Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Cơ chế lãi suất ở Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.28 KB, 78 trang )

CHƯƠNG I
Những vấn đề cơ bản về l i suất và cơ chế l i suấtã ã

I . Khái niệm lãi suất
1. Định nghĩa về lãi suất .
Lãi suất là gì ?
Theo J. M keynes ( 1883-1964) nhà kinh tế học nổi tiếng ngời Anh cho
rằng lãi suất không phải là số tiền phải trả cho công việc tiết kiệm hay nhịn chi
tiêu vì khi tích trữ tiền mặt ngời ta không nhận đợc một khoản trả công nào,
ngay cả trờng hợp tích trữ rất nhiều trong một khoảng thời gian nhất định nào
đó. Vì vậy, lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thởng cho sở
thích chi tiêu t bản
Theo C. MAC: qua quá trình nghiên cứu bản chất của xã hội t bản ông cho
rằng : khi nghiên xã hội phát triển thì t bản tài sản tách rời t bản chức năng, tức
là quyền sở hữu t bản tách quyền sử dụng t bản. Nhng mục đích của t bản là giá
trị mang lại giá trị thặng d thì không thay đổi. Vì vậy trong xã hội phát sinh
quan hệ đi vay và cho vay, đã là t bản thì sau một thời gian giao cho nhà t bản
đi vay sử dụng, t bản cho vay đợc hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một
giá trị tăng thêm và ông gọi đó là lợi tức.
Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng d mà nhà t bản đi
vay trả cho nhà t bản cho vay. Trong thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận
bình quân mà các nhà t bản thơng nghiệp đi vay phải chia cho các nhà t bản
cho vay.
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cùng với tín dụng sự tồn tại và tác
động của nó đã do mục đích thoả mãn đầy đủ nhất các yêu cầu của tất cả các
thành viên trong xã hội . Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng mà nó còn
phải bám sát các mục tiêu kinh tế. Qua sự phân tích trên ta thấy :
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa khoản tiền ngời đi vay phải trả thêm cho ngời
cho vay trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định đẻ đợc sử dụng khoản
tiền vay đó. Nói theo một cách khác lãi suất đó là giá cả của quyền sử dụng
vốn vay trong một thời gian nhất định mà ngời sở dụng trả cho ngời sở hữu nó.


Lãi suất phải đợc trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận
1
đợc ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi ngời cho vay chuyển
quyền sử dụng vốn cho ngời khác có nghĩa là anh ta hy sinh quyền sử dụng tiền
tệ ngày hôm nay của mình với hy vọng có đợc lựợng tiền tệ lớn hơn vào ngày
mai. Sẽ không có sự chuyển nhựơng vốn nếu không có p hần lớn thêm lên đó
hoặc là nó không thể cho giá thời gian của tiền tệ. Lãi suất ảnh hởng trực tiếp
đến các quyết định của cá nhân trong việc hình thành tỷ lệ giữa tiêu dùng và
tiết kiệm ;ảnh hởng đén quyết định phân vốn đầu t của dóanh nghiệp và hộ
gia đình. Xét ở phạm vi toàn xã hội, các quyết định này sẽ ảnh hởng đến tốc độ
tăng trởng và tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia.
2 . Fhân loại lãi suất
Tuỳ thuộc vào từng tiêu chí, mục đích phân loại khác nhau mà lãi suất đợc
chia làm nhiều loại :
a ) Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất đợc chia làm ba loại : lãi suất
ngắn hạn , lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn .
Các tổ chức tín dụng thực chất cũng là một doanh nghiệp vì vậy mục
đích cuối cùng của nó vẫn là lợi nhuận. Để tối đa hoá lợi nhuận các tổ chức
tín dụng phải có cách quản lí tài sản một cách tối u nhất. Một trong những
nhân tố ảnh hởng đến việc quản lí tài sản của các tổ chức tín dụng là thời
gian đáo hạn. Đây là độ dài về giờ, ngày, tháng, năm của các khoản nợ từ
ngày nhận cho đến khi nó đợc trở lại. Chính sự khác nhau về thời gian của
khoản vay (hoặc cho vay ) lãi suất cho mỗi loại là khác nhau. Đó cũng là
nguyên nhân cho sự phân biệt về lãi suất ngắn hạn, lãi suất trung hạn và lãi
suất dài hạn
Nh vậy căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất đợc chia làm ba loại :
- Lãi suất ngắn hạn đợc áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn .
- Lãi suất trung hạn đợc áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn.
- Lãi suất dài hạn đợc áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn
Lãi suất ngắn hạn thờng thấp hơn lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn

vì lợi tức của những khoản đầu t ngắn nh thế thờng có lợi tức không ổn định.
Hơn nữa , chính lợi tức không ổn định của nó làm cho loại lãi suất này biến
động khá thờng xuyên và dữ dội. Ngợc lại lãi suất trung và dài hạn, vì tính
lâu dài của nó, các khoản đầu t này thờng đợc sử dụng cho các khu vực sản
suất cơ bản, bền chắc, với lợi tức ít thay đổi. Do lợi tức của đầu t cơ bản ổn
định, lãi suất của các loại tài sản này cũng cao hơn các loại tài sản khác. khi
2
nền kinh tế cha phát triển các khoản vay ngắn hạn đợc sử dụng nhiều hơn
các khoản cho vay trung và dài hạn và có thể trong thời gian đầu lãi suất
ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất trung và dài hạn. nhng khi nền kinh tế cần
nhiều nguồn vốn cho đầu t hơn, cần chú trọng đến các khoản vay trung và
dài hạn thì cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn về vị trí giữa lãi suất ngắn
hạn, trung và dài hạnđể tránh những bất hợp lý . tinh trạng này đã diễn ra ở
nớc ta trong một khoảng thời gian dài và gây ra nhiều bất hợp lý cản trở sự
phát triển của nền kinh tế, hnạ chế khuyến khích đầu t. Vì vậy cần có sự nhận
thức đúng đắn vị trí của các loại lãi suất này để có đợc những điều chỉnh phù
hợp, góp phần phát triển nền kinh tế.
b) Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất và cũng bởi mối liên hệ giữa lãi
suất và lạm phát ngời ta chia lãi suất làm hai loại :lãi suất danh nghĩa và lãi
suất thực tế .
- Lãi suất danh nghĩa : là lãi suất cha loại trừ đi tỷ lệ lạm phát và thờng đ-
ợc thông báo chính thức trong các quan hệ tín dụng.
- Lãi suất thực tế : là loại lãi suất đợc điều chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi về lạm phát bao gồm hai loại lãi suất thực tính trớc ( dự tính) và lãi
suất thực tính sau.
Việc phân chia hai loại lãi suất này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng quan trọng. Nhận thức rõ ràng đâu là lãi suất thực đâu là lãi suất danh
nghĩa sẽ giúp nhà nớc và các TCTD ứng biến kịp thời trớc những thay đổi
của tình hình lạm phát .
Để giữ cho tài sản nợ và tài sản có có hiệu quả không đổi hệ thống

ngân hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định. Nhng vì lãi suất
thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát nên nếu muốn cho lãi
suất thực tế ổn định lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát. Vì
vậy có thể nói hai loại lãi suất này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau,
có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc quản lý lãi suất ở cả tầm vi mô và vĩ
mô.
c) Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất , lãi suất cố định và lãi suất
thả nổi.
Lãi suất cố định: đợc áp dụng suốt thời hạn vay. Với loại lãi suất này
cả ngời gửi tiền và ngời vay tiền đều có thể biết trớc số lãi đợc trả và phải trả
nhng lại làm cho các tổ chức cung ứng tín dụng và ngời vay tiền khó có khả
3
năng phản ứng linh hoạt với các biến động, nếu có, của cung cầu vốn trên thị
trờng tài chính tiền tệ.
Lãi suất thả nổi : là lãi suất có thể thay đổi phù hợp với sự biến động
của thị trờng và có thể báo trớc hoặc không báo trớc. Mặc dù khi áp dụng cơ
chế lãi suất này cả ngời đi vay và ngời cho vay không thể xác định chính xác
mức lãi suất sẽ phải trả nhng nó thích hợp trong một môi trờng không ổn định
và các quan nhân tố ảnh hởng đến lãi suất là khó dự đoán.
Việc phân chia hai loại lãi suất này chủ xuất phát từ yêu cầu quản
lí lãi suất. Đây là hai cách quản lý lãi suất. Cố định lãi suất có nghĩa là đa
ra những thang, mức lãi suất lập sẵn trong quan hệ đi vay và cho vay.Thả
nổi lãi suất có nghĩa để lãi suất do cung cầu vốn của thị trờng quyết định .
Cố định hay thả nổi lãi suất có liên quan chặt chẽ đến việc hoạch
định chính sách tiền tệ trong mỗi thờ kỳ cụ thể và theo từng giai đoạn phát
triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế cha ổn định, thị trờng tài chính còn sơ
khai ngân hàng trung ơng thờng sử dụng các biện pháp điều chỉnh trực tiếp
mang tính hành chínhđể tránh những xáo trộn bất lợi khó có thể kiểm soát đ-
ợc. Lãi suất trong thời kỳ này thờng đợc quy định từng mức cụ thể, với từng
loại đối tợng trong các bảng biểu. Khi nền kinh tế đã phát trển, khi thị trờng

tài chính đã ổn định nhà nớc sẽ thả nổi lãi suất cho cung cầu quyết định. Lãi
suất cố định là bớc đầu phải trải qua của hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi,
là bớc đệm tiến tới thả nổi lãi suất.
d) Căn cứ vào các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng lãi suất đợc
chia làm bốn loại : lãi suất tín dụng nhà nớc, lãi suất tín dụng ngân hàng, lãi
suất tín dụng thơng mại.
Trong nền kinh tế thị trờng nguồn vốn không còn có thể tự nhiên mà có,
nhà nớc không thể cứ tiêu hết rồi lại in thêm, các tổ chức kinh tế cứ dùng hết
vốn thì lại có nhà nớc cung cấp nh trớc đây.Trong nền kinh tế thị trờng mọi
thứ đòi hỏi phải tuân theo quy luật thị trờng. Mọi thứ phải tuân thủ quy luật
giá trị, cân đối giữa lợng và chất. Ngay cả lãi suất cũng vậy, ngời ta có thể
quy định cụ thể từng mức lãi suất nhng phải luôn bảo đảm công thức lãi suất
lớn hơn tỷ lệ lạm phát và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh
tế, nếu không sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nền kinh tế nớc tavào
nửa cuối thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90 đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng một phần đã có những nhận thức sai lệch nh trên.
4
NHNN cứ phát hành ra thật nhiều tiền cho nhu cầu chi tiêu của mình và
cung cấp cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Kết quả lợng hàng hoá làm
ra thì có hạn, mức tiêu thụ thấp nhng lợng tiền tơng ứng lại quá d thừa. Trớc
tình hình trên đòi hỏi nhà nớc cần nhìn nhận một cách tổng thể về chính sách
tiền tệ quốc gia, về mối quan hệ giữa chính sách cung ứng tiền và lạm phát,về
tác dụng của các loại lãi suất trong nền kinh tế. Các loại lãi suất khác nhau
tuỳ thuộc vào mục đích của các chủ thể tạo ra chúng. chính phủ tuỳ thuộc
vào nhu cầu chi tiêu nhiều hay ít mà vay nền kinh tế nhiều hay ít, lãi suất
thấp sẽ đồng nghĩa với việc thu hút đợc nhiều tiền trong lu thông à ngợc lại .
NHNN giao cho nhiệm vụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tuỳ vào
mục tiêu của chính sách trong từng thời kỳ vào mục tiêu hút tiền và cung ứng
tiền mà NHNN đặt giá cao hay thấp cho nguồn vốn vay và cho vay của mình
với nền kinh tế theo giá cao hay thấp. Các TCTD, các doanh nghiệp cũng nh

các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong quan hệ đi vay và cho vay đèu can
cứ vào mục đích và nhu cầu của mình mà đặt giá cao hay thấp cho từng loại
tín dụng.
* Lãi suất tín dụng nhà nớc :
Lãi suất tín dụng nhà nớc áp dụng trong các trờng hợp nhà nớc đi vay của các
chủ thể khác nhau trong xã hội dới hình thức phát hành tín phiếu hoạc trái
phiếu. Loại lãi suất này có thể do nhà nớc ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi
tiết kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố khác nh sự biến động của lạm phát ,
nhu cầu cấp thiết về vốn của nhà nớc... hoặc hình thành thông qua hoặt động
đấu thầu tín phiếu, trái phiếu nhà nớc.
* Lãi suất tín dụng ngân hàng
Lãi suất tín dụng ngân hàng đợc áp dụng trong hoặt động tái cấp vốn của
ngân hàng trung ơng cho các ngân hàng, trong quan hệ giữa các ngân hàng với
nhau trên thị trờng liên ngân hàng, trong quan hệ giữa ngân hàng với doanh
nghiệp và công chúng trong việc huy động tiền gửi và trong việc cho vay. Lãi
suất tín dụng ngân hàng bao gồm :
- Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức lã suất tái cấp vốn đợc áp dụng khi
ngân hàng nhà nớc tái chiết khấu thơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác cho các tổ chức tín dụng.
- Lãi suất cơ bản : là lãi suất do ngân hàng nhà nớc công bố làm cơ sơ cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình.
5
- Lãi suất liên ngân hàng : là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trờng liên ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu : là lãi suất đợc áp dụng khi các tổ chức tín dụng
thực hiện việc mua lại thơng phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của ngời thụ
hởng trớc khi đến hạn thanh toán.
- Lãi suất tiền gửi: là lãi suất đợc trả cho các khoản vay tiền gửi và đợc
quy địng nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, vào qui mô gửi tiền.
- Lãi suất tiền vay : là lãi suất mà ngời đi vay phải trả cho ngân hàng ,lãi

suất tiền vay theo nguyên tắc phải cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân và có sự
phân biệt giữa các khoản vay với các thời hạn khác nhau cũng nh mức rủi
rokhác nhau.
* Lãi suát tín dụng thơng mại : là lãi suất đợc tính bao hàm trong tổng giá
cả hàng hoá bán chịu, đợc áp dụng khi cá doanh nghiệp cho nhau vay dới hình
thức mua bán chịu hàng hoá.
* Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho ngời lao
động vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng
tiêu dùng thờng cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng nhà n-
ớc.
Các loại lãi suất trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuỳ theo mục
tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ NHNN có phuowng pháp tác động
đến lãi suất dới nhiều hình thức khác nhau. Bằng cách tác động trực tiếp
NHNN tác động trực tiếp đến lãi suất bằng cáhc quy đinh các mức lãi suất
cụ thể hoặc thông qua các công cụ gian tiếp tác động đến lãi suất. Với cách
quản lý lãi suất gián tiếp đòi hỏi phải biết đợc mối liên kết giữa cac loại lãi
suất, dể có thể thông qua lãi suất này để tác động đén các loại lãi suất khác.
ví dụ nh khi nhà nớc muốn hạ thấp mức lãi suất trên thị trờng mà không cần
tác động trực tiếp vào chúng thì nhà nớc có thể hạ mức lãi suất tái cấp vốn
xuống tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng vay nhiều hơn tăng lợng tiền
cung ứng trong lu thông. Lợng tiền cung ứng cho vay không bị khan hiếm sẽ
khiến cho các TCTD giảm lãi suất huy động đồng thời lãi suất cho vay cũng
không bị đẩy lên cao.
3.Các nhân tố ảnh hởng đến lãi suất
Lãi suất là một loại giá cả vì vậy cũng nh những loại hàng hoá khác lãi suất
chịu ảnh hởng lớn của cơ chế cung cầu. Nhng lãi suất không phải là một loại
6
giá cả thông thờng vì vậy khi xem xét những biến đổi của lãi suất các nhà
chuyên môn thờng dựa vào lý thuyết quỹ cho vay. Lý thuyết quỹ cho vay cho
rằng : trong lãi suất đã hàm chứa một mâu thuẫn giữa ngời đi vay và ngời cho

vay. Ngời đi vay coi lãi suất nh khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm
thời tiền vốn của ngời khác nên ngời đi vay muốn lãi suất càng thấp càng tốt,
ngợc lại, lãi suất lại là giá cả khoản tiền mà ngời cho vay đòi hỏi khi tạm thời
trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho ngời khác nên muốn lãi suất càng
cao càng tốt. Bởi vậy, lãi suất cũng chịu ảnh hởng hoạt động của cơ chế cung
cầu.
* Cầu quỹ cho vay : cầu quỹ cho vay bao gồm nhiều thành phần và bắt
nguồn từ tất cả các khu vực của nền kinh tế, trong đó mọi khu vực có nhu cầu
về quỹ cho vay xuất phát từ các động lực khác nhau :
- Cầu của doanh nghiệp : khu vực doanh nghiệp là khách hàng chính tạo nên
cầu quỹ cho vay . Những nhu cầu về quỹ cho vay của doanh nghiệp chủ yếu
xuất phát từ nhu cầu đầu t mua sắm các tài sản thực nh nhà máy, thiết bị và
hàng tồn kho.
- Cầu của chính quyền : khu xực chủ yếu khác liên quan đến cầu quỹ cho vay
trong các thị trờng tài chính là chính quyền địa phơng và trung ơng. Nhu cầu về
quỹ cho vay của cơ quan địa phơng chủ yếu phát sinh vào việc xây dựng tiện
ích cho giáo dục và những dịch vụ công quyền khác, nhu cầu này đợc quyết
định trớc hết do tỷ lệ gia tăng dân số, các thay đổi về vị trí địa d, sự tăng tuổi
thọ dân số... Nhu cầu về quỹ cho vay của chính phủ phát sinh chủ yếu từ chính
sách tài chính quốc gia (thu nhập và chi tiêu Ngân sách quốc gia ).
- Cầu của ngời tiêu dùng : chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình cần tiền để mua
sắm hàng tiêu dùng, trong đó hàng tiêu dùng lâu bền nh xe hơi, nhà ở rất xa xỉ,
rất nhạy bén với sự thay đổi của lãi suất, còn những mặt hàng thiết yếu phẩm
nh thực phẩm, quần áo và chi phí về y tế... thì phần lớn không nhạy cảm với lãi
suất.
Trong các yếu tố của cầu quỹ cho vay, cầu của doanh nghiệp và cầu của
chính quyền là nguồn nhu cầu ròng chủ yếu của quỹ cho vay (trong đó, cầu
quỹ cho vay của chính quyền ít khi bị tác động bởi lãi suất ).
* Cung quỹ cho vay : cung quỹ cho vay phản ánh khối lợng quỹ có thể
cung cấp cho vay bao gồm khối lợng tiết kiệm và lợng tiền mới đợc tạo ra.

- Tiết kiệm :
7
+ Tiết kiệm của cá nhân, hộ gia đình : đây là thành phần cung cấp nguồn tiết
kiệm chủ yếu, phụ thuộc vào thu nhập hiện có, dự tính trong tơng lai, việc dự
trù của cải cá nhân nắm giữ, mức lãi xuất, dự tính về tỷ lệ lạm phát trong tơng
lai và các biến số khác.
+ Tiết kiệm của các doanh ghiệp : Các doanh nghiệp cũng tập trung tiết kiệm
trong đó củ yếu bằng hình thức lợi nhuận tích luỹ và khấu hao.
+ Nguồn thặng d ngân sách Nhà Nớc.
+ Dòng tiết kiệm nớc ngoài : khi các thị trờng tài chính trở thành toàn cầu hoá
và nhu cầu về tích luỹ trong nớc vợt quá cung quỹ trong nớc thì các chu chuyển
tiền vào từ nớc ngoài trở nên rất quan trọng. Các chu chuyển tiền này đến từ
những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao và lãi suất tơng đối thấp. Ngoài ra, tỷ giá
hối đoái cũng có thể tác động mạnh mẽ lên các dòng tiết kiệm nớc ngoài.
* Một ngồn bổ sung vào quỹ cho vay là việc cung ứng tiền. Khối lợng của nó
chịu tác động bởi khả năng tạo bút tệ của các ngân hàng thơng mại và việc phát
hành tiền mặt của ngân hàng trung ơng.
Trong các yếu tố của cung quỹ cho vay, tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình
là nguồn cung cấp quỹ chủ yếu, và tỷ lệ tiết kiệm của ngân sách hầu nh không
phụ thuộc vào mức lãi suất. Theo lý thuyết quỹ cho vay lợng cầu quỹ cho vay
có mối tơng quan nghịch đảo với lãi suất và lợng quỹ cho vay có quan hệ thuận
chiều ứng với sự thay đổi của lãi suất.
Khi lợng cung cầu trái khoán cân bằng thì lãi suất cân bằng. Đây là một vị
trí mà thị trờng sẽ ổn định. Nh vậy, lãi suất cân bằng là lãi suất mà thị trờng
luôn hớng tới. Song mức cân bằng không cố định, nó thay đổi khi có nhân tố
làm thay đổi lợng cầu và lợng cung quỹ cho vay trên thị trờng.
Nh vậy, có thể nói các nhân tố tác động đến lợng cung, cầu quỹ cho vay
chính là các nhân tố ảnh hởng đến sự hình thành lãi suất. Hiểu đợc các nhân
tố này ta sẽ nhận thức đợc rõ hơn những biến động của lãi suất qua từng thời
kỳ, tại sao lại có sự thay đổi thờng xuyên về cơ chế lãi suất trong chính sách

tiền tệ của ngân hàng nhà nớc và những điều chỉnh ấy có tác động ngợc trở
lại thế nào đối với nền kinh tế. Chính vì vậy đây là phần không thể thiếu
trong quá trình tìm hiểu về thực trạng cơ chế lãi suất của nớc ta.
Các nhân tố ảnh hởng đó bao gồm :
a) Lạm phát dự tính.
8
Lạm phát là kẻ thù của lãi suất, có nhiều cách hiểu khác nhau về lạm
phát. Lạm phát đợc hiểu là tình trạng giá cả của mọi mặt hành tăng lên so với
một thời điểm bất kỳ trớc đó hay lạm phát là tình trạng mất giá của đồng tiền
hay cũng có hiểu lạm phát là sự giảm giá trị hay sức trao đổi thành hàng hoá
của đồng tiền.
Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế là nó làm thay đổi
lãi suất. Với lãi suất cho trớc, khi lạm dự tính tăng lên chi phí thực của tiền vay
giảm do đó lợng cầu quỹ cho vay tăng. Đồng thời khi lạm phát dự tính tăng có
nghĩa là giá cả hành hoá tăng, sẽ làm sụt giảm lợi tức thực tính của việc cho
vay do đó lợng cung quỹ cho vay sẽ giảm xuống. Việc thay đổi lợng cung cầu
quỹ cho vay sẽ dẫn đến sự thay đổi lãi suất cân bằng. Có nghĩa là khi lạm phát
dự tính tăng, lãi suất tăng.
b) Sự phát triển của nền kinh tế .
Khi nền kinh tế phát triển tạo ra nhiều cơ hội cho các công ty đầu t sinh lợi,
vì vậy số lợng cầu quỹ cho vay sẽ tăng lên. Kinh tế phát triển thu nhập và của
cải tăng, lợng cung quỹ cho vay cũng tăng lên. Ngựoc lại khi nền kinh tế kém
phát triển sự tác động sẽ ngợc trở lại với lợng cung và lợng cầu quỹ cho vay.
c) Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế .
Lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận bình quân, do đó tỷ suất lợi tức ( lãi
suất ) cũng phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân. Giới hạn tối đa của lãi
suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Lãi suất không có giới hạn tối thiểu nhng
phải lớn hơn 0. Ttong giới hạn đó lãi suất lên xuống phụ thuộc vào cung cầu
cho vay. Nh vậy, bất kỳ chính sách lãi suất trong thời điểm nào cũng không đ-
ợc để lãi suất vựot quá giới hạn của tỷ suất lợi nhuận bình quân, chính sách lãi

suất
d) Thời giá rủi ro và các tính lỏng của tài sản tài chính.
Thời giá của các tài sản tài chính là giá cả hiện thời của tài sản tài chính trên
thị trờng. Do đó thời giá cũng phụ thuộc vào lợng cung cầu tài sản tài chính.
Thời giá và lãi suất có một mối tơng quan nghịch đảo. Bởi vì khi lợng cầu tài
sản tài chính tăng có nghĩa là lợng cung quỹ cho vay tăng, lựong cung tài sản
tài chính giảm, có nghĩa là lợng cầu qũy cho vay giảm. Do vậy lãi suất sẽ giảm.
- Rủi ro : Nếu giá cả của tài sản tài chính không ổn định sẽ làm loại tài sản
này kém hấp dẫn dẫn đến lợng cầu tài sản tài chính giảm do đó cung quỹ cho
vay giảm, lãi suất tăng. Nếu giá của tài tài chính ổn định hơn ngợc lại sẽ làm
tăng lợng cầu dẫn đến tăng quỹ cho vay, lãi suất giảm.
9
- Tính lỏng : đợc quy định bởi hai yếu tố : khả năng hoán chuyển ra tiền mặt,
chi phí quản lí và hoán chuyển ra tiền mặt ( chi phí bảo quản, chi phí môi giới,
chi phí lãi suất, chi phí thanh toán ). Một tài sản có tính lỏng cao là một tài sản
tài chính có thể chuyển đổi sang tiền mặt một cách nhanh chóng với chi phí
quản lí và hoán chuyển thấp
Tính lỏng tài sản tài chính cao thì lợng cầu tài sản tài chính tăng, lợng
cung quỹ cho vay tăng theo làm lãi suất cân bằng giảm xuống ngợc lại tính
lỏng tài sản tài chính iảm sẽ làm cho lãi suất tăng.
Các nhân tố trên nh chúng ta đã khẳng định có ảnh hởng lớn đến
quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế và từ đó có ảnh hởng lớn đến lãi
suất. Vì vậy, khi xây dựng một chính sách lãi suất bất kỳ, dù là chính sách
điều chỉh trực tiếp, thả nổi có sự quản lý hay thả nổi hoàn toàn...cũng đòi hỉ
nhà nớc cần phải xem xét kỹ lỡng đến các nhân tố ảnh hởng trên để ra một
chính sách phù hợp nhất. Trớc tiên cần chú ý đến chính sách lãi suất và sự
phát triển của nền kinh tế, vì suy cho cùng mục tiêu cuối cùng của chính sách
lãi suất cũng chính là nó. Nền kinh tế có phát triển hay không đều ảnh hởng
đến luợng cung cầu vốn và từ dó ảnh hởng đến lãi suất. Vì vậy, khi xây dựng
chính sách lãi suất cần phải tạo điều kiện kích thích, điều tiết hoạt động kinh

tế phát triển và một chính sách kinh tế có hiệu quả. Khi có một chính sáh lãi
suất phù hợp sẽ có khả năng điều tiết một cáhc tự nhiên lợng vốn lu thông từ
nơi thừa đến nơi thiếu, từ ngời có vốn sang ngời cần vốn sử dụng vào các dự
án đầu t, sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế - xã hội. Một chính sách
lãi suất không phù hợp sẽ gây bất lợi cho sự phát triển của nền kinh tế. Mức
lãi suất sẽ làm cho ngời đi vay đánh giá thấp giá trị sử dụng đồng vốn, đầu t
tràn la, kém hiệu quả. Mức lãi suất quá cao sẽ không khuyến khích đợc ngời
vay, làm cho vốn đầu t trở nên ứ đọng, không đầu t đợc vào sản xuất,kinh
doanh.
Một điểm nữa khi xay dựng chính sáhc lãi suất cànphair triệt để tuân
thủ nguyên tắc :
Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỷ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế
lãi suất phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận baình quân
của nền kinh tế. Có nh vậy mới đảm bảo lợi ích cho cả ngời vay, ngời đi vay
đông fthời có tác dụng thúc đẩy sản xuất và kinh donah tiền tệ phát triển. Tỷ
10
lệ lạm phát càng thấp( tức là giá trị trao đổi thành hàng hó của đông tiền
càng cao) và tỷ suất lợi nhuận bình quân càng cao cang tốt cho cả dân c
TCTD, doanh nghiệp và nhà nớc. khi xây dựng chính sách lãi suất chỉ nên
cho phép lãi suất vận động trong giới hạn trên và phải căn cứ vào hai yếu tố
này cngf với quy luật cung cầu của nền kinh tế dể tăng giảm lãi suất một cáh
hợp lý.
Cuối cùng, muốn có một chính sách lãi suất phát triển lành mạnh và hợp
quy luật nhà nớc phải biết kết hợp đông fbộ giữua chính sách lãi suất và các
chính sách kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là thị trờng tài chính : hạn chế rủi
ro của tài sản tài chính, tăng tính lỏng của chúng, tạo điều kiện để luồng vốn
luân chuyển an toàn, có hiệu quả và lành mạnh.
II . Khái niệm và vai trò của cơ chế lãi suất .
1. Khái niệm cơ chế lãi suất .

Lãi suất là giá cả của vốn, vậy cần phải hiểu cơ chế lãi suất nh thế nào
Không thể định nghĩa một cách vội vàng thế nào là cơ chế lãi suất bởi vì lãi
suất khi đã đợc coi là giá cả của vốn thì đơng nnhiên nó trở thành một bộ
phận của thị trờng, một bộ phận của nền kinh tế. Không những thế còn là
một bộ phận quan trọng vì nó không chỉ ảnh hởng ở tầm vi mô mà còn liên
quan đến tầm vĩ mô. Vì vậy, khi xem xét thế nào là cơ chế lãi suất chúng ta
phải nhìn nhận chúng trong tổng thể cơ chế kinh tế, cụ thể ở đây là cơ chế thị
trờng.
Cơ chế là một khái niệm dùng để chỉ quy luật vận hành của một hệ
thống. Bất kỳ một sự vật, hiện tợng, quá trình kinh tế xã hội trong tự nhiên,
trong xã hội và t duy cũng có thể đợc hình dung là một hệ thống cấu thành từ
các yếu tố có xu hớng trái ngợc nhau nhng làm tiền đề cho nhau tồn tại.
Chính sự tác động giữa hai nhân tố này là nguyên nhân, nguồn gốc, động lực
cho sự vận hành hệ thống.
Vậy cơ chế là khái niệm dùng để chỉ sự tơng tác giữa các yếu tố cấu thành
hệ thống mà nhờ đó hệ thống có thể hoạt động. Ngời ta thờng nói, lợi ích
kinh tế là cơ chế tác động của các quy luật kinh tế, cạnh tranh là cơ chế vận
động của thị trờng, lại nói cơ chế thị trờng là là cơ chế của kinh tế hàng
hoá...
11
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ chế kinh tế là tổng thể các yếu tố có mối liên hệ
tác động qua lại ràng buộc lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế
phát triển. cơ chế kinh tế mang tính khách quan vốn có của nền kinh tế.
Cơ chế kinh tế đợc xem xét với những cấp độ khác nhau : cơ chế kinh tế
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thuộc cấp độ này là cơ chế chung điều tiết
toàn bộ các hoạt động trong nền kinh tế nh: cơ chế tự cấp, tự túc, cơ chế kế
hoách hoá tập trung, cơ chế thị trờng ... Cơ chế kinh tế điều tiết riêng từng bộ
phận, từng yếu tố, từng lĩnh vực của nền kinh tế nh : cơ chế điều tiết phân
phối thu nhập, cơ chế lãi suất, cơ chế cạnh tranh cơ chế cung cầu ...( theo
nguồn báo nhân dân, ngày 2/8/2001)

Tuy nhiên, sự phân biệt cấp độ trên chỉ là tơng đối. Cơ chế kinh nào cũng
quan trọng, một mặt nó mang tính khách quan, mặt khác lại đợc con ngời
nắm lấy để vận hành nền kinh tế, khi ấy thờng gọi là cơ chế vận hành hay
còn gọi là cơ chế quản lý một cơ chế quản lý đúng là sự thống nhất giữa nhân
tố khách quan và chủ quan, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển, ngợc lại,
nếu cơ chế vận hành bất hợp lý sẽ làm thui chột và mất đi động lực phát triển
kinh tế.
Hiểu một cách cụ thể hơn, cơ chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ
phơng thức mà qua đó chính phủ ( nhà nớc ) tác động vào nền kinh tế để định
hớng nền kinh tế tự vận động đến các mục tiêu đã định. Có thể nói cơ chế
quản lý kinh tế là một hệ thống bao gồm : các mục tiêu quản lý kinh tế, các
công cụ quản lý kinh tế và cơ chế kinh tế. Trong đó cơ chế kinh tế đóng vai
trò chính yếu trong các yếu tố bởi cơ chế kinh tế là phơng thức tự vận động
của nền kinh tế , là biểu tuợng của nhân tố khách quan. Nhà nớc chỉ có thể
dùng những phơng thức tác động của mình, dựa trên những quy luật vận động
của neenf kinh tế để sử dụng chính cơ chế lãi suất định huớng nền kinh tế.
Nếu để tự nềnkinh tế tự thân vận động thì cuối cùng nền kinh tế ấy cũng vận
động đến các mục tiêu tăng trởng ổn định, công bằng và hiệu quả. Nhng nếu
có sự can thiệp hợp lý của nhà nớc có thể rút ngắn đợc chặng đờng.
Nh vậy, có thể hiểu rằng cơ chế lãi suất chính là cơ chế kinh tế, điều chỉnh
lĩnh vực lãi suất tín dụng. Nhà nớc tác động vào cơ chế lãi suất thông cá
công cụ quản lý kinh tế nhằm đạt đợc những mục tiêu đã đề tạo thành cơ chế
quản lý lãi suất.
12
Thực tế đã chúng minh rằng, nền kinh tế bên cạnh khả năng tập hợp tự động
đợc hành động trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con ngời hớng tới lợi ích
chung của toàn xã hội, đó là thúc đẩy tăng trởng kinh tế, tăng năng suất lao
động và tăng hiệu quả sản xuất . Nhng nền kinh tế thị trờng không phải là
một hệ thống đợc tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng
nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải, vì vậy để khắc phục, hạn chế nhũng

tác động tiêu cực của cơ chế thị trờng cần thiết phải có sự can thiệp của
chính phủ vào nền kinh tế. Sự can thiệp của nhà nớc một mặt mhằm địmh h-
ớng thị trờng phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, mặt
khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị tr-
ờng, tạo những công cụ quan trọng điều tiết thị trờng ở tầm vĩ mô mà không
vi phạm cơ chế tự điều chỉnh ở tầm vi mô. Bằng cách đó nhà nớc kiềm chế
sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị truờng, đồng
thời phát huy đợc những u thế vốn có của kinh tế thị trờng.
Việt Nam từ khi nhuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trờng nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, trong đó
có cả lĩnh vực tín dụng. Tù việc bao cấp qua giá nhà nớc đã dần từng bớc nới
lỏng chính sách tín dụng tuân theo sự vận động của cơ chế thị trờng nhng vẫn
có sự can thiệp của nhà nớc . Thực trạng cơ chế lãi suất Việt Nam trong thời
gian qua vì vậy chính là thực trạng của cơ chế quản lý lãi suất tín dụng của
Việt Nam. Tuỳ theo từng thời kỳ mà sự ác đọng của nhà nứoc vào cơ chế lãi
suất là chặt hay lỏng. Tuy nhiên, trong thời gian hơn 10 năm nhà nứoc luôn
dùng cơ chế kieemr soát trực tiếp lãi suất làm ảnh hởng lớn đến cơ chế tự
điều chỉnh của lãi suất ở tầm vi mô. chỉ mới đây, cơ chế lãi suất mới thực sự
đựoc vận hành theo những quy luật vốn có của nó, nhà nứoc chỉ can thiệp
gián tiếp thông qua những công cụ điều hành của mình, thực sự đa cơ chế lãi
suất Việt Nam chuynẻ sang vận hành theo cơ chế thị trờng.
2. Vai trò của cơ chế lãi suất trong nền kinh tế thị trờng .
a) Cơ chế lãi suất đóng vai trò định hớng cho việc hình thành giá cả sử dụng
vốn trong hoạt động tín dụng, kinh doanh tiền tệ. thông qua cơ chế lãi suất các
tổ chức tín dụng ấn định đợc mức lãi suất kinh doanh của mình. Từ đó, dung
hoà một cách tự nhiên lợi ích của ngời gửi tiền, ngời vay vốn và các tổ chức tín
dụng. Cơ chế lãi suất đóng vai trò nh ngời dẫn đờng cho các hoạt động kinh
doanh tiền tệ, mức giá cả của vốn phải xoay quanh cơ chế lãi suất hiện hành.
13
Chính sách lãi suất của Việt Nam từ khi chuyển từ cơ chế tập trung

quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng vẫn là chính sách điều chỉnh trực
tiếp. Có nghĩa là nhà nớc trực tiếp quy định các mức lãi suất hoặc quy định
mức khống chế đối với lãi suất, trực tiếp can thiệp vào giá cả tín dụng. Giai
đoạn 1989-1990 : lãi suất đợc ấn định cụ thể theo kỳ hạn nghành nghề và
khu vực kinh doanh, các TCTD buộc phải chấp hành thụ động các mức lãi
suất do NHNN quy định . Khi chuyển sang cơ chế lãi suất thực dơng từ năm
1992 dến năm1996 NHNN không quy định cụ thể các mức lãi suất mà áp
dụng trần lãi suất tín dụng ngắn hạn, dài hạn và lãi suất cho vay thoả thuận.
Lãi suất tiền gửi vẫn đợc quy định cụ thể. Các TCTD đã tự do hơn trong việc
quyết định mức lãi suất kinh doanh nhng vẫn phải căn cứ vào trần lãi suất
cho vay và các mức lãi suất tiền gửi để ấn định đựoc mức lãi suất kinh doanh
của mình. Năm 1996 NHNN xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thận, xoá bỏ việc
quy định cụ thể lãi suất tiền gửi , áp dụng lãi suát chênh lệch đầu vào, đầu
ra. Năm 1998 tự do hoá hoàn toàn lãi suất đầu vào, xoá bỏ chênh lệch lãi
suất đầu ra. Năm 2000 thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên độ
giao động. Lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấnđịnh lãi suất kinh
doanh của mình. Trong suốt một thời gian dài có thể thấy chính sách lãi suất
luôn có những sự thay đổi theo hớng để cho các TCTD chủ động hơn trong
việc ấn định lãi suất kinh doanh của mình, nhng dù ở cơ chế lãi suất nào,
TCTD vẫn phải căn cứ vào sự chỉ đạo của NHNN. Mức giá cả của vốn vẫn
luôn phải xoay quanh cơ chế lãi suất hiện hành. Thực hiện chính sách điều
chỉnh lãi suất trực tiếp cũng có nhiều bất cập nhng phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, cách thức tự do hoá lãi xuất dới hình thức
tiệm tiến đã tạo cho nền kinh tế tài chính tiền tệ Việt Nam một sự ổn định cần
thiết dể tiến tới tự do hoá lãi suất, đồng thời cũng vẫn đảm bảo đợc lợi ích
của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Ngày 30/5/2002 cơ chế lãi suất
thoả thuận chính thức ra đời nhng lãi suất cơ bản vẫn đợc khẳng định vị trí
của nó là lãi suất định hớng thị trờng, định hớng cho hoạt động kinh doanh
của cá TCTD, các chủ thể đi vay có thể căn cứ vào lãi suất cơ bản để chủ
đọng hơn trong việc thoả thuận lãi suát với các TCTD, bảo đảm lợi ích của

mình
b) Trong thời gian từ 1989 đến nay cơ chế lãi suất đóng một vai trò to lớn
trong việc ổn định tình hình lạm phát ở nớc ta :
14
Việt nam trớc cải cách kinh tế (1880 - 1881) lạm phát đợc coi là lạm phát
ngầm.Sau đó bộc phát công khai thành lạm phát phi mã tới mức ba con số. Cơ
chế lãi suất thực âm đợc nhà nớc thực thi trong suốt thời gian này đã làm cho
lạm phát càng trở lên nghiêm trọng. Năm 1989 lạm phát đã giảm xuống đó là
kết quả tổng hợp của nhiều chủ trơng và biện pháp trong đó cơ chế lãi suất đợc
sử dụng một cách tích cực.Việc thay đổi căn bản chính sách vào đầu năm 1989,
thực hiện cơ chế lãi suất thực dong đã chặn đứng lạm phát 1989.
Năm 1990 -1991 tái lạm phát lại diễn ra cộng thêmvới cơn sốt vàng đô
la . Nhà nớc đã có chỉ đạo liên quyết , thực hiện một cách triệt đẻ cơ chế lãi
suất thực dong làm giảm lạm phát .
Năm 1996 nền kinh tế nớc ta lại rơi vào tình trạng thiểu phát khiến ngân
hàng tiếp tục phải hạ trần lãi suất để phần nào đáp ứng đợc diễn biến và thay
đổi giá.
Nh vậy , có thể thấy rằng lạm phát ở nền kinh tế nớc ra thực sự rất phức
tạp, lúc đạt tới mức phi mã, lúc lại rơi vào tình trạng thiểu phát, cơ chế lãi suất
thích hợp trong từng thời kỳ thực sự đã đóng vai trò quan trọng góp phần ổn
định lạm phát, thúc đẩy phát triển kinh tế.
c) Cơ chế lãi suất đóng vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ đầu thập niên
90 cho đến nay cùng với việc đổi mới toàn diện chính sách lãi suất đã ngày
càng khuyến khích đầu t và xuất khẩu, kéo theo sự gia tăng GDP, tốc độ tăng
trởng kinh tế ổn định điều đó chứng tỏ rằng cơ chế lãi suất là công cụ tác động
nhạy bến đối với hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn, mở rộng đầu t trong
nớc cũng nh nớc ngoài đối với mọi thành phần kinh tế góp phần làm giảm nhập
siêu, tạo sự phát triển nhanh cho nền kinh tế.
Với chính sách đổi mới của nhà nớc, đặc biệt là việc khống chế lợng tiền
cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất ... đã thúc đẩy sự cải thiện

nền kinh tế Việt Nam những năm đầu đổi mới theo huớng phục hồi và phát
triển. Năm 1992 lạm phát giảm 67,6%- 14,5%/năm. nền kinh tế tăng trửong
6% năm 1991 tăng lên 8,6%năm 1992, lạm phát đạt ở mức thấp 5,2%. Năm
1994tốc độ phát triển của nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trởng cao8,8%.kim
ngạch xuất khẩu tăng 2%, mức đầu t tăng 30%. Năm 1995 tăng trởng kinh tế
9,5%. Những năm gần đây, trong khi nền kinh tế thế giới gặp nhiều biến
động, nhất là sự biến động mạnh trên thị trờng vốn, nhng nền kinh tế Việt
Nam vẫn đứng vững trứoc khó khăn, giữ đựoc nền kinh tế phát triển ổn định
15
với mức tăng trởng khá. Nh vậy, từ đầu thập kỷ 90 cho đến nay cùng với việc
đổi mới và hoàn thiện chính sách lãi suất đã ngày càng khuyến khích đầu t và
xuất khẩu, kéo theo sự gia tăng GDP, tốc độ tăng trởng kinh tế ngày càng
cao. Điều dố chứng tỏ rằng chính sách lãi suất là công cụ tác động nahỵ bén
với hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn trong nền kinh tế nớc ta. Mở rộng
đầu t trong nớc cũng nh nớc ngoài đối với mọi thành phần kinh tế góp phần
làm giảm nhâợ siêu, tạo sự tăng trởng nahnh chóng trong nền kinh tế.
d) Cơ chế lãi suất đóng vai trò khuyến khích tín dụng tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế tăng đầu t, mở rộng sản xuất. Với cơ chế lãi suất ngày càng
đổi mới,các thành phần kinh tế ngày càng bình đẳng trong hoạt động kinh tế.
Cơ chế lãi suất có sự u đãi đã thực sự tạo ra việc làm đáng kể, khắc phục tình
trạng đói nghèo trong nông nghiệp và nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông
nghiệp và nông thôn.
Minh chứng cụ thể cho vai trò của lãi suất trong việc thúc đẩy , khuyến
khích tín dụng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triểnthể hiện thông
qua nguồn vốn hoạt động của ngân hàgn những năm đầu đổi mới tăng lên
liên tục với tỷ lệ cao. Năm 1991 tăng 6,8%, năm 1994:59%, năm
1995:32%... nguồn vón trong nứoc tăng cùng với nguồn vốn tăng từ nớc
ngoài là điều kiện cơ bản để tăng đầu t trong nền kinh tế nớc ta. Vốn đợc đầu
t cho các ngành kinh tế mũi nhọn ( công nghiệp nhẹ, năng lợng, dầu khí, giao
thông vận tải...) tạo điều kiện cho công nghiệp hoá- hiện đại hoánhững nam

tiếp theo nguồn vốn huy động tiếp tục tăng mạnh riêng năm 1995 và nửa đầu
năm 1996 hệ thống ngân hàng thơng mại đã huy động đợc 8000tỷ đồng :tăng
15,2%. tín dụng đầu t cho các ngành kinh tế đều tăng : nông ghiệp tăng
13,3%, công nghiệp tăng 15,6%, xây dựng tăng 10%. Năm 2002 chỉ riêng
ĐBSCL trong 6 tháng đầu năm đã huy động đợc 5650tỷ đồng, tăng 29,6% so
cùng kỳ.Nh vậy có thể thấy chính sách lãi suất tín dụng đã tạo điều kiện cho
các dơn vị kinh tế tăng đầu t, mở rộng sản xuất với chính sách lãi suất hiện
nay, khi nhà nớc đã chuyển đổi hẳn sang cơ chế lãi suất thoả thuận, các
doanh nghiệp càng có điều kiện để phát huy năng lực của mình trong sản
xuất và kinh doanh,xoá bỏ những bất bình đẳng tồn tại lâunay trên lĩnh vực
vốn. Nếu nh năm 1991, tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp quốc doanh chiếm
tới 90% tổng d nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng thì đến năm
16
1999 con số này chỉ còn khoảng 48%. Trong tỷ trọng cho vay các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tng từ 10% năm 1991 lên 52% vào năm 1999.
Không chỉ khuyến khích các ngành sản xuất phát triểnchính sách lãi
suất còn đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp và phát triển nông thôn, phục
vụm cho quá trình xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho gần 80%
dân số sống ở nông thôn. Chính sách lãi suất luôn giành sự u đãi cho khu
vực nông thôn, giảm tỷ lệ phần trăm lãi suất co vay so với tỷ lệ cho vay trung
bình của nền kinh tế. Ngân hàng ngời nghèo đến nay đã có thời gian đi vào
hoạt động đựoc hơn 7 năm,đã góp phần giúp nhiều hộ dân thoát khỏi cảnh
đói nghèo. NHNN& PTNT trong thời gian hoạt đọng ngày càng có những
đóng gpó tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.
qua 10 năm triển khai hoạt động tín dụng đối với hộ nông dân của
NHNN&PTNT đã tăng trởng liên tục mạnh mẽ : doanh số cho vay chỉ trong
6 tháng đàu năm 2002 so với cả năm 1991 tăng 63 lần ( 23.427.076 triệu
đồng/369.700 triệu đồng). Nếu tính cả trên hai triệu hộ nông dân nghèo có d
nợ tại ngân hàng phục vụ ngời nghèo ( cũng do NHNN& PTNT giải ngân) và
1 triệu hộ nông dân có d nợ tại các TCTD khác thì có trên 8 triệu hộ nông

dân tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng, chiếm 70% số hộ nông dân ở Việt
Nam( 8triệu hộ trên 12 triệu). Chính sách lãi suất trong thời gian qua đã góp
phần đa Việt Nam thực hiện cơ chế thị truờng một cách có hiệu quả, đa đất
nuớc ngày càng đi lên hội nhấp với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
e) Cơ chế lãi suất đóng vai trò quan trọng là công cụ điều hành chính sách tiền
tệ. Thông qua cơ chế lãi suất ngân hàng nhà nớc tác động vào thị trờng tiền tệ
làm thúc đẩy hay thu hẹp tín dụng và tổng các phơng tiện thanh toán, giữ mức
giá tơng quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, đảm bảo ổn định giá
cả. Từ đó làm thúc đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc.
Lấy ví dụ nh năm 1998, khi khu vự tiền tệ ngân hàgn phải đối mặt với
những hệ quả nghiêm trọng của khủng hoảng Châu á, áp lực giảm giá VND
xuất hiện không chỉ bắt nguồn từ các hoạt động hữu hình, cụ thể là tình trạng
xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại ( năm 1997, giá trị kim ngạch
xuất khẩu chie tăng 22% so với mức tng 4,4% năm 1995 và 33,2% năm 1996,
mà hiệu ứng tâm lý lan truyền về sự phá giá của đồng Việt Nam tiếp theo làn
sóng phá giá mạnh của hầu hết các đồng tiền Châu á đã gây ra những bất ổn
trên thị trờng ngoại hối. Công cụ tỷ giá đã đợc sử dụng bằng cáhc nới rộng tỷ
17
giá nhng áp lực dờng nh lại có xu hớng tăng lên. tỷ giá liên ngân hàng luôn ở
mức trần cho phép và tỷ giá thị trờng tự do còn biến động cao hơnmức trần
tới gần 9%ngày 23/10/1997 và tới 15%vào giữa tháng 12 năm 1997. Trớc
tình hình trên, NHNN phải sử dụng đến sự tác động của cơ chế lãi suất. Cụ
thể : tăng trần lãi suất tín dụng từ 1,1%lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn
hạn và từ 1,2% lên 1,25%/tháng đối với tín dụng lãi suất dài hạn. Nâng lãi
suất tái cấp vốn của NHNN cho các TCTD từ 0,9%/tháng lên 1,1%/tháng
theo quyết định số 40/1998/QĐ ngày 17/1/1998. Giảm lãi suất cho vay ngoại
tệ theo quyết định 309/1998/QĐ-NHNN ngày 10/9/1998. Theo quyết định
này trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ áp dụng đối với loại hình không kỳ hạn, kỳ
hạn 6 tháng và trên 6 tháng giảm xuống các mức tơng ứng là 0,5%/năm và
3%/năm và 3,5%/ năm. Trớc những cố gắng của NHNN thông qua công cụ

là cơ chế lãi suất, VND đã lên giá, kéo Việt nam thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế đợc coi là rất nghiêm trọng trong thập kỷ 90. Công cụ lãi suất
đã thực hiện thành công vai trò của mình , nền kinh tế tiếp tục đợc giữ ở
trạng thái ổn định.
CHƯƠNG II
Thực trạng cơ chế l i suất ở việt nam ã
Lãi suất là một trong những công cụ rất quan trọng của chính sách tiền tệ quốc
gia. Tuỳ theo nhịp độ phát triển của nền kinh tế, mức độ ổn định của tiền tệ
mỗi nớc để có nội dung, phơng pháp điều hành và quản lý lãi suất ở mức độ
khác nhau. Đối với nớc ta, đến nay đã tiến một bớc dài quan trọng trong cơ chế
điều hành và quản lý lãi suất. Bớc tiến của việc điều hành công cụ lãi suất nh
hiện nay đã thể hiện một bớc tiến của nền kinh tế trong việc chuyển mình từ
cách quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế
thị trờng có sự quản lý vĩ mô của nhà nớc.
Sự kiện này đợc bắt đầu từ khi có nghị định 53/ HĐBT ngày 26/ 03/ 1988
và tiếp đến là hai pháp lệnh về ngân hàng 10/ 1989 từ đó ngành ngân hàng đã
trải qua hơn 10 năm đổi mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không
18
ngừng đổi mới chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nớc, theo từng
bớc tiến dần đến lãi suất thị trờng khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Sau
đây xin điểm qua các bớc đổi mới chính sách lãi suất theo giai đoạn để chúng
ta có thể hình dung một cách rõ nét nhất các bớc đi trong lộ trình đổi mới cơ
chế lãi suất của chúng ta trong thời gian qua và từ đó có thể định hớng một
chính sách lãi suất mới phù hợp hơn trong giai đoạn mới
Quá trình chuyển biến cơ chế lãi suất trong thời gian qua
I . Cơ chế lãi suất âm .
Trớc năm 1988, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam là một hệ thống ngân hàng
một cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nớc. Hoạt động chủ
yếu của hệ thống ngân hàng này là nhận vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp
quan hệ của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng hết sức

hạn chế. Khi ngân sách nhà nớc thâm hụt thì cách làm dễ nhất, và cũng thờng
thấy nhất, là ngân hàng phát hành thêm tiền để bù đắp. Khi các doanh nghiệp
nhà nớc thiếu vốn thì ngân hàng nhà nớc phát hành thêm tiền để cho vay tín
dụng. Lãi suất không đợc coi trọng trong giai đoạn này. Các nhà quản lý coi tín
dụng nh một hình thức bao cấp qua giá. Hậu quả là lạm phát gia tăng với tốc độ
cao và không gì kiểm soát đợc. Lạm phát ngày càng tăng với tốc độ phi mã,
nền kinh tế ngày càng trì trệ báo hiệu những cuộc khủng hoảng kéo dài .
Vì vậy, trong giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1992 chính sách tiền tệ ở nớc
ta đã có nhiều biến chuyển quan trọng nhằm mục tiêu cao nhất là trong một
thời gian ngắn nhất đẩy lùi đợc lạm phát, ổn định lại nền kinh tế. Tháng 3năm
1988, đánh dấu bớc ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt Nam bằng
nghị định 53 và tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân
hàng: ngân hàng Nhà nớc và ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính
hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp thay cho hệ thống ngân hàng một cấp
trớc đây. Các văn bản quy định về lãi suất trong giai đoạn này hình thành cơ
chế lãi suất âm, có nhiều thang nấc, nhiều giá, lãi huy động cao hơn lãi cho
vay, lãi cho vay với các đối tợng khác nhau với mục đích trợ giúp rất khác
nhau.
Quyết định số 25 NH- QĐ ban hành ngày 12 tháng 5 năm 1988 quy
định biểu lãi suất tiền gửi và cho vay nh sau: lãi suất tiền gửi đợc chia thành ba
loại: không kỳ hạn, có kỳ hạn,và của hợp tác xã tín dụng gửi ngân hàng. Lãi
suất tiền vay đợc chia thành bốn loại: cho vay vốn lu động kinh tế quốc doanh
và tập thể; cho vay cố định; cho vay ngắn hạn; cho vay đối với hợp tác xã tín
19
dụng. Trong mỗi mục lại chia nhỏ thành nhiều đối tợng cho vay khác nhau với
các mức lãi suất khác nhau. Ví dụ nh vay vốn lu động đối với kinh tế quốc
doanh và tập thể đợc chia ra thành 8 đối tợng cho vay khác nhau:
- Sản xuất nông- lâm nghiệp- xây lắp.
- Phát hành sách.
- Xí nghiệp đóng tàu biển, cơ khí công nghiệp.

- Kinh doanh lơng thực.
- Sản xuất công nghiệp vận tải, bu điện, bốc xếp.
- Kinh doanh vật t dợc phẩm.
- Kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Kinh doanh thong nghiệp, du lịch, dịch vụ, HTX mua bán, kinh doanh
nhập khẩu, ngoại thơng.
Các loại cho vay khác cũng đợc chia nhỏ thành nhiều đối tợng cho vay tơng tự.
Tiếp sau đó, quyết định số 42/NH-QĐ của tổng giám đốc ngân hàng nhà n-
ớc Việt Nam về lãi suất tiền gửi và cho vay thay thế quyết định số 29 tuy có sự
thay đổi đáng kể trong việc quy định tỷ mỷ các mức lãi suất khác nhau cho
từng đối tợng khác nhau nhng vẫn cha giải quyết thật triệt để nhợc điểm trên.
Có thể thấy, các thành phần kinh tế vẫn còn chịu sự phân biệt đối xử rất lớn,
hoàn toàn không có sự bình đẳng, chịu sự thiệt thòi do t duy bao cấp còn quá
nặng nề, mang tính áp đặt và không sát với thực tế. Việc phân chia các mức lãi
suất một cách qúa cụ thể nh trên thể hiện sự bao cấp qua giá, u đãi một cách
không cần thiết đối với các tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nớc.
Lãi suất là một lĩnh vực nhậy cảm có tác động sâu rộng tới nền kinh tế, nh-
ng trong giai đoạn này vẫn đơc xem nh một biện pháp mang tính hành chính.
Vốn đợc coi là một loại hàng hoá và lãi suất là giá cả của vốn, vì vậy, nó cũng
cần phải tuân thủ theo quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Nhng những gì thể
hiện trong giai đoạn này hoàn toàn không tuân thủ những quy luật trên. Cơ chế
lãi suất âm tồn tại trong suốt giai đoạn này nh một giải pháp tình thế kéo đất n-
ớc ra khỏi cuộc khủng hoảng. Các quyết số 29/NH-QĐ ngày16 tháng 3 năm
1989 và quyết định số 71/NH-QĐ đều đa ra một mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm
rất cao. Điều một của quyết định số 29 quy định nh sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 9%/tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng: 12%/tháng.
Sau đó lãi suất tiền gửi tiết kiệm có giảm nhng vẫn giữ ở mức cao ( QĐ số
71/NH-QĐ):
20

- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 7%/tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: 9%/tháng.
Căn cứ vào lãi suất cho vay theo các biểu lãi suất tiền gửi và cho vay ban hành
kèm theo quyết định số25/NH-QĐ ngày 12 tháng 5 năm 1988 và quyết định số
42/NH-QĐ ngày 15 tháng 4 năm 1989 thì các mức lãi suất tiền gửi đều cao hơn
lãi suất cho vay. Tuy nhiên với mức siêu lạm phát trong giai đoạn này thì lãi
suất tiền gửi vẫn thấp hơn mức lạm phát.
Nh vậy, trong giai đoạn này đã hình thành một cơ chế lãi suất âm với
những đặc điểm nh sau :
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động.
Cơ chế lãi suất âm đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc lấy lại ổn định
nền kinh tế và sự vận hành của nó đã mang lại những kết quả đáng lhích lệ :
Thứ nhất, nó giúp khôi phục và bảo đảm lòng tin của nhân dân vào giá
trị ổn định của đồng tiền mình gửi trong ngân hàng. Động viên thu hút đựoc
một số vốn và tiền mặt vào ngân hàng lớn gấp nhiều lần so với mấy chục năm
trớc đã tích luỹ lại, thể hiện :số d tiền gửi tiết kiệm cuối tháng 6 năm 1990 so
với 31/12/1988 bằng 15,61 lần, số d tiền gửi của các tổ chức kinh tế bàng 1,5
lần. Tổng các khoản tiền gửi tăng nhanh và đến đầu năm 1991 đạt gần 2.300 tỷ
đồng. Nhờ đó các nhu cầu tiêu dùng của xã hội tiết chế giúp cải thiện cơ cấu
cân đối cung cầu trên thị trờng và bổ sung lợng tiền mặt cho chi ngân sách,
giảm khối lợng tiền in bù đắp thâm hụt ngân sách , giúp chính phủ tăng lhả
năng mua và nhập khẩu các hàng hoá cần thiết để điều hoà cung cầu trên thị tr-
ờng, củng cố sức mua đồng tiền, kiềm chế tăng giá cả...
Thứ hai, giúp thủ tiêu tình trạng đầu cơ và tích trữ hàng hoá, nguyên
vật liệu, lơng thực... ( bằng tiền của mình hoặc tiền đi vay với lãi suất thấp hơn
mức lạm phát ) đã tồn tại nhiều năm trớc đó, mà đã gây ra tình trạng thiếu hụt,
khan hiếm giả tạo do cầu lớn hơn cung. Điều này đợc giải thích bởi lợi ích mà
lãi suất cao đem lại cho khoản tiết kiệm khi đó sẽ cao hơn nếu đem số tiền này
dùng vào để đầu cơ tích trữ hàng hoá.

Thứ ba, lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát còn giúp giảm bớt các
nhu cầu tín dụng giả đợc kích thích bởi mức lãi suất thấp hoặc chênh lệch lãi
suất tạo ra, cũng nh giúp cải thiện và làm lành mạnh hoá tình trạng nợ đọng
trong đời sống kinh tế - xã hội.
21
Thứ t, lãi suất tiền gửi tuy rất cao nhng lãi suất cho vay cũng không ở
mức thấp. Lãi suất cho vay cao khiến ngời vay phải cân nhắc cẩn thận hơn các
khoản vay mới, đồng thời tìm cách trả nợ cũ nhanh để tránh lãi mẹ đẻ lãi con
( bằng cách bán hàng ra để trả nợ, dùng tiền vay cho các vụ đầu t với tốc độ thu
hồi vốn nhanh hơn, có hiệu quả hơn )... Nghĩa là lãi suất cao sẽ giúp giảm tổng
cầu, nhất là cầu giả và tăng tổng cung của nền kinh tế, nhất là từ nguồn hàng
hoá vật t có sẵn trong nền kinh tế.
Lãi suất cao đã làm cho nhiều tổ chức sản xuất kinh donah lâu nay
dựa vào các khoản bao cấp của nhà nớc vềgiá vật t, lãi suất tín dụng, bao tiêu
sản phẩm, cứ tởng là mình làm ăn giỏi, nay bộc lộ tình trạng thật về hiệu quả
kinh doanh của xí nghiệp, buộc phải cải thiện tình hình tài chính kỹ thuật nếu
muốn tiếp tục tồn tại.
Lãi suất cao đã góp phần thủ tiêu tình trạng trợ cấp của nhà nớc cho
các doanh nghiệp thông qua hệ thống lãi suất tín dụng thấp trớc đó. Từ đó cho
phép giảm đáng kể nhu cầu vay tín dụng của các doanh nghiệp nhà nứớc cho
các mục đích trục lợi nhờ những khoản trợ cấp tín dụng trớc đây của nhà nớc.
Nhà nớc bớt phải chi những khoản tiền không nhỏ mà hiệu quả không tơng
thích, thậm chí hại nhiều hơn lợi.
Bên cạnh những mặt tích cực do cơ chế lãi suất âm đạt đợc, vẫn tồn
tạ nhiều bất cập:
Lãi suất phân chia nhiều mức, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi
suất cho vay nên đã nẩy sinh tiêu cực, có đơn vị kinh tế vay ngân hàng với lãi
suất u đãi, đem vốn về cho các đơn vị khác vay lại hoặc phân tán cho cán bộ,
công nhân viên đem gửi vào tiết kiệm để hởng chênh lệch lãi. Trong lãi suất
mang phần nào chính sách xã hội nên khó xử lý. Nhu cầu vay vốn phát triển

lên không thực chất , tạo lợi nhuận giả tạo cho ngân hàng .Ngân hàng bao cấp
qua lãi suất cho khách hàng tạo lỗ không không đáng có cho ngân hàng, làm
cho ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thờng theo cơ chế thị trờng.
Khả năng huy đọng vốn đi đôi với yêu cầu rút bớt tiền trong lu thông
đã gây áp lực lên giá cả hàng hoá. Lãi suất tín dụng cao đợc các doanh nghiệp
đi vay tự động chuyển vào giá thành sản xuất, đẩy mức giá bán lên cao, khiến
giá cả thị trờng của sản phẩm do doanh nghiệp đó sản suất, cũng nh mặt bằng
giá chung tăng, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, ảnh h-
ởng trực tiếp đến mức lạm phất xã hội và khả năng
22
thanh toán nợ của doanh nghiệp. Nền kinh tế bị đình trệ, thất nghiệp tăng, tệ
nạn xã hội phát triển theo chiều hớng xấu.
Nhà nớc vẫn tiếp tục phaỉ chi bù lỗ cho các kênh tín dụng vì sự chênh
lệch mức lãi suất tiết kiệm huy động và mức lãi suất cho các doanh nghiệp nhà
nớc vay. Hơn nữa, tiền huy động đợc để chất đống trong kho vì
không cho vay đợc ( chiếm 50% tổng số tiền huy động đợc).Nếu kéo dài
thời gian áp dụng biện pháp tình thế tiếp tục thu hút vốn bằng lãi suất cao, thì
tại một thời điểm nào đó, tạm thời có đủ tiền mặt chi tiêu, nhân dân tạm thời
cha mua một số mặt hàng hoặc lựong hàng hoá cha cần dùng ngay,dành tiền
vào gửi tiết kiệm, giá cả tạm thời không tăng hoặc giảm đi chút ít, nên có ngời
tởng rằng ta đã chống lạm phát xong, không phải in thêm tiền mặt đua vào lu
thông, giá cả thị trờng sẽ xuống và ổn định. Đó chỉ là ảo tởng bởi sau một thời
gian khi nhân dân rút tiền ra để chi tiêu thì ngoài số tiền gốc còn phải trả thêm
một số tiền lãi khổng lồ, đây là khoản ngân hàng phải bù đắp và toàn dân phải
chịu , và ngân sách đang ở tình trạng thu không đủ chi, do đó lạm phát càng
trầm trọng hơn.
Nhận thức đợc những khó khăn trên Hội đồng chính phủ đã có những
nỗ lực trong việc thay đổi về chính sách lãi suất. Ngày 10 tháng 4 năm 1989
Hội đồng Bộ Trởng ra quyết định về chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay của
ngân hàng nhà nớc, theo những nguyên tác và nội dung cơ bản sau đây:

* Điều 1- Lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng đợc quy định
theo nguyên tắc sau đây:
a) Bảo tồn đợc vốn và có lãi:
- Lãi suất tiền gửi phải bù đắp đợc tỷ lệ trợt giá và có lãi, khuyến khích các
tổ chức và đơn vị kinh tế gửi tiền vào ngân hàn.
- Lãi suất cho vay phải bù đắp đợc tỷ lệ trợt giá, có lãi (trong trờng hợp cần
thiết có thể không lấy lãi) và có sự u đãi với những mặt hàng, nghành kinh tế và
vùng kinh tế cần khuyến khích.
b) Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, và đợc điều chỉnh
theo sự biến động của chỉ số giá cả thi trờng xã hội ( tháng hoặc quý ).
c) Mọi nguồn vốn Ngân hàng huy động để cho vay đều phải trả lãi. Mọi
khoản ngân hàng cho vay đều phải thu lãi. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi bình quân là 0,5%.
d) Lãi suất tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ áp dụng theo mức lãi suất thị tr-
ờng quốc tế.
23
* Điều 2- Cấu thành mức lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng
bao gồm:
- Mức lãi suất cơ bản.
- Chỉ số giá cả thị trờng xã hội.
Những quy định trong văn bản đã thể hiện sự đổi mới lớn về t duy của các nhà
hoạch định chính sách. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách trên thực tế gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt khi lạm phát đang ở mức cao. Nguyên nhân thì có
nhiều nhng chủ yếu là những nguên nhan sau :
Một là : Thực tế lạm phát ở Việt Nam, biến động hết sức thất thờng và hệ
số thông tin, số liệu cha chính xác, do đó, nếu lấy tỷ lệ lạm phát làm cơ sở điều
chỉnh lãi suất sẽ tạo ra nguy cơ sai lệch lớn hơn so với thực tiễn. Điều đó đã
xảy ra vào tháng 3 năm 1989 khi mức lạm phát là 5,1%/tháng thì lãi suất tiền
gửi tiết kiệm đợc nâng lân mức 12%/tháng, đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ han
3tháng. Dới tác động mạnh của lãi suất cao, tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột, và 3

tháng sau trở thành thiểu phát.
Trong khi đó chúng ta tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng nói chung và
sửa đổi cơ chế lãi suất nói riêng khi cha có một chính sách tài chính quốc gia
thống nhất, chính sách về vốn, thuế .. cha đồng bộ, cơ chế hạch toán kinh
doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế còn rất nhiều bất hợp lý.
Hai là : Ngân hàng đã có những cố gắng cải tiến cơ chế lãi suất theo hớng
thị trờng nhng lại ở trong điều kiện thị trờng tiền tệ cha đồng nhất, còn bị chia
cắt, ngay cả thi trờng vốn giữa các ngân hàng chuyên doanh cha thông suốt,
thiếu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, trình độ sản xuất, năng suất lao động
giữa các khu vực kinh tế, giữa sản suất với lu thông, giữa miền Nam và miền
Bắc chênh lệch quá lớn cũng là một khó khăn cho việc thực hiện một cơ chế
mới. Bên cạnh đó là nền kinh tế vẫn đang trong quá trình thay đổi cơ cấu và đổi
mới, cha có đủ yếu tố cần thiết để thích ứng đợc với tác động ngặt nghèo của
thị trờng.
Ba là: Luật lệ, thể chế, các văn bản pháp luật điều chỉnh vừa thiếu vừa
không đồng bộ và không theo kịp với diễn biến năng động của đời sống kinh tế
xã hội.
Bốn là: Việc thực hiện cơ chế lãi suất âm với nhiều mục đích trợ giúp
khác nhau thực ra là nhiệm vụ của chính sách tài chính nhng cha đợc phân tách
một cách rõ ràng nên nhiều cơ ché mang tính chất hành chính nhiều hơn thị tr-
24
ờng,đồng thời tạo ra nhiều kẽ hở, rất dễ bị lợi dụng, gây bất lợi cho việc tiến tới
một cơ chế lãi suất mới hoàn thiện hơn.
Năm là: Mặc dù nhà nứơc cho phép mở ra nhiều hình thức gọi vốn
khác nhau, nhng thực tế về cơ bản vốn của ngân hàng vẫn là chủ đạo, cộng với
việc chia cắt thị trờng đã tạo ra khe hở bóp méo kết quả của cơ chế lãi suất mới.
Sáu là: Nhà nớc nói chung, NHNN nói riêng cha làm tốt vai trò điều
hành vĩ mô nền kinh tế, chính xách tài chính không đợc xây dựng thông qua
các công cụ quản lý và kinh tế hớng vốn vào các mục tiêu mang tính định hớng
chiến lợc, vốn tín dụng dàn đều theo chiều rộng. Quá trình chuyển đổi từ cơ

chế cũ sang cơ chế mới đợc hình thành trong điều kiện t duy mới về ngân hàng
còn hạn hẹp, cha theo kịp và thích ứng với các khái niệm mới, t tởng bao cấp
còn nặng nề, phơng tiện phục vụ cho việc thực hiện cơ chế mới lạc hậu cũ kỹ
không đáp ứng đợc yêu cầu.
Nói tóm lại, cơ chế lãi suất âm tồn tại là một tất yếu khách quan khó có thể
phủ nhận trong tình trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ còn hạn chế và nền
kinh tế nh vậy. Khi nền kinh tế ổn định hơn điều tất yếu xảy ra là cơ chế cũ sẽ
phải thay đổi, mở đầu cho một cơ chế mới hoàn thiện hơn, phù hợp với quy luật
kinh tế hơn. Lãi suất sẽ trở lại đúng nghĩa là giá cả của hàng hoá chứ không
phải là một công cụ mang tính hành chính đơn thuần.
II. Cơ chế lãi suất dơng.
Trong điều kiện nền kinh tế vẫn tiếp tục lạm phát ở mức độ cao,đầu năm 92 tỷ
lệ trợt giá dự kiến là 2,7%/tháng nhng thực tế là 4,6%/tháng, giá vàng đô la
tăng cao, hậu quả cũ trong lĩnh vực vốn ( nợ khê đọng , lỗ huy động vốn tiết
kiệm ...) cha đợc giải quyết, nguồn vốn huy động của các tổ chức quốc tế và
ngân hàng nớc ngoài cha khai thông đợc. Ban lãnh đạo ngân hàng nhà nớc đã
kiên trì phơng châm vay để cho vay, vốn tín dụng chủ yếu tập trung cho các
nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế, kiên quyết đổi mới cơ cấu tín dụng, dần dần
thoát khỏi cơ chế lãi suất âm tiến dần tới cơ chế lãi suất dơng.
Việc chuyển đổi cơ chế lãi suất mới đặt nhà các nhà quản lý trớc một mâu
thuẫn: nếu không bảo tồn giá trị tiền gửi tiết kiệm thì ngời gửi tiền sẽ bị thiệt
thòi hoặc sẽ rút ra, gây sóng gió trên thị trờng vàng và đô la và tác động tiêu
cực đến sản xuất và đời sống.Nhng nếu nâng lãi suất lên bằng mức lãi suất cơ
bản cộng trợt giá với điều kiện lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất huy động
thì ngời vay vốn không chịu đựng đợc. Duy trì mãi lãi suất âm thì điều đó
không thể đợc vì cơ chế này tồn tại quá nhiều mâu thuẫn nh trên đã phân tích.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×