VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ LINH TRANG
NGHIÊN CỨU HÀNH VI VĂN MINH ĐÔ THỊ
CỦA THANH NIÊN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành
Mã số: 62 31 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN QUỐC THÀNH
HÀ NỘI – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi và
tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung của luận án này trước Hội đồng
và trước pháp luật.
Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2013
Tác giả
Lê Thị Linh Trang
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 01
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC VỀ HÀNH VI VĂN MINH
ĐÔ THỊ CỦA THANH NIÊN
07
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 07
1.2. Hành vi và hành vi văn minh 18
1.3. Văn minh đô thị và hành vi văn minh đô thị 26
1.4. Hành vi văn minh đô thị của thanh niên 32
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh đô thị của thanh niên 45
Tiểu kết chương 1 55
CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
57
2.1. Nghiên cứu lý luận 57
2.2. Nghiên cứu thực tiễn 60
Tiểu kết chương 2 85
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN HÀNH VI VĂN
MINH ĐÔ THỊ CỦA THANH NIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ
THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG
86
3.1. Thực trạng biểu hiện hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố
Hồ Chí Minh
86
3.1.1. Nhận thức của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh về văn minh đô thị 86
3.1.2. Thái độ của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh về văn minh đô thị 92
3.1.3. Động cơ thực hiện hành vi văn minh đô thị 96
3.1.4. Biểu hiện bên ngoài hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố
Hồ Chí Minh
103
3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh đô thị của thanh niên
thành phố Hồ Chí Minh
121
3.3. Kết quả thực nghiệm tác động 125
3.4. Một số trường hợp điển hình 131
3.5. Một số biện pháp kích thích việc thực hiện hành vi văn minh đô thị của
thanh niên thành phố Hồ Chí Minh
135
Tiểu kết chương 3 137
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 139
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO 145
PHỤ LỤC 151
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Độ tin cậy của thang đo 65
Bảng 2.2: Mô tả mẫu nghiên cứu 67
Bảng 2.3: Cách cho điểm các câu hỏi trong phiếu trưng cầu ý kiến 75
Bảng 3.1: Nhận thức chung của thanh niên TPHCM 86
Bảng 3.2: Nguồn tìm hiểu để nhận biết văn minh đô thị, HVVMĐT 87
Bảng 3.3: Nhận thức về HVVMĐT trong mối quan hệ với người khác 88
Bảng 3.4: Nhận thức về HVVMĐT trong quan hệ với bản thân 89
Bảng 3.5: Nhận thức về HVVMĐT trong quan hệ với môi trường 90
Bảng 3.6: Thái độ chung đối với việc thực hiện HVVMĐT 92
Bảng 3.7: Thái độ đối với hành vi thuộc nhóm quan hệ với người khác 93
Bảng 3.8: Thái độ đối với hành vi thuộc nhóm quan hệ với bản thân 94
Bảng 3.9: Thái độ đối với hành vi thuộc nhóm quan hệ với môi trường 95
Bảng 3.10: Động cơ nói chung khi thực hiện HVVMĐT 96
Bảng 3.11: Ứng xử khi đèn tín hiệu giao thông đỏ lên 97
Bảng 3.12 : Ứng xử khi bị kẹt xe ngoài đường phố 98
Bảng 3.13: Ứng xử khi có người cần được trợ giúp 99
Bảng 3.14: Ứng xử khi thấy người bẻ hoa trong công viên 99
Bảng 3.15: Động cơ thực hiện hành vi thuộc nhóm quan hệ với người khác 100
Bảng 3.16: Động cơ thực hiện hành vi thuộc nhóm quan hệ với bản thân 101
Bảng 3.17: Động cơ thực hiện hành vi thuộc nhóm quan hệ với môi trường 102
Bảng 3.18: Mức độ biểu hiện HVVMĐT trong mối quan hệ với người
khác theo điểm trung bình
103
Bảng 3.19: Mức độ thực hiện HVVMĐT thể hiện trong mối quan hệ với
chính bản thân
110
Bảng 3.20: Mức độ biểu hiện HVVMĐT của thanh niên TPHCM thuộc
nhóm quan hệ với môi trường.
116
Bảng 3.21: Lý do có nhiều rác ở mọi nơi 117
Bảng 3.22: Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến HVVMĐT của thanh niên
TPHCM
121
Bảng 3.23: các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến HVVMĐT của thanh 122
niên TPHCM
Bảng 3.24: Biểu hiện HVVMĐT ở một số nơi cụ thể 123
Bảng 3.25: So sánh nhận thức, thái độ và xu hướng hành vi của nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng trước khi tác động
126
Bảng 3.26: So sánh nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng sau khi tác
động
127
Bảng 3.27: Kết quả quan sát thực nghiệm 129
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: So sánh trung bình nhận thức của thanh niên TPHCM về 3
nhóm hành vi
91
Biểu đồ 3.2. So sánh điểm trung bình về thái độ của thanh niên TPHCM
đối với 3 nhóm HVVMĐT
96
Biểu đồ 3.3: So sánh điểm trung bình động cơ thực hiện HVVMĐT của
thanh niên TPHCM theo 3 nhóm hành vi
102
Biểu đồ 3.4: Mức độ thực hiện HVVMĐT tổng hợp theo các nhóm 120
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hành vi của con người trong các lĩnh vực hoạt động được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Đặc biệt trong bối cảnh tính ứng dụng của tâm lý học ngày càng
được khẳng định và mang lại những kết quả rất tốt cho đời sống xã hội nói chung và
cho từng cá nhân nói riêng. Những vấn đề xã hội đang được các chuyên gia phân
tích dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó góc độ tâm lý đang được chú ý nhiều
hơn. Những cách thức lý giải về các loại hành vi phù hợp hoặc không phù hợp với
chuẩn mực xã hội được chú ý từ khía cạnh tâm lý học đang là một xu hướng ngày
càng rõ nét.
Những hành vi cụ thể trên từng thể loại cần được đầu tư nghiên cứu một cách có hệ
thống để góp phần làm sáng tỏ các cơ sở tâm lý học của hành vi, những đặc trưng
của các hành vi cụ thể để định hướng và thích ứng với sự biến đổi không ngừng và
rất đa dạng của xã hội đương đại. Lý luận tâm lý học về hành vi văn minh đô thị
đang rất cần được nghiên cứu để làm cơ sở cho việc đề xuất các phương pháp
nghiên cứu, phát động thực hiện nếp sống văn minh và hình thành các hành vi văn
minh đô thị trong giai đoạn hiện nay. Hành vi văn minh đô thị thể hiện trình độ văn
hóa, thể hiện giá trị cá nhân, biểu thị các phẩm chất nhân cách của từng chủ thể,
phản ánh lối sống của người dân đô thị và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực
hiện các yêu cầu của một xã hội hiện đại, một xã hội công dân. Tuy vậy, lý luận tâm
lý học về hành vi văn minh đô thị còn chưa được đề cập và nghiên cứu một cách
thỏa đáng. Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị dưới góc độ tâm lý học sẽ góp phần
làm rõ cơ sở lý luận về sự hình thành, phát triển và biểu hiện của loại hành vi này.
Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị thực sự là vấn đề của tâm lý học hiện đại.
Văn minh là thước đo cơ bản của một xã hội hiện đại. Một đô thị hiện đại, trước hết
đô thị ấy phải là đô thị văn minh. Văn minh đô thị không phải tự nhiên hình thành
mà nó được xây dựng từ nỗ lực và quyết tâm của những người sống trong đô thị đó,
được khơi nguồn từ ý thức người dân trong cộng đồng. Lãnh đạo thành phố Hồ Chí
Minh đã xác định: “Sử dụng các biện pháp tổng hợp với nhiều hình thức sinh động
để giáo dục, thực hiện nếp sống văn minh” [61,tr 84]. Hiện nay việc nhận thức về
1
văn minh đô thị, nếp sống và hành vi văn minh đô thị của các đối tượng công dân
chưa được nghiên cứu một cách cơ bản để có cơ sở đánh giá và đề xuất các biện
pháp xây dựng các hành vi văn minh đô thị phù hợp, đặc biệt là đối với giới trẻ. Số
lượng người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống có khuynh hướng gia
tăng hàng năm, điều này càng làm cho thành phố “giãn” ra về mặt địa lý, đông nhân
khẩu hơn, phố phường chật chội hơn, các nếp sinh hoạt càng được yêu cầu cao hơn.
Hàng ngày có thể nhận thấy sự bức xúc của nhiều người khi chứng kiến cảnh chen
lấn xô đẩy ngột ngạt tại các bến tàu, bến xe, nhà ga, cảnh xả rác bừa bãi tại các nơi
công cộng, cảnh lớn tiếng trong đêm khuya Đặc biệt trong các dịp lễ hội như Tết
nguyên đán, ngày lễ giải phóng đất nước hay ngày Quốc khánh, lễ Noel việc
nhiều người thoải mái thể hiện sự tự do vô tổ chức qua các hành vi cá nhân, với
những thói quen vốn có trong sinh hoạt ở nông thôn, tại nơi tôn nghiêm, nơi công
cộng đã làm bức tranh văn minh đô thị càng trở nên lộn xộn hơn nữa. Những diễn
biến mới về phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng dân số cũng như tốc độ đô thị
hoá gần đây đã làm cho những bất bình đẳng ngày càng gia tăng, sự bất bình đẳng
ngay trong nội bộ một đô thị cũng đang ngày càng trở thành mối quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà hoạt động thực tiễn. Với tốc độ phát triển đô thị
hiện tại, nếu không nhanh chóng xác định cách sống phù hợp để đáp ứng yêu cầu
của xã hội mới thì sự phát triển chắc chắn sẽ gặp những trở ngại nhất định.
Những kết quả nghiên cứu về hành vi văn minh đô thị sẽ giúp các cơ sở đào tạo, các
cơ quan thông tin, truyền thông vận dụng thực hiện chức năng của mình có hiệu quả
trong vấn đề xây dựng, rèn luyện hành vi văn minh đô thị cho các đối tượng công
dân. Nghiên cứu và đề xuất hệ thống biện pháp xây dựng hành vi văn minh đô thị ở
thành phố Hồ Chí Minh không chỉ hướng tới việc xây dựng một nếp sống đô thị
hiện đại mà còn có ý nghĩa tích cực tác động, ảnh hưởng đến sự chuyển biến trên
nhiều lĩnh vực khác của thành phố trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xây
dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố văn minh hiện đại và đậm đà
bản sắc dân tộc không chỉ là nguyện vọng của cư dân thành phố mà còn là một cơ
sở vững chắc để tiến hành hiện đại hóa, văn minh hóa các thành phố khác trên cả
nước.
2
Thanh niên là lực lượng nòng cốt của xã hội, là những người rất nhạy bén với sự
mới mẻ, là những người rất dễ thích ứng và thích ứng nhanh chóng với những thay
đổi. Đối tượng thanh niên ngày nay với các đặc điểm tâm - sinh lý phong phú, phức
tạp thể hiện các hành vi văn hóa nói chung và hành vi văn minh đô thị nói riêng
chưa thực sự thường xuyên và tạo ra một phong trào rộng khắp, do đó việc nghiên
cứu hành vi văn minh đô thị của thanh niên rất cần thiết vì thanh niên có vai trò đặc
biệt trong việc thực hiện các chương trình hoạt động thực tế của xã hội.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, quận 1 là địa phương đầu tiên phát động việc
thực hiện các hành vi văn minh đô thị, đã thực hiện đề án: “Xây dựng nếp sống văn
minh đô thị trên địa bàn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”. Ủy ban nhân dân quận 1
đã có những nhận xét hết sức đáng chú ý trong báo cáo sơ kết đề án này: “Vẫn còn
các khu dân cư có tệ nạn xã hội, vẫn còn thái độ thiếu tôn trọng nhân dân ở các
công sở, vẫn còn tình trạng kẹt xe gây tắc nghẽn giao thông do phóng nhanh vượt
ẩu, vẫn còn tình trạng khạc nhổ, xả rác ra đường và các hành vi khiếm nhã nơi công
viên, đặc biệt là đối với thanh niên. Ý thức của một bộ phận dân chúng về giữ gìn
vệ sinh văn minh đường phố chưa cao, hiện tượng chèo kéo khách du lịch tranh
mua, giành bán, lang thang ăn xin trên đường phố ở một vài nơi vẫn còn làm hạn
chế kết quả thực hiện nếp sống văn minh đô thị trên địa bàn quận”.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận tâm lý học về hành vi văn minh đô thị, chỉ rõ thực trạng
hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh và những yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi văn minh của họ. Từ đó, đề xuất các biện pháp xây dựng
hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh theo hướng tích
cực.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Khách thể nghiên cứu
3
1120 thanh niên sống tại thành phố Hồ Chí Minh, (gồm học sinh, sinh viên,
thanh niên địa bàn dân cư), 30 thanh niên được chọn làm nghiệm thể thực nghiệm
tác động.
4. Giả thuyết khoa học
Thanh niên thành phố Hồ Chí Minh nhận thức chưa rõ về hành vi văn minh đô thị,
có thái độ chưa tích cực về việc thực hiện hành vi văn minh đô thị và có động cơ
thực hiện hành vi văn minh đô thị chưa mạnh. Biểu hiện hành vi văn minh đô thị
của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh trên 3 nhóm: quan hệ giữa thanh niên với
bản thân, quan hệ giữa thanh niên với người khác và quan hệ giữa thanh niên với
môi trường ở mức độ trung bình.
Nếu có biện pháp nâng cao nhận thức, xác định rõ giá trị bản thân, hình thành thói
quen văn minh đô thị và cải thiện điều kiện cơ sở vật chất tại nơi làm việc và nơi
công cộng thì thanh niên thành phố Hồ Chí Minh sẽ thực hiện hành vi văn minh đô
thị tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản của tâm lý học về hành vi, hành
vi văn minh đô thị của thanh niên.
5.2. Đánh giá thực trạng mức độ biểu hiện hành vi văn minh đô thị của thanh
niên thành phố Hồ Chí Minh, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh đô thị của
họ.
5.3. Đề xuất và tổ chức thực nghiệm biện pháp nhằm giáo dục và rèn luyện
hành vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về đối tượng nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu hành vi văn minh ở đô thị của thanh niên trong mối quan hệ với
người khác, với môi trường sống trực tiếp hàng ngày của thanh niên và với chính
bản thân thanh niên.
6.2. Về địa bàn nghiên cứu
4
Đề tài lựa chọn nghiên cứu thanh niên của 5 quận nội thành: 4 quận đại diện cho
các quận cũ của nội đô, 1 quận mới hình thành sau đổi mới và 2 huyện ngoại thành
6.2. Về khách thể nghiên cứu
Khách thể được giới hạn trong độ tuổi đầu thanh niên (16 - 22). Chọn mẫu tại các
quận, huyện đoàn. Riêng khách thể thực nghiệm chọn lớp tập huấn kỹ năng sống
được tổ chức cho thanh niên tại trường Đoàn Lý Tự Trọng - thành phố Hồ Chí
Minh.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
7.1.1. Tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách
7.1.2. Tiếp cận hệ thống
7.1.3. Tiếp cận liên ngành
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
7.2.5. Phương pháp quan sát
7.2.6. Phương pháp thực nghiệm tác động
7.2.7. Xử lý số liệu bằng thống kê toán học, trợ giúp bằng phần mềm SPSS
8. Đóng góp mới của luận án
8.1. Đóng góp mới về mặt lý luận
Làm phong phú thêm lý luận tâm lý học về hành vi và hành vi văn minh đô thị của
thanh niên thể hiện trong ứng xử với môi trường sống, với những người xung quanh
nơi công cộng và với chính bản thân mình. Hành vi văn minh ở đô thị là hành vi thể
hiện trình độ văn hóa của chủ thể, là cơ sở để xây dựng phong cách ứng xử giữa con
người với hiện thực chung quanh.
5
8.2. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
Vận dụng các lý luận tâm lý học về hành vi văn minh đô thị vào nghiên cứu hành vi
văn minh đô thị của thanh niên thành thị; chỉ ra mức độ thực hiện hành vi văn minh
đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân của việc chấp hành
không tốt các qui tắc ứng xử ở đô thị. Đề xuất 5 biện pháp giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức, thái độ và thực hiện hành vi văn minh đô thị của thanh niên.
Cung cấp một số thông tin, tư liệu để hỗ trợ các nhà quản lý xã hội, các nhà giáo
dục, các cán bộ đoàn thể tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình
trong công tác thanh niên. Kết quả nghiên cứu góp phần giúp các cơ sở giáo dục
thanh thiếu niên nói chung trong công tác tuyên truyền, vận động để hình thành và
củng cố hành vi văn minh đô thị của thanh niên và trong các khóa đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ đoàn, cán bộ hội tại trường Đoàn Lý Tự Trọng thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận tâm lý học về hành vi văn minh đô thị
- Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm các biểu hiện hành
vi văn minh đô thị của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC
VỀ HÀNH VI VĂN MINH ĐÔ THỊ CỦA THANH NIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Những nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến hành vi văn minh đô thị có 3 hướng
nghiên cứu chính như sau: hướng nghiên cứu về hành vi của thanh niên và những
hệ quả của các hành vi lệch chuẩn của thanh niên, hướng nghiên cứu về hành vi văn
minh của con người và của thanh niên nói riêng và hướng nghiên cứu về các hành
vi của con người và của thanh niên trong cuộc sống đô thị ngày nay.
1.1.1.1. Hướng nghiên cứu về hành vi của thanh niên và những hệ quả của
các hành vi lệch chuẩn.
Tác giả Michael Rulter trong công trình “What do we mean by “Antisocial
behavior” and “Young people”?” đã trình bày nhiều quan điểm về các hành vi
chống đối xã hội của những người trẻ tuổi, đặc biệt là thanh niên. Tác giả đặt ra
những câu hỏi và lý giải về hiện tượng chống đối xã hội này. Tại sao thanh niên lại
có những hành vi chống đối xã hội? Thanh niên hiện nay, họ là ai? Họ đang sống
trong một hệ thống xã hội như thế nào? Làm thế nào để thay đổi hành vi của thanh
niên trong vấn đề này? Công trình này đã khẳng định rằng “các hành vi chống đối
xã hội của thanh niên xuất phát từ các yếu tố xã hội là chủ yếu, từ sự bất bình đẳng
trong mối quan hệ giữa người và người trong xã hội” [ 86]
Các tác giả Loeber và Hay của Viện nghiên cứu tâm thần Phương Tây nước Mỹ cho
rằng, những hành vi lệch chuẩn của thanh niên, những hành vi thiếu kềm chế của
giới trẻ phần lớn là do ảnh hưởng của môi trường sống, của những nhóm bạn hoặc
những tác động tiêu cực từ cộng đồng hoặc ngay cả gia đình mà thanh niên đó sinh
sống” [ 82]
Tác giả Spiros Tzelepis của Hội nghiên cứu Tâm lý học bang New York nước Mỹ
đã phân tích trong công trình “According to youth Risk behavior servey” nhiều vấn
đề cụ thể về các hành vi bạo lực của học sinh, sinh viên. “Trong toàn nước Mỹ đã
7
có trung bình 14.8% học sinh, sinh viên từng đánh nhau gây thương tích. Nhìn
chung, nam sinh viên (20%) có nhiều khả năng gây hấn và đánh nhau hơn so với
học sinh nữ (8,6%). Sự khác biệt có ý nghĩa về vấn đề này cũng được xác định cho
học sinh da trắng và gốc Tây Ban Nha và tất cả các nhóm lớp”[97].
Tác giả Diah Wisenberg Brin với bài “Internet changing young people’s thinking
and behavior” trên tạp chí HP Magazin nước Anh cho rằng các phương tiện truyền
thông hiện đại đã góp phần làm thay đổi nhận thức và hành vi của giới trẻ, đặc biệt
là internet, phương tiện làm thế giới xích lại quá gần nhau trên mọi phương
diện”[74]
Nhóm tác giả thuộc khoa Giáo dục, đại học Cambrige với công trình nghiên cứu
“Hỗ trợ hành vi xã hội cho thanh niên” đã phân tích các hành vi của thanh niên dưới
góc độ của nhà sư phạm và đề xuất một số cách thức hỗ trợ hành vi của thanh niên
trong các cộng đồng và trong việc thực hiện các chương trình xã hội, tình nguyện.
[69]
Tác giả Kent E. Portney của Đại học Boston, Mỹ đã giới thiệu và phân tích sâu sắc
về các hành vi chính trị của những người trẻ tuổi ngày nay. Sau khi giới thiệu về
hành vi chính trị, tác giả cho rằng “Ngày nay sự tham gia các hoạt động chính trị
của người trẻ được nhìn nhận như là một hiện tượng thông thường nhưng hiện nay,
việc tham gia các hoạt động chính trị của giới trẻ có khác khá nhiều so với giới trẻ
trước đây, đặc biệt là trong vấn đề thực hiện quyền của một cử tri khi tham gia các
cuộc bầu cử, dù ở cấp nào cũng vậy” [80]
Liabo Kristin, Joanna Richardson, nhóm tác giả của “Child and Adolescent Mental
Health Center” của Anh trong công trình nghiên cứu “Conduct Disorder and
Offending Behavior in Young People” đã trình bày các tài liệu và một số kỹ thuật,
phương pháp tiếp cận điều trị đối với rối loạn hành vi trẻ vị thành niên và người
phạm tội trẻ tuổi. Các tác giả cũng phản ánh một cái nhìn tổng quan của tình trạng
này bao gồm các tiêu chí để chẩn đoán rối loạn hành vi, và các dịch vụ cho thanh
thiếu niên. Theo các tác giả này thì “các rối loạn và hành vi vi phạm ở những người
trẻ tuổi là vấn đề hết sức phức tạp cần có sự hỗ trợ và giải quyết của nhiều cơ quan
với những giải pháp đa dạng”[84]
8
Trong công trình nghiên cứu “The theory of planned behavior applied to young
people's use of social networking Web sites” tác giả Pelling. EL thuộc Queensland
University of Technology, Australia đã nhận định rằng “Nhìn chung, việc sử dụng
mạng xã hội bị ảnh hưởng bởi thái độ, quy phạm, và các yếu tố thuộc về bản sắc của
con người nói chung và giới trẻ nói riêng. Việc phát hiện vấn đề này có thể được sử
dụng để thiết kế các chiến lược nhằm mục đích để thay đổi mức độ sử dụng hoặc
khuynh hướng gây nghiện mạng xã hội của giới trẻ.”[89]. Tác giả Marthairvine của
Đại học Chicago, Mỹ cho rằng “Nhiều nhà quản lý và những người khác tại nơi làm
việc từ lâu đã cho rằng sinh viên đại học gần đây thường nói đến những kỳ vọng
cao bất hợp lý đối với tiền lương sau khi ra trường và họ cũng không muốn có
những lời chỉ trích đối với họ. Rất nhiều trong số họ có một sự tự tin rằng chúng tôi
muốn điều chúng tôi có, họ đã tự tin thái quá” [85]. Nhà tâm lý học Jeffrey Arnett,
một giáo sư nghiên cứu ở khoa tâm lý học tại Đại học Clark ở Massachusetts cũng
nói. “Nghiên cứu tuổi trẻ ngày nay như nghiên cứu "tuổi trưởng thành mới nổi",
một thuật ngữ đã được đặt ra để mô tả khoảng thời gian từ 18 tuổi đến 29 khi nhiều
người trẻ đang tìm kiếm vị thế của họ một cách mạnh mẽ và đầy tự tin” [68]
Trong công trình nghiên cứu “Young Adults' Information Behavior: What We
Know So Far and Where We Need to Go from Here” của nhóm tác giả Denise E.
Agosto, Advisory Board Member đăng trên “Journal of Research on Libraries and
Young Adults” University Illinois, Mỹ đã có những nhận xét rất cụ thể về các nhu
cầu thông tin của thanh niên thể hiện qua các hành vi thu nhận, xử lý thông tin.
Nghiên cứu này cho rằng, “thanh niên thường thiếu kiến thức nguồn, kiến thức nền
và thiếu kiến thức tình huống, một số thanh niên né tránh các thông tin về mình và
một số thanh niên rơi vào tình trạng quá tải thông tin” [74]
Luận án tiến sĩ “Media influence on deviant behavior in middle school” của tác giả
Adrian D. Pearson thuộc North Carolina University cho rằng “Hiện đang có nhiều
câu hỏi phải được trả lời: Tại sao nhiều hành vi lệch lạc của giới trẻ Mỹ có khuynh
hướng gia tăng trong vòng mười đến mười lăm năm qua? Có một mối tương quan
nào giữa sự gia tăng phương tiện truyền thông đến việc thực hiện các hành vi này
không?” Luận án này đề cập đến những tác động tiêu cực từ các phương tiện truyền
thông đến các hành vi chống đối xã hội, truyền thông như một yếu tố quan trọng
9
góp phần làm các học sinh nghĩ đến việc chống đối xã hội và gây rối. Luận án cũng
cung cấp một cách tổng quan về các yếu tố khác được xác định trong vấn đề này, đó
là việc thiếu sự hỗ trợ của gia đình, một số học sinh ít có lòng tự trọng và ít có sự
kiểm soát từ bên ngoài. [ 63]
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu về hành vi văn minh của con người nói chung và
của thanh niên nói riêng
Tác giả Anton Chekhov trong “A Life in Letters” đã đề xuất 8 tiêu chí để xác định
hành vi của người văn minh:
- Họ tôn trọng con người như một cá nhân, luôn luôn khoan dung, nhẹ
nhàng, lịch sự và tuân theo các qui định đã được xác lập
- Họ có lòng từ bi đối với người khác ngoài những người ăn xin và những
con mèo. Trái tim của họ bị lay động về những gì đang nhìn thấy bằng mắt thường
gây cho họ sự xót xa
- Họ tôn trọng tài sản của người khác, và do đó trả nợ khi đến hạn
- Họ không quanh co, không nói dối ngay cả trong vấn đề tầm thường
nhất. Nói dối với một người nào đó là xúc phạm họ, họ cư xử trên đường phố như
khi họ ở nhà.
- Họ không hạ mình xuống để gây được cảm tình của người khác.
- Họ không bắt chước, sao chép hành vi của người nổi tiếng.
- Họ tự hào về tài năng của mình nếu họ có tài.
- Họ không sống bản năng.[ 65]
Ralph S. Marston, Jr. với bài viết “Civilized behavior” trong Daily Motivator 2004
đã cho rằng: “Để cho nền văn minh được chứng minh, chúng ta phải thực hành lịch
sự, tôn trọng hành vi của người khác để được người khác tôn trọng lại”[91]
Nhóm tác giả trong tác phẩm “Rules for civilized behavior” đã khẳng định “Khi
thực hiện một hành vi được cho là văn minh, người ta phải lưu tâm đến giá trị của
hành vi đó trong nhận thức của mình, sau đó họ phải lựa chọn cách ứng xử phù hợp
với mình”[97]. Các tác giả cho rằng những hành vi văn minh được các cá nhân thực
hiện lúc nào cũng phụ thuộc vào sự hiểu biết, về trình độ lượng giá vấn đề của cá
nhân đó trong một tình huống cụ thể.
10
Tác giả Lucinda Holdforth trong cuốn sách “Why Manners Matter: The Case For
Civilized Behavior in a Barbarous World” đã trình bày và phân tích khá sâu sắc về
những ứng xử văn minh trong một tình huống bất thường hoặc “không văn minh”.
Tác giả cho rằng, người ta phải lịch sự với người khác vì ứng xử lịch sự với người
khác như là một nhu cầu của mình vậy. Không nên có cách suy nghĩ và ứng xử kiểu
như: Tôi muốn làm những gì tôi muốn cho tôi mặc dù có thể làm cho bạn lâm vào
cảnh khốn cùng.”[83]. Đề cập đến các hành vi văn minh dưới góc nhìn văn hóa -
tâm lý, tác giả cho rằng “Hành vi văn minh là cách thức cư xử hiện đại, là triết lý
của các nhà tư tưởng về cuộc sống hiện đại”.[83]
Tác giả Jame Mann trong tác phẩm “Civilized behavior – Truth to power” khi phê
bình các hành động của chiến tranh có nhận xét rằng “Một hành vi nếu mâu thuẫn
với hành vi văn minh thì không thể nói đó là một hành vi yêu nước được”[78]. Còn
tác giả Keith Thomas trong “Toward civilized behavior” đề cập đến hành vi văn
minh như là nói đến mối quan hệ và ứng xử giữa Người với Người, trong đó các
hành vi thông thường như ăn uống, thích ứng với môi trường được thực hiện như
thế nào để người khác không cảm thấy lố bịch [81]. Đối với tác giả Itzkoff
Seymour. W trong “The making of the civilized mind” thì đề cập đến hành vi văn
minh như là một hành vi có tính trí tuệ cao. [77]
1.1.1.3. Hướng nghiên cứu về hành vi của con người trong đô thị ngày nay.
Samual P. Huntingtion với “Civilizations and the recreating of world order”
[Penguin group] cho rằng “Hành vi văn minh tại đô thị phụ thuộc vào môi trường
và có tác động đến môi trường, mối quan hệ giữa hành vi văn minh và môi trường
rất đặc biệt.”[96] Milgram Stanley trong bài viết “What are the differences between
urban and rural behavior?” mô tả các hành vi văn minh trong môi trường đô thị bắt
đầu từ sự thay đổi lối sống, nếp sống, đặc biệt là đối với mối quan hệ ứng xử giữa
người với người trong môi trường đô thị. [76].
Tập thể tác giả trong công trình nghiên cứu “Siences fairs projecters” đề cập đến vai
trò rất quan trọng của “tự ý thức bản thân” trong quá trình hình thành các hành vi
văn minh, lối sống văn minh ở đô thị [95]
Tác giả Ahmed A L Mahbub Uddin trong “Weber’s perspective on the city and
culture” cho rằng những yếu tố văn hóa có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành
11
những khuôn mẫu ứng xử, những khuôn mẫu ứng xử này quay lại ảnh hưởng đến
việc duy trì các giá trị văn hóa.[66]
Công trình nghiên cứu “Suicidal Behavior in Urban American Indian” của tác giả
Freedenthal. S của hiệp hội nghiên cứu tự tử Mỹ “The American Association of
Suicidology” năm 2004 cho rằng, những người tự tử trẻ tuổi ở đô thị thường có vấn
đề về tâm lý và phần lớn mang màu sắc lạm dụng. [73]
Tác giả SE McKinney trong nghiên cứu qua đánh giá xếp loại ABC giáo viên
trường phổ thông “Managing Student Behavior in Urban Classrooms: The role of
Teachers” đã nhận định rằng, muốn quản lý hành vi, ứng xử của học sinh trong lớp
học theo các chuẩn mực thì người giáo viên phải am hiểu những diễn biến tâm lý
và các tình trạng xã hội khác từ phía gia đình, bè bạn của học sinh” [98]
Có thể nhận thấy rằng, các khuynh hướng nghiên cứu trên đây của các tác giả nước
ngoài có đề cập đến hành vi của thanh niên dưới góc nhìn tâm lý học, văn hóa học
nhưng phần lớn ở dạng mô tả và trình bày những thông tin trong nghiên cứu thực
tiễn. Những hành vi văn minh được các tác giả nước ngoài trình bày khá chi tiết trên
các bình diện ứng xử của con người nhưng cũng mang tính khái quát, chưa phân
tích cụ thể mối quan hệ giữa các chủ thể với hiện thực chung quanh. Những hành vi
trong môi trường đô thị hiện đại được các tác giả nước ngoài phân tích khá rõ, đặc
biệt là những tác động khách quan đến các hành vi văn minh. Đây cũng là cơ sở để
tham khảo nghiên cứu vấn đề văn minh đô thị hiện nay và hành vi văn minh đô thị
của thanh niên hiện nay cho luận án.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, có thể lưu ý đến 2 hướng nghiên cứu: hướng nghiên cứu về hành vi,
hướng nghiên cứu về hành vi văn minh đô thị
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu về hành vi
Ở Việt Nam, tác giả Phạm Minh Hạc đã có công trình “Hành vi và hoạt động”
khẳng định phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân cách, định hướng cho nghiên
cứu tâm lý học lý luận và ứng dụng ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận về hành vi
của mỗi trường phái tâm lý học còn nhiều điều khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp
cận, do đó việc định hướng nghiên cứu từng loại hành vi cụ thể của con người có sự
12
khác nhau, hệ thống các cách thức điều khiển, thích ứng hành vi cũng sẽ khác nhau.
[12]
Trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng, các hành vi được xem xét là những biểu hiện
bên ngoài chịu sự tác động từ những động cơ bên trong với những công trình nghiên
cứu về hành vi tổ chức, hành vi tiêu dùng, hành vi khách hàng, hành vi tài chính,
hành vi tội phạm, hành vi tình dục Đặc biệt gần đây các tác giả Việt Nam đã có
nhiều quan tâm đến hành vi tiêu dùng và hành vi khách hàng. Một số công trình
nghiên cứu về hành vi tiêu dùng ở Việt Nam đã tham khảo ý tưởng về lý thuyết “tài
chính hành vi” khi cho rằng “Tài chính hành vi” là một hệ lý thuyết kinh tế đòi hỏi
phải hiểu và dự đoán được những ẩn ý trong hệ thống thị trường tài chính của việc
đưa ra những nhận định và quyết định cụ thể [23]. Bằng cách hiểu hành vi của con
người và cơ chế tâm lý khi đưa ra các quyết định tài chính, những mẫu tài chính
chuẩn có thể được nâng cao để phản ánh và giải thích tốt hơn thực tế phát triển của
thị trường ngày nay. “Tài chính hành vi” là một bộ phận của các môn học về tài
chính, các nội dung này là cơ sở giúp con người hiểu và dự đoán được các dấu hiệu
của hệ thống thị trường tài chính để có các quyết định tâm lý. “Tài chính hành vi
gần như bao gồm cả hành vi con người và hiện tượng thị trường và sử dụng các
kiến thức có được từ ngành tâm lý học và lý thuyết tài chính” [94]
Cũng trong xu thế ứng dụng tâm lý học hành vi, tác giả Nguyễn Như Chiến với luận
án tiến sĩ “Nghiên cứu hành vi chấp hành luật giao thông đường bộ của học sinh
trung học cơ sở khi tham gia giao thông” đã có những phân tích khá rõ nét về diễn
biến hình thành và biểu hiện hành vi tham gia giao thông của học sinh nói riêng và
con người xã hội nói chung. Luận án của tác giả Nguyễn Như Chiến đã chỉ ra thực
trạng hành vi chấp hành luật giao thông đường bộ của học sinh trung học cơ sở
(THCS) khi tham gia giao thông dựa trên số liệu thu được từ nhiều nguồn thông tin
khác nhau; phân tích các yếu tố tâm lý, xã hội ảnh hưởng đến hành vi chấp hành
luật giao thông của học sinh THCS. Các phân tích, so sánh được tiến hành theo
nhiều chiều cạnh khác nhau như: theo biến số lớp học, theo giới tính, theo học lực,
hạnh kiểm của học sinh, theo khu vực trường… đã làm rõ được các mức độ chấp
hành, những sai phạm luật giao thông của học sinh.[4]
13
Tài liệu tham khảo Tạp chí Giáo dục mầm non tháng 2/2008 với chuyên đề “Giáo
dục hành vi văn hóa cho trẻ” không chỉ đề xuất những yêu cầu cho trẻ mà cho cả
người lớn, cho thầy cô giáo để ứng xử có văn hóa với những hành vi văn hóa. Các
công trình nghiên cứu trên đây đã có những phân tích khá chi tiết về những vấn đề
lý luận về hành vi, cơ cấu hành vi, những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của từng
đối tượng, đặc biệt phác thảo thực trạng thực hiện hành vi với những nội dung đa
dạng.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về hành vi văn minh đô thị
Việc nghiên cứu những vấn đề tâm lý văn hóa, tâm lý đô thị ở Việt Nam chưa được
khai phá và đầu tư thỏa đáng, ngoài những nghiên cứu về giao tiếp, về tâm lý cộng
đồng, tâm lý học về hành vi tiêu dùng những nghiên cứu hành vi văn hóa, văn
minh nói chung, hành vi văn minh đô thị vẫn còn khá ít ỏi.
Ở Việt Nam, vấn đề nếp sống thị dân và văn minh đô thị đã được nhiều tác giả đề
cập trong các công trình nghiên cứu, các bài báo và các ý kiến phát biểu của nhiều
nhà nghiên cứu thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt khi Hội đồng nhân
dân (HĐND) thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) lấy năm 2008 và tiếp tục năm 2009
là năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị thì vấn đề càng được quan tâm nhiều
hơn, rộng hơn và sâu sắc hơn. Có thể nói rằng các công trình nghiên cứu trong
nước đã mở ra nhiều hướng tiếp cận để tiếp tục nghiên cứu môi trường đô thị đang
càng ngày càng định hình rõ nét hơn ở TPHCM nói riêng và cả nước nói chung.
Các nghiên cứu trong nước tuy rất đa dạng và hết sức phong phú nhưng có thể khái
quát trên các vấn đề sau đây:
- Một số nội dung, khái niệm về nếp sống văn minh, thực trạng nếp sống xã
hội hiện nay. Nhiều nghiên cứu nêu những bức xúc cần giải quyết trong xây dựng
nếp sống văn minh, xác định hệ chuẩn mực nếp sống văn minh trong giai đoạn mới.
Một số lý luận về xây dựng nếp sống văn minh trong bối cảnh hiện nay và dự báo
về nếp sống đô thị của dân tộc Việt đến năm 2020. Những hệ chuẩn mang tính qui
tắc của nếp sống văn minh đô thị - những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng nếp
sống văn minh đô thị. Các tác giả trong nước cũng đề cập đến những thay đổi bộ
mặt của đô thị Việt Nam trong những năm qua dẫn đến những thay đổi về cách
sống, về lối sống để thích nghi với “xã hội mới”. Trong xu hướng này có đề tài
14
khoa học của tác giả Hà Học Hợi “Một số vấn đề lý luận về xây dựng nếp sống văn
minh. Xây dựng nếp sống văn minh trong bối cảnh dân tộc và thời đại hiện nay”
năm 2003. Cũng trong năm này, công trình nghiên cứu “Nghiên cứu, xây dựng
chương trình giáo dục nếp sống văn minh thí điểm trên truyền hình” của tác giả
Nguyễn Nghĩa Trọng thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã được nghiệm thu
và đưa vào ứng dụng. Ngoài ra còn có đề tài của tác giả Nguyễn Thế Cường năm
2002 “Xây dựng trật tự đô thị TPHCM từ cách tiếp cận văn hóa xã hội” nói lên
được một số khía cạnh của những hành vi bảo đảm trật tự đô thị
- Khuynh hướng nghiên cứu về việc điều chỉnh chính sách quản lý đô thị
trong tình hình mới, từ việc điều chỉnh qui hoạch hạ tầng đến qui hoạch dân cư và
các khu vực chuyên biệt khác, từ việc hình thành các khu đô thị tự phát đến việc
định hướng phát triển đô thị có sự kiểm soát. Nhiều tác giả cũng đề cập đến khả
năng quản lý đô thị của Việt Nam để đề xuất các giải pháp quản lý đô thị phù hợp,
trong đó có đề cập đến việc hình thành lối sống mới, hình thành các thói quen sinh
hoạt ở đô thị và trở thành hành vi văn minh đô thị. “Sự thay đổi chức năng từ đô thị
hành chính sang đô thị kinh tế - chính trị - văn hóa, kết hợp với việc mở rộng diện
tích cùng xu thế nhà cửa phố xá được tổ chức, xây dựng hiện đại hơn, hệ thống giao
thông hoàn thiện hơn dẫn đến việc hình thành một tiền đề vật chất quan trọng để các
tầng lớp dân cư đô thị thiết kế một sinh hoạt kiểu mới và hình thành các thói quen
ứng xử mới ở đô thị, điều đó như sự đan xen hiển nhiên giữa nền văn minh nông
nghiệp và văn minh công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa đất nước.”[33].
Cũng trong hướng này tác giả Trần Ngọc Khánh đã phân tích các yếu tố văn hóa
ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của con người trong xã hội hiện đại, xã hội đang đô
thị hóa mạnh mẽ với đề tài “Văn hóa đô thị và vấn đề đô thị hóa từ thực tiễn đời
sống văn hóa của TPHCM.”
- Khuynh hướng đề cập đến những vấn đề nhận thức về một thành phố phát
triển năng động, đông dân với những nhận định về hiện trạng và hướng phát triển
trong tương lai của TPHCM. Những định hướng, giải pháp quy hoạch đúng đắn và
khả thi cho thành phố để TPHCM trở thành một thành phố văn minh – hiện đại –
văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Những phương pháp tiếp cận mới
mang tính hệ thống nhằm cải tiến hệ thống qui hoạch và quản lý đô thị trong thời kỳ
15
chuyển đổi (gắn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN))
nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của thành phố, trong đó yếu tố con người
đóng vai trò là hạt nhân chủ thể. Trong khuynh hướng này có đề tài “Xác định các
luận cứ cho các giải pháp kiến trúc - quy hoạch xây dựng TPHCM văn minh - hiện
đại - văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” của tác giả Lưu Trọng Hải năm
2001.
- Khuynh hướng nói đến sự chuyển động đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ
cùng những việc chỉnh trang qui hoạch đô thị ngày càng dồn dập trong giai đoạn
phát triển đô thị hiện nay của TPHCM đưa ra những vấn đề cần giải quyết của việc
phát triển đô thị tại TPHCM nhằm định hướng cho việc xây dựng tính nhân văn và
bền vững của thành phố. Những thay đổi giá trị sống như là điều tất yếu, trong đó
có sự thay đổi về lối sống, nếp sống; sự phân tầng xã hội, sự xã hội hóa lối sống
ngày càng mạnh mẽ và do vậy các yếu tố văn hóa của lối sống, nếp sống, hành vi
văn minh hiện đại càng phải được coi trọng. Hướng nghiên cứu này có đề tài của tác
giả Tôn Nữ Quỳnh Trân “Vấn đề phát triển đô thị bền vững tại TPHCM và những
kinh nghiệm từ một số thành phố lớn ở Đông Nam Á.”
- Những nghiên cứu, bài viết hoặc các bài phát biểu của các vị lãnh đạo, quản
lý nhà nước về môi trường đô thị, về việc thực hiện nếp sống văn minh đô thị…
Một số bài viết phê phán mạnh mẽ lối sống vô tổ chức, thiếu văn minh của một bộ
phận cộng đồng dân cư. Những nghiên cứu và bài viết đề cập đến các giải pháp
chung và khái quát về việc vận động cư dân, vận động cộng đồng tham gia quản lý
xã hội và ủng hộ cho chủ trương hình thành chính quyền đô thị với lối sống mới.
(Đời sống thị dân: văn minh đô thị bắt đầu từ đâu? Tác giả Nguyễn Minh Hòa.).
“Phát triển văn hoá đồng bộ, tương xứng với phát triển kinh tế để tạo dựng sự phát
triển đô thị bền vững - Trường hợp TPHCM” của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn.
Tạp chí Khoa học chính trị, 2005.
Tóm lại, vấn đề hành vi văn minh đô thị đã được các nhà khoa học trong và
ngoài nước tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó đề cập đến định nghĩa
hành vi văn minh, ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa đến việc hình thành những ứng
xử văn minh, những biểu hiện của nếp sống văn minh đô thị. Các tác giả cũng đề
cập đến những tác động tích cực lẫn tiêu cực từ sự phát triển đô thị ngày càng nhanh
16
chóng đối với việc hình thành các thói quen mới, những hành vi đáp ứng yêu cầu
mới của xã hội phát triển. Tuy nhiên việc nghiên cứu sự hình thành những hành vi
văn minh đô thị trong những bối cảnh, hoàn cảnh hoặc địa phương cụ thể chưa được
đề cập một cách rộng rãi, các mức độ thực hiện hành vi văn minh đô thị của các
nhóm dân cư cụ thể chưa được xem xét chi tiết
Về phương diện tâm lý học, việc nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của một đối
tượng cụ thể nào từ trước đến nay vẫn còn khá mới và chưa có công trình nào
nghiên cứu về vấn đề này. Đề tài “Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của thanh
niên TPHCM” sẽ cụ thể hóa vấn đề này không phải dưới góc độ văn hóa - xã hội
học mà chủ yếu trên bình diện tâm lý học.
1.2. Hành vi và hành vi văn minh
1.2.1. Hành vi
Trong thuyết hành vi cổ điển, hành vi được hiểu hết sức đơn giản là tổ hợp các phản
ứng của cơ thể và trả lời các kích thích từ môi trường tác động vào [14].
E. Tolman (1886-1959) gọi hành vi là “cử động hành vi” (behavior acts) [13,tr 85].
Các cử động hành vi có cả các sự kiện vật lý và sinh lý học, còn dựa cả vào những
thuộc tính của bản thân. Theo tác giả, không thể từ một vận động đơn giản mà tách
ra được những sản phẩm đặc trưng cho cử động hành vi. Cử động hành vi không
phải là phản ứng sinh lý học, vì vậy phải nghiên cứu hành vi tổng thể bằng con
đường riêng với các yếu tố trung gian của chủ thể trong sơ đồ S - R. Trong lúc đó,
K.Hull (1884-1953) lại cho rằng: hành vi là cử động có thể làm cho các nhu cầu của
cơ thể được thỏa mãn, là hành vi do các biến số nhu cầu cơ thể và môi trường ngoài
cơ thể tạo nên, tuy nhiên hành vi này vẫn nằm trong mối liên hệ trực tiếp S - R.[13]
Thông qua kết quả các thực nghiệm của mình, B.F.Skinner đã phát biểu: “cường độ
của hành vi tạo tác tăng lên nếu hành vi (tác động) được kèm theo kích thích củng
cố. Sự củng cố trong bộ máy khái niệm của B.F.Skinner, hai khái niệm chủ yếu là
phản ứng tạo tác và củng cố hành vi. Không có củng cố trực tiếp thì không thể có
hành vi tạo tác. Có củng cố là có sự xuất hiện phản ứng. Xác suất xuất hiện phản
ứng, tần số, và cường độ phản ứng hoàn toàn tùy thuộc vào củng cố và cách củng
cố. Theo B.F.Skinner, hậu quả hành vi – những cái củng cố - là các lực kiểm soát
rất mạnh mẽ, vì vậy mà kiểm soát được củng cố thì sẽ kiểm soát được hành vi.
17
Nhà tâm lý học J.Mid (1863-1931) làm việc ở đại học tổng hợp Chicago, một trung
tâm của tâm lý học chức năng đã tính đến tính độc đáo quyết định luận hành vi con
người. J.Mid gọi đó là thuyết hành vi xã hội. Theo ông, cần chấp nhận hành động
của nhóm có một ý nghĩa đặc biệt, nghĩa là có tính biểu tượng – “cử chỉ có ý nghĩa”
hay “vận động có biểu cảm”. Chỉ có khi đặt mình vào vị trí của người khác, mỗi
người mới hiểu được suy nghĩ cũng như những phản ứng của họ. Gần hơn nữa đó là
quá trình giao tiếp, con người có thể nhận ra chính họ là ai? Chủ thể trong mắt
người khác như thế nào? Và từ đó, mỗi người hiểu ra bản thân mình là gì trong cái
nhìn của chính mình.
A. Adler (1870 - 1937) là nhà tâm lý học người Áo với thuyết tâm lý học cá nhân
cho rằng tất cả hành vi của con người đều chịu ảnh hưởng bởi xã hội. Nhân cách
thống nhất với hoàn cảnh và môi trường xã hội. A.Adler vẫn cho vô thức bản năng
hay năng lượng tâm hồn là những cơ chế của tính tích cực, xung đột và bảo vệ.
Theo A.Adler, con người luôn muốn hơn người khác, khi có nhược điểm trong lĩnh
vực này lại siêu đẳng trong lĩnh vực khác. Đó là cơ chế bù trừ xuất phát từ động cơ
xã hội. Những sự bù trừ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố xã hội có
tính chất quyết định. Ở đây, Adler đã quá thổi phồng tính chất bù trừ trong con
người, mà không thấy vai trò của hoạt động con người [29].
Dưới góc nhìn khoa học, có thể cho rằng ngày nay, các nhà nghiên cứu có thể kế
thừa những vấn đề hợp lý trong quan điểm của các tác giả trước đây để đề xuất
những vấn đề mới. Sự kế thừa này có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu sự hình
thành hành vi của các đối tượng ngày nay, trong đó có hành vi văn minh đô thị,
trong đó có giải pháp tập luyện để hạn chế những tác động của bản năng, sự hòa
nhập vào các mối quan hệ xã hội để thích ứng với tính văn minh trong một đô thị
phát triển.
Theo A. Maslow, hành vi của con người không chỉ gồm các hành vi quan sát được
mà là những phản ứng không quan sát được, những trải nghiệm chủ quan của con
người. Nếu tâm lý học hành vi lấy điều kiện bên ngoài làm nguyên tắc quyết định
cho hành vi con người thì phân tâm học lấy điều kiện bên trong làm nguyên tắc
quyết định. Động cơ chính trong cuộc đời là khuynh hướng tự thể hiện mình,
18