bà bắt tay viết cuốn tiểu thuyết đầu
tiên là cảm giác về sự mất mát, sự trống rỗng. “Mọi thứ cứ trôi tuột quá nhanh
vào đầu những thập niên 1960 và 1970 thật náo nhiệt nhưng nó lại khiến tôi
bị mất mát Chẳng có cuốn sách nào về tôi, tôi không tồn tại trong bất cứ dòng
văn nào tôi đọc Con người này, phụ nữ này, người da đen này đã không tồn
tại như một cái tôi trung tâm”. Phản ứng lại cảm giác trống vắng và sự thiếu
mất trong hình dung đó, Mắt biếc là một lịch sử tưởng tượng về những gì nuôi
dưỡng người da đen và phụ nữ trưởng thành trong những thập niên 1930 và
1940, nhưng còn có cách thức quan trọng khác, theo đó nó phản ứng lại những
phong trào chính trị đường thời – cái cách mà mọi thứ đang di chuyển quá
nhanh vào đầu những thập niên 1960 và 1970.
Trong bài viết Toni Morrison: Tra cứu văn chương về cuộc đời và sự
nghiệp của bà (Toni Morrison: A Literary Reference to Her Life and Work),
nhà nghiên cứu Carmen Gillespie nhận định về nguyên nhân sâu xa của sự tan
vỡ trong tâm hồn cô bé Pecola. Đó là do sự chấn thương tâm lý, sự đơn độc và

trơ trọi của cô bé, sự trống rỗng từ trong bản thể, không có bất kỳ mối liên kết
nào. “Kết thúc Mắt biếc, Pecola ở trong không gian hỗn độn, không thoải mái,
bẩn thỉu mà Morrison tuyên bố như là thiên đường, một thiên đường cuộc sống
và có thể là trung thực duy nhất, một không gian trong đó gạch đá và sự đổ nát
của những phạm trù áp bức dỡ bỏ những khái niệm truyền thống của sự xung
đột, của sự khác biệt – trắng/đen, đực/cái, tốt/xấu, tình dục/trong trắng, giàu
23
/nghèo – rường cột cấu trúc và trật tự của nghĩa đã khuyến khích sự tách li của
Pecola.
“Sự suy sụp tâm lí hoàn toàn của Pecola có nguồn gốc từ những trải
nghiệm với cái ác mà cô nếm qua, nhưng sâu xa hơn, những mảnh vỡ tâm lí
(psychological fragmentation) của cô bắt nguồn từ sự trống rỗng của các quan
hệ – với bản thân, với gia đình, với cộng đồng. Pecola thiếu đi cái nền tảng mà
ngược lại, đã cho phép Claudia sống sót trước những khó khăn để trưởng thành
như một cô gái da đen bé bỏng” [95;123].
Cùng viết về Mắt biếc, trong Những cảnh tượng xấu hổ: Phân tâm học,
nỗi xấu hổ và lối viết (Scenes of Shame: Psychoanalysis, Shame, and Writing),
Joseph Adamson, Hilary Anne Clark phân tích nghệ thuật trần thuật mảnh vỡ,
một biện pháp mà Morrison sử dụng để giảm bớt nỗi hổ thẹn, “chống lại nỗi
kinh hoàng, nói điều không thể nói”. Tuy nhiên, tác giả vẫn thấy vẫn còn có gì
đó vướng mắc ở khu trung tâm, có gì đó vẫn tắc nghẹn, không thể nói: “Nói
điều không thể nói, Mắt biếc của Morrison ngập tràn sự xấu hổ và chấn thương.
Nhưng nó cũng sử dụng cấu trúc trần thuật và thiết kế thẩm mĩ không chỉ để
mê hoặc và gây ấn tượng cho độc giả – và vì vậy để chống lại sự xấu hổ – mà
còn phần nào đó chống lại nỗi kinh hoàng mà nó được ấn định để khám phá.
Nếu phiên bản đầu của cuốn tiểu thuyết tái hiện sự trần thuật mảnh vỡ
(fragmented narrative) của Pecola, nạn nhân chấn thương xấu hổ – vì nguyên
gốc Mắt biếc là chuyện của Pecola và gia đình cô được kể từ người kể ở ngôi
thứ ba “theo từng mảnh giống như một chiếc gương vỡ” – Morrison, nhận thấy
rằng “không có sự tiếp nối giữa cuộc sống của Pecola với mẹ và cha cô,” nên

đã dựng Claudia như một người kể chuyện xưng “tôi” và vì thế đã đưa vào sự
kể một ai đó để “cảm thông” với Pecola và cũng để “làm chùng bớt sự cực
đoan” của sự kể. Nhưng với Morrison, bất chấp sự cẩn trọng của bà về cấu trúc
cuốn tiểu thuyết, thì vẫn còn vướng mắc ở trong “khu trung tâm” của sự trần
thuật” [73;1–3].
Trong quá trình khảo sát bài Đổ vỡ là một điều tồi tệ: Thế giới chia cắt
trong “Mắt biếc” (The Break Was a Bad One: The Split World of The “Bluest
Eye”), chúng tôi nhận thấy, tác giả đã đi sâu phân tích những chấn thương tâm
24
hồn, sự mất mát, cùng cực, những đau khổ và tủi nhục mà người da đen Mỹ
phải chịu đựng. Nguyên nhân chủ yếu ở đây, như tác giả đã chỉ ra và phân tích,
đó là do sự nô dịch về văn hóa. Người da đen bị áp đặt những chuẩn mực văn
hóa da trắng. Sự mất gốc và bị tẩy não đã khiến cho cuộc sống của họ trở thành
những tấn thảm kịch trên đất Mỹ. Mỗi nhân vật trong tác phẩm được mô tả ở
những mảnh vỡ, cuộc đời họ là một chuỗi dài những đổ vỡ, chia cắt, chấn
thương, tập trung điển hình ở nhân vật Pecola. Trong quá trình đi tìm bản sắc
và cái tôi, cô bé đã bị hủy hoại hoàn toàn.
Tác giả Lynda Koolish trong bài viết “Được yêu thương và hổ thẹn kêu
gào”: một cách đọc tâm lí học về“Người yêu dấu” của Toni Morrison (“To be
Loved and Cry Shame”: a psychological reading of Toni Morrison’s
‘Beloved’) cho bạn đọc thấy được sự vận dụng tâm lí học vào việc nghiên cứu
tác phẩm văn học. Ở đây, Koolish phân tích làm rõ các chấn thương tâm lí của
các nhân vật trong tác phẩm qua việc vận dụng các lí thuyết về phân tâm học.
Đây cũng là cơ sở để chúng tôi đi tìm hiểu cội nguồn mảnh vỡ trong tác phẩm
của Morrison.
Thứ hai, tiểu thuyết của Morrison được khám phá từ góc độ thi pháp
học.
Từ điển Wikipedia giới thiệu khá đầy đủ về phong cách Morrison ở mục
từ Beloved. Ngoài sơ lược về tiểu sử nhà văn, tóm tắt tác phẩm, còn có một số
nội dung thú vị khi đề cập đến các chủ đề được nói đến trong tác phẩm, như

vấn đề lịch sử: Năm 1856, Margaret Garner đã giết đứa con mình để ngăn cho
nó khỏi phải trở lại kiếp sống nô lệ (…); vấn đề nhân tính (manhood); vấn đề
sự lưỡng nghĩa (ambiguity); sự thú vị của các con số (ngôi nhà 124 khuyết
thiếu con số 3 trong dãy liên tục, tương ứng với đứa con thứ 3 bị giết và cuốn
sách được xuất bản vào năm 1987, nếu trừ đi số ngôi nhà 124 ra con số 1863 –
năm tổng thống A. Lincoln kí sắc lệnh giải phóng nô lệ (Emancipation
Proclamation) [143].
Từ điển Encarta cũng đề cập đến nội dung và kỹ thuật trong tiểu thuyết
của Toni Morrison, nhà văn đương đại nổi tiếng của Hoa Kỳ. Nhận định về
cuốn Người yêu dấu, các tác giả viết: “Morrison sử dụng một cách đa dạng
25
những khuôn hình thời gian và sự xuất hiện kì ảo, qua đó thể hiện tài năng kể
chuyện của bà” [91].
Cuốn Tiểu thuyết của người Mỹ gốc Phi và truyền thống của Benard W. Bell
do nhà xuất bản Đại học Massachusetts ấn hành, với những nội dung thông tin về
bản sắc Châu Phi trong các tác phẩm của các nhà văn da màu. Tác giả dành hẳn
một mục cho Toni Morrison mà ông cho là tiêu biểu cho Chủ nghĩa hiện thực đầy
chất thơ (Poetic Realism) và Truyện ngụ ngôn Gôtích (the Gothic Fable) [78].
Jill L. Matus đề cập đến thế giới mảnh vỡ của Mắt biếc trong cuốn Toni
Morrison, Những nhà văn thế giới đương đại (Toni Morrison, Contemporary
World Writers). Bà cho rằng đằng sau dấu hiệu của ngôn từ mảnh vỡ, cấu trúc
mảnh vỡ của câu chuyện, là cả một thế giới tan vỡ, “sự tan vỡ này diễn ra
trong tự nhiên, trong các vật thể của tự nhiên, trong các đồ vật do con người
làm, trong mỗi cá nhân, trong các gia đình, trong cộng đồng và trong xã hội”
[111;38].
Philip Page nhấn mạnh đến motif phân mảnh trong tiểu thuyết của
Morrison qua công trình nghiên cứu Tự do nguy hiểm, Sự hợp nhất và mảnh vỡ
trong tiểu thuyết của Toni Morrison (Dangerous Freedom, Fusion and
Fragmentation in Toni Morrison’s Novels, 1995). Nhận xét về tiểu thuyết của
Morrison, nhà nghiên cứu viết: “Trong khi các nhân vật của bà đấu tranh để

giành lấy ý nghĩa cho vai trò, vị trí và bản sắc, họ phải đương đầu với một vấn
đề không thể tránh khỏi đó là bị chia tách. Tiểu thuyết của bà tràn ngập các
motif của sự phân mảnh. Các thực thể bị phân tách này là một chủ đề lặp đi lặp
lại trong tiểu thuyết của Morrison. Xuất hiện ở nhiều cấp độ, sự đa diện trong
một thực thể tác động đến những người kể chuyện, trật tự thế giới, các cá nhân,
các cặp vợ chồng, các gia đình, các khu dân cư, các chủng tộc” [121;83].
Nghiên cứu về Bài ca của Solomon, Vladimir Kleyman đã đi vào phân
tích các yếu tố chủ đề, motif và biểu tượng. Tác giả đã luận giải và làm rõ nghĩa
một số chủ đề, motif và biểu tượng trong tác phẩm: chuyến bay như là một
phương tiện để trốn chạy; những người phụ nữ bị bỏ rơi; sự bị xa lánh, hậu quả
của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc; vấn đề tương đồng trong Kinh Thánh;
những cái tên; những bài hát; màu trắng; những bông hoa hồng giả và vàng.

×