Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

thiên hướng tình dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.33 KB, 13 trang )

Thiên Hướng Tình Dục
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Không còn nghi ngờ gì nữa, thiên hướng tình dục - đặc biệt khi chúng ta nói về đồng tính
luyến ái và ái nam ái nữ - là chủ đề được thảo luận sôi nổi ngày nay. Phong trào đòi
Quyền cho người Đồng tính Nam. Giải phóng người Đồng tính Nam. Lòng tự trọng của
những người Đồng tính nam. Lực Lượng Đặc Nhiệm Đồng Tính Namvà Đồng Tính Nữ
Quốc Gia. Câu lạc bộ và quán bar giành cho những người Đồng tính nữ. "Lộ diện" hay
"Che giấu". Luật pháp "quyền bình đẳng" cho những người Đồng tính nam. Đồng tính
luyến ái trong quân đội. Cha mẹ Đồng tính Nam. Các ấn phẩm như Cái Thang, Người
ủng Hộ, Người Sinh ở New York, Ở Ngoài và thậm chí cả Tập San Của Những Người
Đồng Tính Luyến Ái. Những khía cạnh về lối sống của người đồng tính nam - và nhiều
điều nữa - là những thứ gây tranh cãi trong con mắt của rất nhiều người Mỹ. Do vậy,
chúng tôi giành toàn bộ chương này để khám phá những vấn đề phức tạp như các nguyên
nhân của xu hướng tình dục và ảnh hưởng của sự đồng tính luyến ái hay ái nam ái nữ lên
các cá nhân và xã hội.
THIÊN HƯỚNG TÌNH DỤC LÀ GÌ?
Thiên hướng tình dục là từ dùng để chỉ sự hấp dẫn về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến
và hấp dẫn về tình dục của một người đối với những người cùng giới, khác giới hay đối
với cả hai. Một người bị hấp dẫn bởi những người khác giới được gọi là heterosexual
(người có thiên hướng tình dục với người khác giới) (bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp heteros
có nghĩa là "khác"). Nhiều người sử dụng từ straight (thẳng) đểchỉ những nam giới hay
phụ nữ có thiên hướng tình dục với người khác giới. Một người bị hấp dẫn bởi những
người cùng giới được gọi là homosexual (đồng tính luyến ái) (bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp
homos có nghĩa là "cùng"). Nhiều người sử dụng từ gay (đồng tính nam) để chỉ những
nam giới bị đồng tính luyến ái, vàlesbian (đồng tính nữ) để chỉ những nữ giới bị đồng
tính luyến ái. Không được nhầm lẫn giữa đồng tính luyến ái với luyến ái giả trang
(transsvestites) (những người mặc trang phục của người khác giới nhằm mục đích có
được sự thoả mãn giới) hay người chuyển đổi giới tính (transsexuals) (những người bị rối
loạn nhận dạng giới, mong muốn "phẫu thuật để chuyển đổi giới tính"). Một người bị hấp


dẫn bởi cả hai giới được gọi là bisexual (ái nam ái nữ hay lưỡng tính) (bắt nguồn từ tiếng
Hi Lạp bi có nghĩa là "hai").
Những cuộc thảo luận ngày nay xung quanh khái niệm sở thích tình dục (sexual
preference), hay đối tượng ham muốn tình dục của một người. Tuy nhiên, ngày càng có
nhiều nhà tình dục học và các chuyên gia khác chọn cụm từ thiên hướng tình dục (sexual
orientation) thay vì sở thích tình dục, vì sở thích tình dục cho thấy rằng sự hấp dẫn tình
dục luôn là vấn đề của sự lựa chọn. Nhà tình dục học John Money (1987)
15
đã viết:
"Sở thích tình dục là một thuật ngữ mang tính đạo đức và chính trị. Về mặt khái niệm, nó
dùng để chỉ sự lựa chọn tự nguyện, có nghĩa là một người chọn hoặc thích trở thành
người đồng tính luyến ái thay vì là người có thiên hướng tình dục với người khác giới
hay là người ái nam ái nữ và ngược lại. Về mặt chính trị, sở thích tình dục là một thuật
ngữ nguy hiểm vì nó ám chỉ rằng nếu người đồng tính luyến ái chọn được sở thích của
mình thì họ có thể bị pháp luật ép buộc, dưới sự đe doạ của việc sẽ bị trừng phạt, để phải
chọn trở thành người có thiên hướng tình dục với người khác giới. Ở đây có thể thấy khái
niệm về sự lựa chọn tình nguyện là sai, và cũng là sai khi áp dụng nó để nói về sự lựa
chọn của người có khuynh hướng chỉ dùng một tay hay sự lựa chọn tiếng mẹ đẻ. Bạn
không thể chọn tiếng mẹ đẻ của mình, cho dù bạn sinh ra chưa có nó." (trang 385)
Vào những năm 1940 và 1950, Alfred Kinsey và các đồng nghiệp của ông đã đưa ra ý
kiến rằng thiên hướng tình dục tồn tại dọc một thể liên tục. Trước nghiên cứu của Kinsey
về thói quen tình dục của người Mỹ, các chuyên gia (cũng như công chúng) nói chung tin
rằng hầu hết mọi người hoặc là người đồng tính luyến ái hoặc là người có xu hướng tình
dục với người khác giới. Kinsey đoán rằng các loại thiên hướng tình dục không hề rõ
ràng như mọi người vẫn tưởng. Trong thang 7 điểm của Kinsey dùng để đo thiên hướng
tình dục (0 điểm có nghĩa là một người hoàn toàn có thiên hướng tình dục với người khác
giới, 6 điểm có nghĩa là một người hoàn toàn đồng tính luyến ái), những người trong thử
nghiệm mẫu của ông đều từng ít nhất đã bị hấp dẫn một chút với những người cùng giới,
tuy nhiên hầu hết những người đó đều không thể hiện khao khát đó của mình.
Giống với trường hợp của nhiều nghiên cứu khoa học xã hội, các kết luận của Kinsey về

tình trạng ái nam ái nữ bị nghi ngờ. Ví dụ, hai nhà tâm lý học Robert Carson và James
Butcher (1992)
16
đã viết:
"Trên quan điểm của chúng tôi, nhiều con số mà Kinsey và các đồng nghiệp đưa ra không
khẳng định được tính phổ quát của tình trạng ái nam ái nữ như một số loại trung lập dục
tính cơ bản. Điều mà họ nêu là nhiều đàn ông từ chối không quan hệ tình dục với phụ nữ
có thể và có "sự thỏa mãn tối đa" bằng cách quan hệ tình dục với người đàn ông khác, là
do nghiên cứu của họ, giờ thì ai cũng biết, được thực hiện trên những người tù, hoặc
tương tự." (trang 375)
Điều quan trọng là cần phải nhớ rằng tình dục hướng giới tính khác cũng là vấn đề thuộc
thiên hướng tình dục, giống như đồng tính luyến ái hay ái nam ái nữ. Mặc dù nhiều người
cho rằng có thể chuyển đổi thiên hướng tình dục của một người, thường là những người
có thiên hướng tình dục với người khác giới nói về những người đồng tính luyến ái, thì
câu nói đó (dù đúng hay sai) cũng cần phải được áp dụng một cách công bằng cho tất cả
mọi người thuộc tất cả các thiên hướng tình dục. Như sẽ được thảo luận ở phần sau, việc
thay đổi thiên hướng tình dục thông qua liệu pháp tâm lý dường như là điều vô cùng khó
khăn, nếu như không muốn nói là không thể.
Chúng ta cũng cần phân biệt giữa thiên hướng tình dục (hay sự hấp dẫn) với hành vi tình
dục (hay sự thể hiện). Một người có thể có hoặc có thể không lựa chọn việc thể hiện thiên
hướng tình dục của mình thông qua các hành vi. Nói cách khác, anh ta hay cô ta có thể có
thiên hướng tình dục của người đồng tính luyến ái nhưng lại chọn cách không thể hiện
điều đó với bạn tình. Tất nhiên, nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với những người
có thiên hướng tình dục với người khác giới và người ái nam ái nữ.
Suy Nghĩ Cá Nhân
Đâu là những vấn đề có liên quan đến việc định nghĩa tình dục hướng giới tính khác,
đồng tính luyến ái, và ái nam ái nữ?Bạn hãy chú ý đến những lý lẽ tán thành và phản
đối liên quan đến việc định nghĩa thiên hướng tình dục như sự tồn tại dọc theo thể
liên tục.
HÀNH VI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI PHỔ BIẾN NHƯ THẾ NÀO?

Lúc này hay lúc khác, những suy nghĩ liên quan đến đồng tính luyến ái có thể xuất hiện
thoáng qua trong đầu của hầu hết mọi người. Nhưng các hành vi đồng tình luyến ái phổ
biến như thế nào trong dân số nói chung? Và có bao nhiêu người Mỹ hoàn toàn là người
đồng tình luyến ái?
Cho dù thiên hướng tình dục tồn tại dọc theo thể liên tục, nhưng việc tìm kiếm những ví
dụ tiêu biểu để khảo sát là rất khó, nhiều người còn do dự trong việc trả lời đầy đủ hoặc
trung thực các câu hỏi khảo sát, việc có được con số phần trăm chính xác là rất khó khăn.
Theo ước tính hiện tại thì có khoảng 4% nam giới và từ 1% đến 2% phụ nữ ở Mỹ là
những người hoàn toàn đồng tính luyến ái. Số liệu này chỉ ra rằng con số phổ biến cho
rằng 10% dân số là những người đồng tính luyến ái có thể là ước tính quá cao. Không có
gì ngạc nhiên khi số người đồng tính luyến ái được ước tình cao hơn mức trung bình toàn
quốc vì việc ước tính được thực hiện trong những môi trường nhất định chẳng hạn như
nhà tù, nơi mà đồng tính luyến ái mang tính hoàn cảnh (hành vi đồng tính luyến ái xảy ra
là do không có sự hiển diện của những người bạn tình khác giới.)
Những thông tin về tình trạng ái nam ái nữ thậm chí còn ít hơn những thông tin về đồng
tính luyến ái, lý do là bởi vì mọi người nghĩ rằng ái nam ái nữ là tiểu nhóm của đồng tính
luyến ái. Một khó khăn khác trong việc có được thông tin chính xác về tình trạng ái nam
ái nữ là nhiều người gặp gỡ những người cùng giới với mình nhưng lại không nghĩ bản
thân là người ái nam ái nữ. Một ví dụ minh họa cho điều này là những người bạn ở chung
tù, có quan hệ với những người đàn ông khác trong khi bị tống giam, nhưng họ vẫn cho
rằng bản thân mình là người có thiên hướng tình dục với người khác giới. Một khó khăn
nữa là nhiều người đồng tính nam kết hôn, nuôi con, coi đó như "vỏ bọc xã hội", và họ
nghĩ bản thân mình là người đồng tính chứ không phải là người ái nam ái nữ.
Nhiều người đôi khi cho rằng ái nam ái nữ là "tốt nhất cho cả hai thế giới" tuy nhiên
những người ái nam ái nữ không đồng tình với quan điểm này. Họ thường cảm thấy bị cô
lập và xa lánh từ cả những người đồng tính luyến ái lẫn những người có thiên hướng tình
dục với người khác giới. Những người ái nam ái nữ củng cố sự tồn tại của các nhóm và
cộng đồng nhưng họ chiếm thiểu số so với những nhóm đồng tính luyến ái. Không còn
nghi ngờ gì nữa, khi mọi người thoải mái đối với những người "xuất đầu lộ diện" thì số
người này trong tương lai chắc chắn sẽ tăng lên.

Suy Nghĩ Cá Nhân
Bạn sẽ phản ứng như thế nào nếu một người bạn thân cùng giới với bạn tiết lộ cho
bạn biết rằng anh ta hay cô ta là người đồng tính nam, đồng tính nữ, hay ái nam ái nữ
? Bạn sẽ phản ứng thế nào nếu một người bạn thân khác giới cũng nói với bạn như
vậy?
CÁC HỌC THUYẾT VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Những nguyên nhân chính xác gây ra hiện tượng đồng tính luyến ái, cũng như nguyên
nhân thiên hướng tình dục hướng người khác giới và thiên hướng tình dục nói chung vẫn
tiếp tục là thách thức đối với các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cũng có một số học thuyết
được đưa ra. Những học thuyết này chia thành các nhóm về sinh học, tâm lý học, và học
thuyết tương tác.
Các Học Thuyết về Sinh Học
Đến nay, những nỗ lực nhằm nhận biết chính xác các nguyên nhân sinh lý gây ra hiện
tượng đồng tính luyến ái vẫn chưa có kết quả. Các học thuyết sinh học truyền thống thì
cho rằng đó là do có quá ít hooc môn testosterone ở nam giới, quá nhiều hooc môn
testosterone ở nữ giới, sự mất cân bằng hooc môn, và những lỗi sinh học trước khi sinh ra
do căng thẳng ở người mẹ. Những học thuyết gần đây hơn còn bao gồm cả nguyên nhân
di truyền và gien, các khi nhiễm sắc thể, và những dị thường ở phía trước vùng đồi dưới
não (nghĩa là nhân tế bào khe thứ ba).
Những phát hiện từ các nghiên cứu tập trung vào nguyên nhân sinh học cần phải được
giải thích một cách thận trọng. Đầu tiên, hầu hết các đối tượng được lấy làm ví dụ không
phải là đại diện cho dân số nói chung, vì tất cả những đối tượng đó đều là nam giới. (Điều
này không có gì là mới. Đa số các nghiên cứu về đồng tính luyến ái thường được thực
hiện trên nam giới nhiều hơn phụ nữ). Thứ hai, hầu hết các phát hiện đều mới chỉ nói đến
các kết hợp tương quan của những biến số chứ không phải là nguyên nhân. Ví dụ, có phải
liệu một phần nhỏ dị thường ở vùng đồi dưới gây ra tình trạng đồng tính luyến ái hay
ngược lại? Hay liệu bất kỳ nguyên nhân nào gây ra sự dị thường ở một phần nhỏ vùng
đồi dưới cũng gây ra hiện tượng đồng tính luyến ái? Cần có nhiều nghiên cứu cụ thể hơn
nữa trước khi đưa ra các kết luận hợp lý về ảnh hưởng của các yếu tố sinh học khác nhau
lên việc hình thành thiên hướng tình dục.

Ghi Chép Cá Nhân (Alex, 34 tuổi)
Từ khi có thể nhớ được, tôi đã bị hấp dẫn bởi những người đàn ông. Quay trở về
thời bé, có lẽ lúc đó tôi học lớp 1 hay lớp 2 gì đó, tôi còn nhớ một chuyện mà bọn con
trai thường hay nói với nhau ở trong nhà vệ sinh của trường. Bọn chúng nói chúng
rất muốn được nhìn thấy bọn con gái không mặc gì trên người vì chúng bảo bạn
luôn luôn có thể nhìn thấy bản thân trần truồng nếu như bạn muốn nhìn một bộ
phận nào trên cơ thể con trai. Lúc đó, tôi đã nghĩ tới bản thân mình, tôi chỉ thấy
sung sướng khi nhìn thấy cơ thể con trai. Thậm chí tôi còn biết rằng tôi không thể
nói về cảm giác này của mình với bất kỳ đứa bạn nào của tôi được. (Tư liệu của Bác
sĩ Zgourides)
Các Học Thuyết Về Tâm Lý Học Và Xã Hội
Tuổi thơ có vẻ như là một giai đoạn rất quan trọng đối với việc hình thành thiên hướng
tình dục, sự học hỏi, kiến thức đóng vai trò trong việc phát triển tình trạng đồng tính
luyến ái. Học thuyết của Freud cho rằng đồng tính luyến ái được bắt rễ từ những xung đột
từ thời thơ ấu, đặc biệt trong suốt giai đoạn thuộc phức cảm Ơđíp(Oedipal stage) của sự
phát triển tâm sinh dục. Những người theo học thuyết của Freud tin rằng đồng tính luyến
ái phát triển để phản ứng với một người cha thụ động và một người mẹ quá thương yêu
và chi phối, các mối quan hệ gia đình có vấn đề, và/hoặc gia đình mất cha/mẹ hay cả hai.
Những quan điểm này không thể giải thích tại sao đồng tính luyến ái cũng phát triển ở
những cá nhân không có hoàn cảnh gia đình như thế.
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã đưa ra vô số những nhân tố nhận thức-xã hội, mà những
nhân tố này phải chịu trách nhiệm đối với tình trạng đồng tính luyến ái, những nhân tố
này thậm chí có lẽ còn nhiều hơn cả những yếu tố sinh học. Có thể đồng tính luyến ái
phát triển khi dục tình của một đứa trẻ hay một thiếu niên xuất hiện trong giai đoạn đầu
của tình bạn cùng giới. Hay có thể có điều gì đó từ những hành vi khác giới ban đầu (liên
quan đến các khuôn mẫu cư xử của giới khác). Giống như các học thuyết sinh học về
thiên hướng tình dục, những học thuyết này và vô số những học thuyết tâm lý, xã hội
khác đều mới chỉ nói đến các sự kết hợp tương quan chứ chưa đưa ra được những kết hợp
mang tính nguyên nhân.
Học Thuyết Tương Tác

Dường như cả những nhân tố sinh học lẫn những sự kiện cụ thể từ thời thơ ấu đều không
phải là những nhân tố duy nhất phải chịu trách nhiệm cho sự phát triển của tình trạng
đồng tính luyến ái. Học thuyết Tương tác về đồng tính luyến ái chỉ ra rằng thiên hướng
tình dục phát triển nhằm phản ứng lại với sự tương tác phức tạp của các nhân tố sinh học,
tâm lý học và xã hội - một phối cảnh tâm sinh lý xã hội cơ bản. Trọng lượng tương đối
của những nhân tố khác nhau này trong việc quyết định thiên hướng tình dục ở một cá
nhân cụ thể hiện vẫn chưa được xác định.
Có lẽ học thuyết tương tác được chấp nhận rộng rãi nhất là học thuyết của John Money.
John Money đã giải thích sự phát triển của đồng tính luyến ái theo một quá trình gồm hai
bước. Theo Money, các hooc môn trước khi sinh đầu tiên ảnh hưởng đến bộ não của phôi
thai hay bào thai, tạo nên bẩm chất sinh học đối với một thiên hướng tình dục cụ thể. Sau
khi sinh ra, trong suốt thời kỳ thơ ấu ban đầu các yếu tố xã hội-kiến thức trong môi
trường ảnh hưởng đến đứa trẻ, ngăn cản hoặc tạo điều kiện cho bẩm chất. Cuối cùng
thiên hướng tình dục hình thành được củng cố thêm nhờ cực khoái tình dục, điều này
khiến cho việc định hướng lại thiên hướng tình dục càng trở nên khó khăn khi thời gian
qua đi.
SỰ ĐIỀU CHỈNH TÌNH TRẠNG ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Các quan điểm đầu tiên về đồng tính luyến ái là quan điểm thần học.Từ những kết án của
người Do Thái cổ về hành vi đồng tính luyến ái, đến sự ám chỉ của Thánh Thomas
Aquinas coi đó là "hành vi thú tính trái với tự nhiên", các xã hội Do Thái - Thiên Chúa
Giáo truyền thống đều coi hành vi đồng tính luyến ái là tội lỗi. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20, cộng đồng bác sĩ về sức khỏe tinh thần, đặc biệt là những người bị ảnh
hưởng bởi học thuyết của Freud, bắt đầu coi đồng tính luyến ái là bệnh tinh thần hay là
những rối loạn liên quan đến tinh thần.
Tuy nhiên, do có nhiều bằng chứng cho thấy những điều ngược lại, và do các quan điểm
thoáng hơn về tình dục gia tăng ở Mỹ nên năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Mỹ đã bỏ phiếu
tán thành việc loại bỏ đồng tính luyến ái coi đó như một dạng bệnh tâm thần ra khỏi
Triệu Chứng Và Sách Chỉ Dẫn Thống Kê Về Các Rối Loạn Tinh Thần (DMS). Trong
cuốn DMS-III (1980) chỉ có duy nhất một tham chiếu dành cho đồng tính luyến ái, đó là
Đồng Tính Luyến Ái Bản Ngã - Dystonic, chuẩn đoán này được đưa ra cho người cảm

thấy không thỏai mái đối với thiên hướng đồng tính luyến ái của anh ta hay cô ta. Hiệp
hội Tâm Thần Mỹ thậm chí cuối cùng cũng đã loại bỏ danh mục này ở cuốn DSM-III-R
(1987) và DSM-IV (1994) và thay vào đó bằng Chứng Rối Loạn Tình Dục Mà Chứng
Này Không Được Mô Tả Cụ Thể ở Các Chứng Rối Loạn Tình Dục Khác (Sexual
Disorder Not Otherwise Specified), đây là sự phân loại chung dành cho các chứng rối
loạn tình dục mà các chứng này không phù hợp với tiêu chí thông thường. Năm 1975
Hiệp Hội Tâm Lý Học Mỹ đã tán thành quyết định mang tính bước ngoặt của Hiệp hội
Tâm thần Mỹ về việc loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các bệnh liên quan đến
rối loạn tinh thần.
Quyết định coi hay không coi đồng tính luyến ái như là một căn bệnh liên quan đến rối
loạn tinh thần hay sự bất thường nhằm ngụ ý xem việc chữa trị một số loại liên quan đến
đồng tính luyến ái là thích hợp hay không. Có thể thay đổi thiên hướng tình dục không?
Có nên chữa trị cho những người đồng tính luyến ái không? Liệu các chuyên gia về sức
khỏe tinh thần có nên giúp những người đồng tính luyến ái trở thành những người có
thiên hướng tình dục khác không? Đây thực sự là những câu hỏi khó.
Nói về mặt logic, nếu một mặt đồng tính luyến ái không phải là một rối loạn thì phải chữa
trị cái gì đây? Các nhà nghiên cứu cho rằng những người đồng tính luyến ái là những
người khỏe mạnh và có thể điều chỉnh về mặt tâm lý như bất kỳ ai khác. Họ có sức khỏe
thể chất và sức khỏe tinh thần giống như những người có xu hướng tình dục hướng giới
tính khác, bất kể thiên hướng tình dục hay sở thích tình dục nào. Từ quan điểm này,
người đồng tính luyến ái có thể đi gặp tư vấn để giải quyết những vấn đề thứ yếu liên
quan đến thiên hướng tình dục của họ chẳng hạn như những lo lắng về việc nếu gia đình
biết chuyện, quấy rối tình dục ở công sở, hay sự phân biệt đối xử về nhà cửa - nhưng
không cần phải điều trị thiên hướng của họ như thể nó là một căn bệnh rối loạn về tinh
thần. Nếu mặt khác, coi đồng tính luyến ái là một rối loạn thì các phương pháp trị liệu
chuyển đổi có hiệu quả không? Lúc này, có vẻ như không tồn tại liệu pháp sinh học hay
tâm lý mà những liệu pháp này có ảnh hưởng toàn diện và hiệu quả đến việc chuyển đổi
thiên hướng tình dục, mặc dù không phải tất cả các chuyên gia đều đồng ý với điều này.
Hầu hết các nhà tình dục học đều biện luận rằng không có một lý do gì, ít nhất là trên
phương diện sức khỏe tinh thần để phải cố gắng sửa lại thiên hướng tình dục của người

đồng tính luyến ái. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy. Còn những người đồng tính
nam và đồng tính nữ, những người muốn thay đổi thiên hướng tình dục của mình thì sao,
chẳng hạn như vì lý do tôn giáo? Liệu các nhà trị liệu có bắt buộc phải đưa ra những dịch
vụ chữa trị nếu có thể hay không? Một số bác sĩ phản đối việc dùng liệu pháp chuyển đổi
thiên hướng tình dục cho các khách hàng đồng tính luyến ái bởi vì những liệu pháp chữa
trị này có thể khuyến khích định kiến của xã hội chống lại những cá nhân đó. Ngược lại,
một số người khác lại lập luận rằng cần chữa trị cho những người có yêu cầu chính đáng
bất kể quan điểm của bác sĩ coi đồng tính luyến ái là sự bất thường. Từ chối khách hàng,
những người yêu cầu được chữa trị bằng liệu pháp chuyển đổi thiên hướng là vi phạm
"quyền được chữa trị" cơ bản của họ. Tất nhiên, bác sĩ trị liệu phải có nghĩa vụ thông báo
cho khách hàng về tính hiệu quả tương đối của liệu pháp chuyển đổi.
Một số bác sĩ hành nghề, các nhóm tôn giáo và khách hàng đã nói thành công với liệu
pháp chuyển đổi lại thiên hướng tình dục. Tuy nhiên, hầu hết những báo cáo của họ về
những thành công này đều chỉ là những câu chuyện, chưa được xác minh một cách khoa
học; không có đủ bằng chứng khoa học để đưa ra những đánh giá chính xác về khả năng
thành công của nó. Những câu hỏi như "Liệu có thể thay đổi thiên hướng tình dục?" và
"Có nên chữa trị cho những người đồng tính luyến ái không?" đôi khi vẫn sẽ là những
câu hỏi chưa có câu trả lời.
Ghi Chép Cá Nhân (Sam, 31 tuổi )
Cho mãi đến tận năm cuối trung học tôi mới phát hiện ra rằng mình không có một
chút hấp dẫn tình dục nào với phụ nữ cả.Từ đó trở đi, tôi hoàn toàn bị thu hút bởi
những người đàn ông. Nhưng do nền tảng, địa vị của mình, tôi không bao giờ có thể
chấp nhận mình là người đồng tính luyến ái. Bởi thế tôi đi gặp một bác sĩ tâm lý để
"thay đổi" thiên hướng tình dục của mình. Thực sự, tôi cũng khá hài lòng với sự
tiến triển của chúng tôi (tôi và bác sĩ của mình). Trải qua 13 năm, từ chỗ không có
hứng thú tình dục với phụ nữ tôi đã có thiên hướng hấp dẫn tình dục với người
khác giới. Tuy nhiên tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi không bao giờ có thể loại bỏ
được hoàn toàn phần đồng tính nam trong con người tôi. Nó vẫn còn ở đó, đôi khi
leo nheo tôi. Nhưng tôi có thể giải quyết được nó. Tôi đoán rằng những điều mà
chúng tôi đã làm khi trị liệu đã làm tăng thêm vốn mục tình dục của tôi lên đến

điểm khiến tôi có thể thể hiện một cách thoải mái như một người có thiên hướng
tình dục hướng người khác giới (Tư liệu của Bác sĩ Zgourides)
LỐI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Những người đồng tính luyến ái rất khác biệt nhau từ học vấn và lối sống. Trên thực tế,
chẳng có cái gì được gọi là lối sống của người đồng tính luyến ái; cũng giống như không
có cái gì được gọi là lối sống của những người có thiên hướng tình dục với người khác
giới. Tuy nhiên, có thể đưa ra một vài quan sát nhận xét. Ba khía cạnh quan trọng trong
lối sống của người đồng tính luyến ái là: xuất đầu lộ diện, các mối quan hệ và con cái, và
hành vi tình dục.
Xuất Đầu Lộ Diện
Những người đồng tính nam và nữ có thể cởi mở đến mức độ nào về sự hấp dẫn tình dục
của họ? Các bằng chứng cho thấy rằng có lẽ khoảng 10% những người đồng tính luyến ái
ở Mỹ thực sự "bước ra khỏi cái tủ", kể cho gia đình và bạn bè biết rằng họ là người đồng
tính nam hoặc nữ. Số còn lại, những người "ở trong cái tủ" là giả vờ ("giả vờ" bản thân là
người có thiên hướng tình dục hướng người khác giới). Như một khách hàng đã nói:
Ghi Chép Cá Nhân (June, 29 tuổi)
Tôi đã thể hiện mình là người đồng tính luyến ái đối với hầu hết bạn bè của mình,
nhưng tôi vẫn phải cố gắng lấy hết can đảm để nói với những người thân của mình.
Điều này thực sự khó, và tôi biết họ sẽ không chấp nhận, nhưng chừng nào tôi chưa
làm việc đó thì tôi còn cảm thấy mình đang sống giả dối. Hầu hết các bạn của tôi
đều thực sự ủng hộ tôi. (Tư liệu của Bác sĩ Zgourides)
Suy Nghĩ Cá Nhân
Đâu là những vấn đề chủ yếu mà một người đồng tính luyến ái và ái nam ái nữ phải
đối mặt khi họ "xuất đầu lộ diện" với bạn bè và gia đình mình? Bạn có thể nghĩ ra
phương pháp nào mà người đồng tính luyến ái có thể sử dụng để làm giảm đến mức
độ tối thiểu những căng thẳng liên quan đến việc nói cho người khác biết thiên hướng
tình dục của cô ấy hay anh ấy?
Tại sao nhiều người đồng tính luyến ái không muốn xuất đầu lộ diện? Xem nào, đâu là
nguy cơ tiềm ẩn nếu như thông báo cho thế giới biết mình là người đồng tính luyến ái.
Gia đình chối bỏ. Mất việc. Bị đuổi ra khỏi nhà. Là vết nhơ của xã hội. Bị những người

chống đối việc đồng tính luyến ái hành hung. Tuy nhiên, đối với những người đồng tính
muốn xuất đầu lộ diện, thì cũng có những nhóm trợ giúp. Ngoài ra còn có cả một Ngày
Xuất Đầu Lộ Diện Quốc Gia, đó là ngày 11 tháng Mười hàng năm, vào ngày đó có một
chiến dịch nhằm giúp những người đồng tính luyến ái nói với gia đình và bạn bè của họ
về thiên hướng tình dục của mình.
Các Mối Quan Hệ và Con Cái
Nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng 40% đến 60% những người đồng tính nam và nữ có
liên quan đến một số dạng quan hệ gắn bó. Nhiều cặp đồng tính luyến ái đôi khi sống
chung cùng nhau còn lâu hơn những người có thiên hướng tình dục với người khác giới.
Cũng giống như những người có thiên hướng tình dục với người khác giới, những người
đồng tính luyến ái có thể có và có thể không thỏa mãn với mối quan hệ của mình.
Những mối quan hệ của người đồng tính luyến ái là như thế nào? Người đồng tính luyến
ái và người ái nam ái nữ - cũng giống như người có thiên hướng tình dục khác giới - có
thể sống chung với nhau, sống một mình, sống cùng gia đình hay bạn bè, hoặc sống với
bạn chung phòng. Họ cũng có thể đến từ những tầng lớp xã hội khác nhau, với điều kiện
kinh tế và học vấn khác nhau. Thật khó có thể đưa ra được sự khái quát chung về mối
quan hệ của những người đồng tính luyến ái hay những người ái nam ái nữ - sự lãng mạn,
về mặt xã hội, nghề nghiệp hay những cái khác - điều này cũng khó như việc đưa ra sự
khái quát chung về mối quan hệ của những người có thiên hướng tình dục hướng giới
tính khác.
Các cặp đồng tính luyến ái có thể quyết định nuôi con. Những nhà nghiên cứu chỉ ra rằng
trẻ em được những người đồng tính luyến ái nuôi dưỡng không có gì khác so với trẻ em
được các cặp khác nuôi dưỡng ở những điểm quan trọng như sự điều chỉnh cuộc sống
chung, nhận dạng giới, vai trò về giới, và sự thông minh. Họ cũng chỉ ra rằng trẻ em được
những cặp đồng tính luyến ái nuôi dưỡng không có nhiều khả năng sẽ trở thành người
đồng tính luyến ái hơn những trẻ em được nuôi dưỡng bởi những cặp có thiên hướng tình
dục hướng giới tính khác.
Hành Vi Tình Dục
Đồng tính luyến ái, tình dục hướng giới tính khác và ái nam ái nữ, tất cả những thiên
hướng tình dục này đều trải qua cùng các giai đoạn liên quan đến hưng phấn tình dục và

phản ứng. Có nghĩa là những người đồng tính nam và những người đồng tính nữ phản
ứng với các kích thích tình dục và tham gia vào các hành vi tình dục giống với người có
thiên hướng tình dục hướng tới giới khác và người ái nam ái nữ. Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng những người đồng tính luyến ái như một nhóm có xu hướng ít gặp khó khăn trong
hoạt động tình dục hơn so với người có thiên hướng tình dục hướng tới giới khác.
ÁM ẢNH ĐỒNG TÍNH
Những người đồng tính nam và nữ đã thể hiện mình là người đồng tính thường phải đối
mặt với những công kích bằng lời nói, hành động và sự hành hung tình dục của những cá
nhân bị ám ảnh bởi sự đồng tính. Ám ảnh đồng tính (Homophobia) là từ không những
chỉ sự sợ hãi vô lý của những người sợ bị người khác coi là người đồng tính luyến ái, mà
nó còn là từ chỉ sự kinh bỉ dai dẳng và căm ghét những người đồng tính luyến ái.
Ám ảnh đồng tính luyến ái khiến một số người đánh những kẻ đồng tính nam hoặc chửi
rủa và/hoặc đối xử tàn ác đối với những người đồng tính luyến ái hoặc cả người có thiên
hướng tình dục hướng giới khác nhưng bị nhầm là người đồng tính. Tại sao mọi người lại
tham gia vào những cuộc bạo lực chống lại người đồng tính? Lý do là có một số người
cho rằng có sự liên hệ giữa đồng tính luyến ái với bệnh AIDS. Những người khác đoán
rằng thái độ tiêu cực với bệnh AIDS chẳng qua chỉ là sự giải thích cho những quan điểm
chống lại người đồng tính, mà quan điểm này vẫn còn tồn tại. Cho dù có là nguyên nhân
gì đi nữa thì những cuộc bạo lực chống lại người đồng tính dường như vẫn đang tăng lên
ở Mỹ. Khoảng 25% những người đồng tính nam và nữ là nạn nhân của những vụ hành
hung liên quan đến thiên hướng tình dục.
Nhiều ví dụ liên quan đến ám ảnh đồng tính bắt nguồn từ sự kết án của xã hội đối với các
hành động đồng tính, đặc biệt là việc quan hệ tình dục ở lỗ hậu môn. Những người
Phương Tây coi chủ đề quan hệ tình dục ở lỗ hậu môn - có thể nhiều hơn bất kỳ hành
động tình dục nào khác (kể cả thủ dâm) - là việc làm đáng bị phản đối, lên án, đáng ghê
tởm và căm phẫn. Tuy nhiên điều này không nhất thiết bị phản đối ở những nơi khác trên
thế giới. Ví dụ, một số nam giới và phụ nữ Mangai ở Nam Thái Bình thường quan hệ tình
dục ở lỗ hậu môn khi người phụ nữ có kinh. Namthanh niên và đàn ông ở vùng Siwan
thuộc Nam Phi, và Kiraki thuộc New Guineacũng quan hệ kiểu này. Và cả một số cặp
đồng tính luyến ái Mỹ cũng có quan hệ tình dục ở vùng trực tràng hậu môn.

Tại sao nhiều người Mỹ lại căm ghét tình dục đồng giới? Cũng giống với nhiều khía cạnh
của tình dục, nhiều quan điểm văn hóa của chúng ta bắt nguồn từ những tập tục và giá trị
Thiên Chúa giáo. Trong Kinh Cựu Ước (ví dụ như Malachi 2:1-3), phân (cứt) mang ý
nghĩa vô cùng xấu, do đó không có gì ngạc nhiên khi nó lại được gắn với sự đồng tính
luyến ái, hành vi quan hệ tình dục ở lỗ hậu môn, và kẻ ngoại đạo. Căn cứ vào nhiều giải
thích nghiêm khắc các đoạn trong Kinh Thánh liên quan đến các hành vi tình dục đồng
giới đáng lên án, không còn nghi ngờ gì nữa người Mỹ cũng kịch liệt phản đối tình dục
đồng giới. Dưới đây là giải thích của nhà nghiên cứu tình dục Alfred Kinsey và các đồng
nghiệp của ông trong nghiên cứu cổ điển, Hành Vi Tình Dục ở Phụ Nữ (1953)
18
:
"Sự kết án chung về tình dục đồng giới trong nền văn hóa của chúng ta dường như bắt
nguồn từ hàng loạt các bối cảnh lịch sử mà các bối cảnh đó rất ít khi bảo vệ các cá nhân
hay duy trì tổ chức xã hội lúc đó. Trong bộ luật thời kỳ Hittite, Chaldean, và đầu Do
Thái, không có sự kết án chung nào đối với những hành vi tình dục đồng giới, tuy nhiên
có mức hình phạt dành cho các hoạt động đồng tính luyến ái xảy ra giữa những người có
địa vị xã hội cụ thể hay tình dục đồng giới giữa những người có quan hệ huyết thống,
dưới những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt khi có sự tham gia của hành động cưỡng bức. Sự
kết án chung đối với những quan hệ đồng tính (đặc biệt là đồng tính nam) bắt nguồn từ
lịch sử người Do Thái vào khoảng thế kỷ thứ 7, trước Công nguyên, sau sự quay về từ
cuộc đày ải Babylon Nhiều sự kết án Talmudic được xây dựng từ sự kiện rằng những
hành động đó đại diện cho cách của Canaanite, cách của Chaldean, cách của kẻ ngoại
giáo, và chúng bị kết án dưới dạng sùng bái hơn là mội tội lỗi liên quan đến tình dục. Đến
thời đại trung cổ, đồng tính luyến ái gắn liền với dị giáo. Tuy nhiên, với sự cải cách tục lệ
(tập tục), đồng tính luyến ái đã trở thành một vấn đề liên quan đến đạo đức và cuối cùng
đồng tính luyến ái là hành động liên quan đến luật hình sự." (Trang 481-482).
Trong cuốn sách có tựa đề Hãy Hỏi Tôi Bất Kỳ Điều Gì (1992)
19
, Marty Klein đã bổ
sung:

"Sự quảng cáo của người Mỹ cũng góp phần vào chuyện này. Vì có quá nhiều quảng cáo
dựa vào việc để mọi người đặt câu hỏi về khả năng tình dục của họ (để họ có thể bán
được sản phẩm giúp giải tỏa những lo lắng đó), họ đã gieo những vấn đề vào trong tiềm
thức của con người: Tôi có thực sự là đàn ông không? Có thực sự là phụ nữ không? Điều
này khiến cho những người đồng tính luyến ái lo sợ vì nó làm suy yếu sự tự tin của con
người về thiên hướng tình dục hướng tới người khác giới của họ. Khi giác quan của một
người có thiên hướng tình dục khác giới về nhận dạng tình dục là yếu ớt, dễ vỡ, đồng tình
luyến ái có thể gây ra những xáo trộn kinh khủng về tình cảm. Có thể dễ dàng đổ lỗi cho
những người đồng tính nam về việc này. Bên cạnh đó, mặc dù mọi người đều biết và đã
từng nhìn thấy những người đồng tính luyến ái, nhưng hầu hết mọi người lại không biết
về nó. Điều này khiến cho chúng ta dễ nhìn những người đồng tính như là "họ" chứ
không phải "chúng ta", là điều gì đó khác chứ không phải con người. Và nó gây nên sự
căm ghét." (trang 232)
CHỦ NGHĨA CHÍNH TRỊ TÍCH CỰC VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Những người đồng tính nam và đồng tính nữ đang tích cực tìm kiếm sự giúp đỡ để chấm
dứt những thành kiến và sự phân biệt chống lại họ do thiên hướng tình dục của họ gây ra.
Họ làm việc với tất cả các cấp xã hội để nhằm thay đổi luật pháp, chống lại sự phân biệt
đối xử trong công việc, sự quấy rối tình dục, loại bỏ sự ám ảnh đồng tính và đánh những
người đồng tính nam, vận động gây quỹ phòng chống AIDS, giáo dục công chúng về tình
dục đồng giới và đồng tính luyến ái. Mặc dù nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ
tin rằng họ đang đi trên con đường hướng tới mục đích của mình, nhưng những người
khác tin rằng họ vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đạt đến mục tiêu "giải phóng tình dục
đồng giới" thực sự.
Phong Trào Đòi Quyền Cho Người Đồng Tính, phong trào này ngày nay được rất nhiều
người biết đến, bắt đầu phát triển rầm rộ với cuộc nổi loạn Stonewall năm 1969. Cảnh sát
New Yorkđã chú ý một thời gian dài những quán bar của người đồng tính luyến ái nam
nhằm chống lại sự quấy rối và tiến hành bắt bớ. Vào tháng 6 năm 1969, họ đã tấn công và
vây bắt quán Stonewall Inn, một quán bar dành cho người đồng tính nam ở vùng
Greenwichthuộc NewYork. Khi những người bảo trợ quán bar chống đối lại, một cuộc
bạo loạn đã nổ ra và kéo dài đến tận ngày hôm sau. Vụ việc này thúc đẩy sự ra đời của vô

số những nhóm đòi quyền cho người đồng tính, các cuộc tuần hành, biểu tình, các hoạt
động kỷ niệm và diễu hành tổ chức hàng năm, bao gồm cả Tuần Lễ Kiêu Hãnh của
Người Đồng Tính Nam.
Nhiều người đã nhầm khi cho rằng, phong trào đòi quyền cho người đồng tính nam bắt
đầu từ cuộc bạo loạn Stonewall, nhưng trên thực tế có hơn 40 tổ chức của người đồng
tính nam và đồng tính nữ đã tập trung ở đây thời gian đó. Hai trong số những nhóm đồng
tính rõ ràng ở những năm 50 và 60 là Mattachine Society và Daughters of Bilitis. Sau
cuộc bạo loạn Stonewall, những người đồng tính nam và đồng tính nữ tập hợp vào các
nhóm chính trị và các cơ quan phục vụ như Hành Động, Mặt Trận Giải Phóng Người
Đồng Tính Nam, Liên Minh Những Người Hoạt Động Xã Hội ủng Hộ Đồng Tính Nam,
Những Người Ủng Hộ Và Bảo Vệ Cho Người Đồng Tính, Công Cuộc Đòi Quyền Cho
Người Đồng Tính Nữ, Lực Lượng Đặc Nhiệm Đồng Tính Nam Và Nữ, Những Người
Ủng Hộ Đòi Quyền Cho Người Đồng Tính Nam Quốc Gia, Quốc Gia Đồng Tính Nam, ở
đây tôi mới chỉ nêu tên một vài tổ chức.
Như đã trình bày ở đầu chương này, thiên hướng tình dục - đặc biệt là đồng tính luyến ái
và ái nam ái nữ - là chủ đề hiện nay được tranh luận sôi nổi. Bất kỳ cuộc đấu tranh nào
cũng có mặt tích cực bất kể ý kiến của người khác thế nào. "Vấn đề đồng tính luyến ái"
tạo cơ hội cho người Mỹ suy nghĩ một cách nghiêm túc về cuộc sống ở thế kỷ 21. Nó
giúp cho con người học cách chung sống với những người mà có thể họ không đồng tình.
Nó thúc đẩy họ phải xem xét quan điểm của mình và quyết định xem những quan điểm
đó có hợp lý hay không. Đồng tính luyến ái theo con người suốt trong một thời gian dài.
Người Mỹ bây giờ đã chú ý một cách đầy đủ đến vấn đề này.
Suy Nghĩ Cá Nhân
Đâu là những ý kiến đồng tình và phản đối việc làm luật "quyền bình đẳng" cho
những người đồng tính?Còn việc làm luật "quyền đặc biệt" thì sao?
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
1. Thiên Hướng Tình Dục là từ dùng để chỉ sự hấp dẫn về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến
và hấp dẫn về tình dục của một người đối với những người cùng giới, khác giới hay đối
với cả hai. Một người bị hấp dẫn bởi những người khác giới được gọi là heterosexual
(người có thiên hướng tình dục với người khác giới) Một người bị hấp dẫn bởi những

người cùng giới được gọi là người homosexual (đồng tính luyến ái) hay gay (đồng tình
nam) hay lesbian (đồng tính nữ). Người bị hấp dẫn bởi cả hai giới được gọi là bisexual
(ái nam ái nữ).Từ thiên hướng tình dục đượcưa chuộng hơn từ sở thích tình dục, vì sở
thích tình dục có ý rằng sự hấp dẫn tình dục là vấn đề của sự lựa chọn.
2. Vào những năm 1940 và 1950, Alfred Kinsey và các đồng nghiệp của ông đã đưa ra
khái niệm rằng thiên hướng tình dục tồn tại dọc một thể liên tục. Chúng ta cũng cần phân
biệt giữa thiên hướng tình dục với hành vi tình dục. Một người có thể có hoặc có thể
không lựa chọn việc thể hiện thiên hướng tình dục của mình. Theo ước tính hiện tại thì có
khoảng 4% nam giới và từ 1% đến 2% phụ nữ ở Mỹ là những người hoàn toàn đồng tính
luyến ái.
3. Không ai biết chính xác đâu là các nguyên nhân gây ra hiện tượng đồng tính luyến ái.
Đến nay, những cố gắng nhằm xác định cụ thể các nguyên nhân về mặt sinh học, tâm lý
học và xã hội vẫn chưa mang lại kết quả. Rất có khả năng, nguyên nhân của đồng tính
luyến ái là do những tương tác phức tạp của các nhân tố như sinh học, tâm lý học và xã
hội. Quan điểm này được biết đến dưới tên học thuyết tương tác về đồng tính luyến ái.
4. Cộng đồng các bác sĩ chăm sóc sức khỏe tinh thần, những người bị ảnh hưởng bởi học
thuyết của Freud, quan niệm một cách truyền thống cho rằng đồng tính luyến ái là một
căn bệnh rối loạn tinh thần. Tuy nhiên, cùng với những bằng chứng ra tăng cho thấy điều
ngược lại và thái độ thoải mái hơn về đồng tính luyến ái ở Mỹ, năm 1973, Hiệp Hội Tâm
Thần Mỹ đã bỏ phiếu tán thành việc loại bỏ đồng tính luyến ái coi đó như một dạng bệnh
tâm thần ra khỏi Triệu Chứng Và Sách Chỉ Dẫn Thống Kê Về Các Rối Loạn Tinh Thần
(DMS). Nhiều chuyên gia về tình dục lập luận rằng không có lý do gì, ít nhất là trên lĩnh
vực sức khỏe tinh thần, để phải cố gắng định hướng lại thiên hướng tình dục của người
đồng tính luyến ái.
5. Nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ có các mối quan hệ
gắn bó ràng buộc, và những người đồng tính luyến ái này, giống với những người có xu
hướng tình dục hướng người khác giới, đều thấy thỏa mãn với những quan hệ đó.
6. Các cặp đồng tính luyến ái có thể quyết định nuôi con. Những nhà nghiên cứu chỉ ra
rằng trẻ em được những người đồng tính luyến ái nuôi dưỡng không có gì khác so với trẻ
em được các cặp khác nuôi dưỡng ở những điểm quan trọng như sự điều chỉnh cuộc sống

chung, nhận dạng giới, vai trò về giới, và sự thông minh. Họ cũng chỉ ra rằng trẻ em được
những cặp đồng tính luyến ái nuôi dưỡng không có nhiều khả năng sẽ trở thành người
đồng tính luyến ái hơn những trẻ em được nuôi dưỡng bởi những cặp có thiên hướng tình
dục hướng giới tính khác.
7. Đồng tính luyến ái, tình dục hướng giới tính khác và ái nam ái nữ, tất cả những thiên
hướng tình dục này đều trải qua cùng các giai đoạn liên quan đến hưng phấn tình dục và
phản ứng. Những người đồng tính nam và những người đồng tính nữ phản ứng với các
kích thích tình dục và tham gia vào các hành vi tình dục giống với người có thiên hướng
tình dục hướng tới giới khác và người ái nam ái nữ.
8. Những người đồng tính nam và nữ đã thể hiện mình là người đồng tính thường phải
đối mặt với những công kích bằng lời nói, hành động và sự hành hung tình dục của
những cá nhân bị ám ảnh bởi sự đồng tính. Ám ảnh đồng tính (Homophobia) là từ không
những chỉ sự sợ hãi vô lý của những người sợ bị người khác coi là người đồng tính luyến
ái, mà nó còn là từ chỉ sự kinh bỉ dai dẳng và căm ghét những người đồng tính luyến ái.
Ám ảnh đồng tính luyến ái khiến một số người đánh những kẻ đồng tính nam hoặc chửi
rủa và/hoặc đối xử tàn ác đối với những người đồng tính luyến ái hoặc cả người có thiên
hướng tình dục hướng giới khác nhưng bị nhầm là người đồng tính.
9. Những người đồng tính nam và đồng tính nữ đang tích cực làm việc với tất cả các cấp
xã hội để nhằm thay đổi luật pháp, chống lại sự phân biệt đối xử trong công việc, sự quấy
rối tình dục, loại bỏ sự ám ảnh đồng tính và đánh những người đồng tính nam, vận động
gây quỹ phòng chống AIDS, giáo dục công chúng về tình dục đồng giới và đồng tính
luyến ái. Phong trào đòi quyền cho người đồng tính bắt đầu phát triển rầm rộ với cuộc
nổi loạn Stonewall năm 1969. Sau cuộc bạo loạn Stonewall, những người đồng tính nam
và đồng tính nữ tập hợp vào rất nhiều nhóm chẳng hạn như Lực Lượng Đặc Nhiệm Đồng
Tính Nam và Nữ Quốc gia.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×