Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM SÔNG ĐỒNG NAI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.95 KB, 22 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI


ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM SÔNG ĐỒNG NAI
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

NHÓM:
Trần Thanh Bình 1101017533
Mai Kỳ Duyên 1101017555
Mai Thị Hảo 1101017601
Dương Thị Thu Hiền 1101017603
Trần Thanh Hải 1101017587
Nguyễn Thị Thu Hương 1101017626
Mai Trung Kiên 1101017644
LỚP: K50CLCD1
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Cô Phan Bùi Khuê Đài

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 10 năm 201

2

MỤC LỤC

Mục lục 1
CHƯƠNG MỞ ĐẦU 3
I. Nội dung đề tài nghiên cứu: 3


II. Lý do chọn đề tài: 3
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM SÔNG ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2005-2012
5
I. Giai đoạn từ 2005-2009 5
II. Giai đoạn 2010-2013 6
CHƯƠNG II: NHỮNG HẬU QUẢ ĐỂ LẠI CHO XÃ HỘI 7
I. Hậu quả đối với xã hội: 9
II. Hậu quả đối với nền kinh tế: 11
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN ĐẾN Ô NHIỄM DẪN 13
I. Nước thải sinh hoạt 13
II. Nước thải công ngiệp 13
III. Nước thải chăn nuôi heo 14
IV. Nước thải nuôi thủy sản 14
V. Hoạt động khai thác cát 15
CHƯƠNG IV: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ 16
Danh mục website và tài liệu tham khảo: 22







3

CHƯƠNG MỞ ĐẦU
I. Nội dung đề tài nghiên cứu:
Thực trạng ô nhiễm của sông Đồng Nai do nước thải công nghiệp từ năm 2005 đến nay
II. Lý do chọn đề tài:
Ngay từ lúc loài người xuất hiện, chúng ta đã biết dựa vào thiên nhiên để tồn tại, và

thực tế đã chứng minh dù loài người có phát triển đên trình độ nào đi chăng nữa, thì con
người vẫn luôn cần có thiên nhiên để sinh tồn. Quả thật, thiên nhiên là yếu tố sống còn
không chi với riêng với bất kì cá nhân nào trên thế giới.
Nhận thức được vấn đề trên không hề khó khăn, song cách mà con người chúng ta
ngày nay giải quyết “ bài toán môi trường” ấy thật đáng báo động. Để phục vụ nhu cầu
ngày càng phát triển của hơn 7 tỷ người, con người không ngừng khai thác từ thiên nhiên
với tốc độ gấp nhiều lần so với quá khứ. Kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dân số
học và sinh thái học ở Mỹ chứng tỏ, nếu tất cả các cư dân trên thế giới sống theo tiêu
chuẩn của người Mỹ như mức sống năm 2012 thì toàn bộ dân số trên hành tinh này sẽ phải
cần đến 5 Trái Đất. Song hành cùng quá trình khai thác và sử dụng thiên nhiên, con người
cũng thải ra vô vàn rác thải mà ngày càng nhiều là những loại rác thải “ độc hại” và không
có khả năng tái chế. Điều này là minh chứng cho sự ô nhiễm không ngừng của môi trường
toàn cầu, trong đó đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước- thứ tiên quyết cần cho sự sống của con
người.
Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài hiện tượng trên. Ưu tiên cho mục đích
phát triển kinh tế, sự thiếu ý thức và đạo đức kinh doanh hay kẻ hở trong pháp luật là một
vài nguyên nhân chính dẫn đến sự ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại nước ta.
Trong tiềm lực giới hạn của môn học nói chung và của nhóm nói riêng, chúng tôi
quyết định chọn đề tài “Thực trạng ô nhiễm của sông Đồng Nai do nước thải công nghiệp
từ năm 2005 đến nay” làm nội dung cho bài tiểu luận.

4

Cơ sở nghiên cứu:
- Cơ sở lý thuyết:
+ Quá trình học tập môn Kinh tế Môi trường
+ Giáo trình và Tài liệu học tập môn Kinh tế Môi trường
- Dẫn chứng thực tế:
+ Những sự việc, con người thực tế là nhận chứng và nạn nhân trước sự xả thải ra
sông Đồng Nai, được đăng trên các báo giấy/ báo mạng. phát song trên bản tin,

phóng sự trên các phương tiện thong tin đại chúng
+ Số liệu thực tế từ việc xả thải và mức độ ô nhiễm lấy từ các trang web có uy tín













5

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM SÔNG
ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2005-2012

Hơn 20 triệu người và toàn bộ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản thuộc 12 tỉnh thành đã và đang sử dụng nguồn nước từ sông Đồng Nai
phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt. Thế nhưng hiện trạng ô nhiễm hiện nay đẩy 20 triệu
người vào nguy cơ không có nước sạch để dùng, chưa kể tới ảnh hưởng nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội.
Trong giai đoạn 2005-2012, kết quả theo dõi chất lượng nguồn nước sông Đồng
Nai cho thấy tình trạng ô nhiễm nước sông luôn trong mức báo động. Nồng độ các chất
COD, BOD và đặc biệt là vi sinh và dầu luôn ở mức cao, vượt tiêu chuẩn cho phép hàng
chục lần và tăng dần theo thời gian, vài nơi vượt tiêu chuẩn đến 300-400 lần.
I. Giai đoạn từ 2005-2009

Vụ bê bối xả thải nghiêm trọng từ công ty Vedan đã khiến sông Thị Vải ( 1 phần
sông Đồng Nai ) ô nhiễm nghiêm trọng. Vedan thải hơn 100.000 m3 nước 1 tháng. Theo
đánh giá, cái chết của sông Thị Vải do hoạt động sản xuất của Vedan chiếm tới 70% do
chất từ quá trình sản xuất bột ngọt từ tinh bột rất khó xử lý. Không chỉ có Vedan mà hàng
loạt các khu công nghiệp khác góp phần tạo ra tình trạng ô nhiễm này. Chỉ riêng KCN
Nhơn Trạch 2 có 35 dự án hoạt động với lượng nước 12.000 m3/ ngày nhưng không hề có
hệ thống xử ký nước thải, chỉ có 12 doanh nghiệp có hệ thống xử lý nước thải nhưng chỉ
có 3 doanh nghiệp đạt chuẩn. Một nhánh khác của sông Biên Hòa-sông Cái bị KCN Biên
Hòa 1 thải gần 9000 m3 nhưng chỉ có 200m3 được xử lý nhờ qua hệ thống của HCN Biên
Hòa 2. Mỗi tháng có gần 1500 tấn chất thải nguy hại thải ra nhưng chỉ có hơn 200 tấn
được xử lý. Hàm lượng chất độc, kim loại vượt chuẩn nhiều lần như xí nghiệp ắc quy
Đồng Nai ( N-NH3 vượt chuẩn 53 lần, chì vượt 15 lần), công ty Ajinomoto ( N-NH3 vượt
16 lần, coliform vượt 31 lần ) …

6


II. Giai đoạn 2010-2013
Ước tính hiện nay mỗi ngày các khu đô thị, doanh nghiệp dọc lưu vực thải ra
khoảng gần 5 triệu m3 nước thải sinh hoạt và công nghiệp với tổng lượng BOD
600.000kg, 1,1 triệu kg COD, 200.000kg Nitơ, 760.000kg SS… Theo kết quả quan trắc
mới nhất về chất lượng nước mặt sông Đồng Nai, chất lượng nước đoạn thượng nguồn
khu vực đập Trị An đến vùng giáp ranh sông Thị Vải chỉ đạt tiêu chuẩn ở ¾ đoạn. Riêng
đoạn thành phố Biên Hòa, nơi tiếp nhận nhiều nguồn xả thải từ các khu công nghiệp, khu
chế xuất, chất lượng nước ở đây bị ô nhiễm nặng đặc biệt là các khu công nghiệp Biên
Hòa 1, nhà máy giấy Tân Mai…Các thông số đều vượt tiêu chuẩn nặng nhất là hàm lượng
sắt, chất hữu cơ và vi khuẩn gây bệnh. Cụ thể là các chất Fe, DO, COD, N-NH4, vi khuẩn
E.coli, Coliform đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Đây lại là nơi cung cấp nước cho hơn 10
triệu dân thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa và các nhà máy nước Thủ Đức, Tân Hiệp,
Bình An.

Theo thống kê của phòng kinh tế Biên Hòa, đầu tháng 3-2012, trên sông Đồng Nai
có trên 850 lồng, bè nuôi cá trong khi trước năm 2005 chỉ có khoảng 500 lồng. Chính việc
nuôi cá một cách ồ ạt, dày đặc càng làm cho nguồn nước ô nhiễm nghiêm trọng. Chưa kể
đây là khu dân cư họp chợ, sinh sống trực tiếp bên sông nên rác thải xả trực tiếp xuống
hay việc cho cá ăn hàng chục tấn phế phẩm như : thịt gia súc, gia cầm chết ô từ lò mổ thức
ăn thừa tử cửa hàng… vừa gây ra bệnh dịch cho cá, vừa làm nguồn nước ô nhiễm trầm
trọng.
Dân số tập trung quá đông cộng với ý thức còn kém trong việc gìn giữ vệ sinh môi
trường tạo lượng nước thải sinh hoạt cực lớn. Nước thải y tế, nhất là tại hệ thống bệnh
viện ko thu gom, kiểm soát đầy đủ. Ngoài ra, tình trạng khai thác khoáng sản ở thượng
nguồn cũng tạo tác động xấu đến chất lượng nguồn nước.



7

CHƯƠNG II: NHỮNG HẬU QUẢ ĐỂ LẠI CHO XÃ HỘI
Sông Đồng Nai có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh Đồng Nai, là nguồn nước cấp cho sinh hoạt của tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và thành
phố HCM. Hiện nay song Đồng Nai không chỉ là nguồn tiếp nhận lượng chất thải từ các
KCN và khu đô thị trong tỉnh, mà còn tiếp nhận lượng chất thải khá lớn từ một số tỉnh
thành lân cận. vì vậy, song Đồng Nai đã được các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm
tra nhằm theo dõi diễn biến chất lượng của nguồn nước sinh hoạt quan trọng này.










Bảng: Diễn biến chất lượng nước sông Đồng Nai giai đoạn 2005-2009.
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2005-2009).
So sánh kết quả kiểm tra chất lượng nguồn nước với TCVN 5942-1995 (cột A) có thể
thấy: trong 5 năm, chất lượng nguồn nước sông Đồng Nai không đạt ở các chỉ tiêu NH3-N
và Coliform (vượt từ 2-110 lần); nhìn chung chỉ tiêu SS không đạt tiêu chuản song có xu
Thông số
Giá trị
2005
2006
2007
2008
2009
TCVN
5942-1995
(Cột A)
Số lượng
mẫu xử lí

606
654
1206
822
363

Ph
TB
7,2
7,0

7,1
7,0
6,6
6,0-8,5
DO
TB
5,8
5,9
5,8
5,5
6,6
>=6
BOD5
TB
4,3
4,5
3,8
4,0
4,4
<4
SS
TB
35
48
37
27
12
20
NH3-N
TB

0,4
2,1
5,5
0,4
0,6
0,05
Coliform
TB
13543
10404
17921
19058
12800
5000

8

hướng giảm dần và đạt tiêu chuẩn vào mùa khô năm 2005; DO và BOD cơ bản chấp nhận
được, riêng chỉ tiêu pH đều đạt tiêu chuẩn cho phép.
Theo kết quả ước tính của trung tâm công nghệ môi trường (ENTEC) tháng 9/2009,
tổng lưu lượng nước thải hàng ngày của các khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai năm 2009
là khoảng 114.442m3. Trong đó riêng sông Đồng Nai là 27.048m3 với khoảng 4,8 tấn SS,
4,02 tấn BOD, 8,7 tấn tổng N và 0,2 tấn tổng P. Đây là một áp lực rất lớn, tác động gây
nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường nước mặt tại các khu vực đô thị và khu công
nghiệp, nhất là khi hiện nay số lượng các khu công nghiệp xây dựng trạm xử lí nước thải
tập trung phù hợp còn rất ít.
Đồ thị: Biểu diễn chất lượng nước sông Đồng Nai tại đoạn song Cái chảy qua khu vực
thành phố Biên Hòa năm 2009.
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Biên Hòa năm 2009- Phòng TN&MT
Biên Hòa, tháng 4/2009).




9






Theo biểu đồ có thể thấy, ngoài các chỉ tiêu pH, BOD,COD có các giá trị trung
bình nằm trong mức thông số quy định theo TCVN 5942-1995 ( loại A), thì các chỉ tiêu
còn lại đều vượt tiêu chuẩn không nhiều. trong đó, chỉ tiêu về Do thấp hơn khoảng 1,1 lần,
các chỉ tiêu về SS, N-NH3 và vi sinh cao hơn từ 1,4-3,3 lần, cho thấy chất lượng nước
song Đồng Nai tại khu vực này bị ô nhiễm nhẹ do chất dinh dưỡng và vi sinh.
I. Hậu quả đối với xã hội:
Báo cáo của Trung tâm Quan trắc Bộ Tài nguyên Môi trường, tỉ lệ người dân mắc
các bệnh liên quan đến nước tại các tỉnh thuộc lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn tương
đối cao.
Theo đó, tại tỉnh Bình Dương (lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn), người dân thuộc
các huyện sống gần sông Sài Gòn như Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân Uyên mắc bệnh lị và tiêu
chảy cao hơn rất nhiều so với các huyện không chịu ảnh hưởng của tình trạng ô nhiễm
nước sông.
Hiện đang tiềm ẩn nguy cơ nhiễm bệnh trong cộng đồng do ảnh hưởng của kim loại
nặng và hóa chất bảo vệ thực vật trong nước mặt. Theo chuỗi thức ăn, các chất độc hại sẽ
tích lũy trong thực phẩm (rau, cá…) rồi chuyển hóa và tích tụ lâu dài trong cơ thể con
người. Mặc dù hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước mặt nhìn chung vẫn nằm trong
giới hạn cho phép nhưng nếu không quản lý hiệu quả và hạn chế việc sử dụng hóa chất
1- Khu vực cầu Hóa An


6- Khu vực bến đò Long Kiển
2- Khu vực gần chợ Biên
Hòa
7- Khu vực gần công ty
Proconco
3- Khu vưc NM nước
Biên Hòa
8- Khu vực bến đò An Hảo
4- Khu vực cầu Ghềnh
9- Khu vực gần công ty
Ajinomoto
5- Khu vực cầu Rạch Cát
10- Khu vực cầu Đồng Nai

10

bảo vệ thực vật một cách tràn lan; kiểm soát các nguồn nước thải từ hoạt động sản xuất
công nghiệp thì nguy cơ ô nhiễm các bệnh trên sẽ còn rất cao.
Trong cuộc họp để đánh giá diễn biến môi trường, tình hình triển khai đề án sông
Đồng Nai, chỉ số N-NH4, COD trong nguồn nước sông Đồng Nai đều vượt mức cho phép.
Điều này nói lên rằng, con người đang tự đầu độc chính mình.
Bệnh nan y ngày càng phổ biến, trong đó có sự đóng góp của các loại chất độc có
trong nguồn nước sông Đồng Nai!!! Con người bệnh tật vì nguồn nước ô nhiễm, còn vật
nuôi cây trồng thì chết ngay lập tức. Những khu vực có nước thải đổ ra trực tiếp, tôm cá
không sống nổi. Nguồn nước ô nhiễm của sông Đồng Nai, sông Sài Gòn còn tấn công
sang Long An, các hộ nông dân nuôi tôm dọc lưu vực sông là nạn nhân của ô nhiễm, thiệt
hại được tính cụ thể bằng tiền, sau đó là sức khỏe, một thứ thiệt hại khó định lượng được.
Thực tế cho thấy ô nhiễm nước song Đồng Nai gây thiệt hại cho việc nuôi trồng thủy sản.
Từ cuối năm 2007 đến nay, nhiều người nuôi tôm ở hai ấpPhước Hòa và Tập Phước, xã
Long Phước, Long Thành, ĐồngNai, bị thất thu nặng và phải cắm sổ đỏ do tôm nuôi bị

chế thàng loạt. Một số người dân địa phương cho biết, nguyên nhân là do nguồn nước họ
lấy từ song Thị Vải để nuôi tôm không đủ độ pH (độ kiềm), không có tảo khiến tôm bị
bệnh đốm trắng, đỏ thân và chết. Nhiều hộ nuôi tôm ở huyện NhơnTrạch, ĐồngNai, thậm
chí ở BàRịa – Vũng Tàu cũng bị thất thu do lấy nước từ song Thị Vải để nuôi tôm. Mà
người dân ở các khu vực trên cũng chỉ biết lấy nước từ song Thị Vải vì không có nguồn
nước nào khác.
Người dân xung quanh lưu vực sông và công nhân làm việc tại các khu công
nghiệp đều mắc bệnh viêm xoang, đau đầu, khó thở, da tiếp xúc nguồn nước bị dị ứng,
tróc vẩy… nguyên nhân là tiếp xúc hóa chất hằng ngày của các khu công nghiệp này.
Sông ô nhiễm làm rừng ngập mặt biến mất. Mất rừng dẫn tới suy giảm ngành thủy
sản, đặc biệt là nghề nuôi tôm cá.

11

Làm tăng giá nước sạch cung cấp cho người dân: Việc xử lý chất lượng nước
nguồn cấp cho các nhà máy nước được kiểm tra chặt chẽ.Tuy nhiên, với mức độ nguồn
nước đang ô nhiễm như hiện nay, mức độ ảnh hưởng đến chất lượng nước nguồn cung cấp
cho các nhà máy nước cũng gia tăng. Các nhà máy nước buộc phải tăng chi phí xử lý
nước, có nhà máy phải ngưng lấy nước vào một số thời điểm trong ngày khi độ mặn đã
vượt ngưỡng cho phép vì vậygiá nước cung cấp cho người dân cũng tăng lên.
II. Hậu quả đối với nền kinh tế:
Các vùng lân cận hạ lưu sông Đồng Nai, không có nguồn nước sạch để sản xuất,
sản phẩm sẽ được sản xuất từ nguồn nước bị ô nhiễm không đạt chất lượng cao, không
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, kém cạnh tranh so với các sản phẩm “sạch”.
Trước đây sông Đồng Nai và một vài nhánh như Thị Vải cá, tôm rất nhiều và khu
vực ven sông sống nhờ vào nghề nuôi tôm cá nay nên đời sống đỡ cực. Nhưng sau đó do
tác động ô nhiễm khiến cá tôm tuyệt chủng, nhiều hộ nuôi cá điêu đứng vì cá nuôi chết
hàng loạt. Như xã đảo Thạch An huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng từ dòng sông Thị Vải khiến
70% người dân sống bằng nghề đánh bắt hải sản ở đây phải điêu đứng, ít nhất 50% hộ lỗ
từ 7-8 triệu đồng hoặc thậm chí mất trắng.

Sông không những ô nhiễm bề mặt mà nguồn nước ngầm cũng bị ô nhiễm. Tình
trạng ô nhiễm trên sông ảnh hưởng trì trệ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu
công nghiệp. Như công ty Shell phản ánh nhiều hãng tàu Nhật Bản từ chối vận chuyển
hàng hóa cũng như nguyên vật liệu do nước sông ô nhiễm ăn mòn thân tàu.
Chi phí xử lý nước thải rất cao trong khi tiền thu xử lý môi trường lại thấp. Như
mức phạt 216,5 triệu đồng của Vedan là quá nhỏ khi Vedan vi phạm 12 lỗi, trốn phí môi
trường 127 tỷ đồng, gây ô nhiễm sông trong 14 năm. Giá thành xử lý nước thải là rất cao
gần gấp đôi giá nước sạch đầu vào. Để làm sạch lượng nước thải phải tốn tới hàng trăm tỷ
đồng.

12

Làm giảm triển vọng đầu tư của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước vào các
ngành công nghiệp của Đồng Nai và những khu vực mà nước bị ô nhiễm do muốn đầu tư
vào phải xử lý ô nhiễm bằng công nghệ cao =>tốn nhiều chi phí.
Ngân sách nhà nước sẽ hao hụt không nhỏ cho việc xử lí chất thải, xử lí ô nhiễm
nhưng môi trường nước vẫn không được như trước xả thải.

















13

CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN Ô NHIỄM
I. Nước thải sinh hoạt
Nếu tính trung bình mỗi đầu người tiêu dùng 100 lít nước cho sinh hoạt hàng ngày,
thì lượng nước sinh hoạt xả vào sông là trung bình khoảng 1,73 triệu m³ nước thải sinh
hoạt (trong đó có khoảng 702 tấn cặn lơ lửng, 421 tấn BOD5, 756 tấn COD, 59 tấn nitơ
tổng, 15 tấn phospho tổng, 243 tấn dầu mỡ phi khoáng và nhiều vi trùng gây bệnh) Tuy
nhiên cho đến nay, tất cả các đô thị trên lưu vực sông đều chưa có hệ thống xử lý nước
thải. Nước sông nguyên thủy không đủ khả năng làm loãng nước thải nữa vì mức độ ô
nhiễm tăng quá khả năng điều tiết tự nhiên của sông (khả năng tới hạn). Tình trạng nhiễm
độc nguồn nước xảy ra.
II. Nước thải công ngiệp
TP.Biên Hòa tập trung rất nhiều KCN lớn như Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Phú Mỹ 2,
Phú Mỹ 3, Cái Mép, Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 6 Mỗi ngày, các khu công nghiệp này
xả khoảng 1,54 triệu m³ nước thải công nghiệp (trong đó có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng,
231 tấn BOD5, 493 tấn COD, 89 tấn nitơ tổng, 12 tấn phospho và nhiều kim loại nặng ).
Trong số đó, nổi bật là khu công nghiệp Biên Hòa 1. Đây là khu công nghiệp đã lâu đời
với công nghệ, thiết bị, máy móc sản xuất đã lạc hậu, công tác xử lý nước thải chưa được
cải tiến. Ngoài ra các khu vực thuộc các huyện khác có rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơ sở
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp xả một lượng nước thải xuống sông, rạch
không qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu. Do đặc điểm kinh tế của từng vùng khác
nhau, sự phát triển sản xuất cũng khác nhau nên tính chất nước thải xuống sông cũng khác
nhau.
Ngoài ra còn có các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nằm ngoài KCN rất đa dạng về
ngành nghề như chế biến bắp, bánh kẹo, lò đường thủ công, gạch ngói…. Nhiều nhà máy
trong số đó có nguồn thải rất lớn nhưng chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn như:

- Nhà máy giấy Tân Mai có lưu lượng nước thải gần 10.000m
3
/ngày, xử lý chưa đạt
TCVN nhưng xả thẳng vào sông Đồng Nai.

14

- Nhà máy đường Trị An công suất 1000 tấn mía/ngày có lượng nước thải rất lớn
(1.700m
3
/giờ). Tuy phần lớn nước thải là nước làm nguội nhưng với lưu lượng
lớn xả vào đầu nguồn lưu lượng sông Đồng Nai gây tác hại lớn đến môi trường.
Các cơ sở chế biến thức ăn gia súc hoặc chăn nuôi gia súc xử chất thải chưa tốt.
Các cơ sở này thường gây ô nhiễm (do mùi hôi), ô nhiễm do nước thải và chất thải rắn.
III. Nước thải chăn nuôi heo
Một trong những địa phương có hoạt động chăn nuôi mạnh của thành phố Biên
Hòa là một số khu dân cư phường Trảng Đài, Long Bình Tân…
Trong nước thải chăn nuôi chứa đến 70-80% các loại hợp chất hữu cơ, bao gồm
xellulose, protein, acid amin, chất béo, hydratecacbon và các dẫn xuất của chúng trong
phân, máu. Hầu hết dễ phân hủy thành acid amin, acid béo, CO
2
, H
2
O, NH
3
, H
2
S…tạo
mùi hôi, ảnh hưởng xấu đến môi trường không khí, gây bệnh hô hấp. Các hộ nuôi heo, đa
phần là nuôi nhỏ lẻ và không có ý thức bảo vệ môi trường, không có hệ thống xử lý phân

và nước thải nên họ chỉ chôn lấp sơ sài hoặc thải thẳng ra suối. Điều này khiến cho sông
ngày thêm ô nhiễm.
IV. Nước thải nuôi thủy sản
Nguồn gây ô nhiễm phát sinh từ hoạt động của cá nuôi trong bè: dư lượng thức
ăn, các hóa chất phòng và trị bệnh cho cá, phân cá, vi trùng, ký sinh trùng trên mình cá,
cá chết gây ô nhiễm mùi và ô nhiễm môi trường nước.
Nguồn gây ô nhiễm từ hoạt động làm khô cá ngay trên bè và trên các bãi cá vùng
bán ngập, ruột cá và các bộ phận bỏ đi của cá thải vào nguồn nước gây ô nhiễm mùi và
môi trường nước. Ngoài ra việc nuôi trồng thủy sản cũng ảnh hưởng đến tích lũy các chất
dinh dưỡng trong nước, ước lượng khoảng 0,16 kg nitơ tổng và 0,035 kg phosphor tổng
trên kg cá thịt.
Nguồn ô nhiễm từ hoạt động sinh sống của người trên bè, bao gồm: lượng chất hữu
cơ thải ra từ hoạt động ăn uống, phân (E.Coli và các vi trùng khác), chất tẩy rửa từ hoạt
động tắm giặt … gây ô nhiễm mùi và ô nhiễm môi trường nước mặt. Như vậy hoạt động

15

sinh hoạt của con người chủ yếu thải ra các chất hữu cơ không bền và dễ phân hủy sinh
học, các chất dinh dưỡng (phosphor, nitơ), vi trùng và mùi.
Hoạt động nuôi bè đã gây ô nhiễm khá lớn đến nguồn nước ở lưu vực sông dẫn đến
chất lượng nước sông cũng bị suy giảm.
V. Hoạt động khai thác cát
Khu vực sông có lưu lượng và độ dốc khá lớn nên lượng phù sa bồi lắng rất nhiều, vì
vậy hoạt động khai thác cát lậu diễn ra thường xuyên. Hoạt động khai thác cát ít nhiều đã
gây ô nhiễm nguồn nước trong lưu vực sông. Các tàu thuyền ngày đêm hút cát rồi xả bùn,
bợn trả xuống long sông cùng dầu nhớt động cơ thải làm ô nhiễm nguồn nước. Hơn thế
nữa hoạt động khai thác còn làm tăng khả năng khuếch tán của chất dinh dưỡng trong trầm
tích vào nguồn nước và làm dậy phèn trên sông dẫn đến làm chua nguồn nước gây nguy
hiểm cho sinh vật thủy sinh sống trên sông.













16

CHƯƠNG IV: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế: để chấm dứt ô nhiễm, chúng ta có thể có hai lựa
chọn: hoặc là giảm thiểu tối đa (nếu không phải là ngừng lại) các hoạt động kinh tế, hoặc
là phải chi phí rất nhiều cho việc làm giảm ô nhiễm. Cả hai cách lựa chọn trên đều không
đảm bảo là sẽ có lợi nhất cho xã hội và thực tế xã hội vẫn có thể có lợi nếu ô nhiễm ở một
mức độ nhất định. Vấn đề mà các nhà kinh tế môi trường nêu ra là: cần phải đạt được mức
ô nhiễm tối ưu. Kinh tế học môi trường đã chỉ ra hai cách tiếp cận để đạt được mức ô
nhiễm tối ưu về mặt kinh tế này; hoặc là hoạt động sản xuất phải đạt được mức sản lượng
tối ưu xã hội, hoặc là phải thải ở mức thải tối ưu đối với xã hội, mức ô nhiễm tối ưu sẽ
không phải là bằng không.
Trên thực tế tỉnh Đồng Nai có hơn 30 khu công nghiệp (KCN) với các KCN trọng
điểm như Amata, Biên hòa II, Gò Dầu, Loteco, Nhơn Trạch I, II, III Các khu công
nghiệp đóng vai trò rất quan trọng không chỉ với nền kinh tế của tỉnh Đồng Nai nói riêng,
mà còn là của cả nước nói chung, bởi vì các khu công nghiệp này tập trung hầu hết các
công ty thuộc tất cả các ngành công nghiệp như: sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp vật
liệu, thực phẩm, ô-tô,… Tuy nhiên, những tác hại xấu mà các khu công nghiệp này đem
lại cũng không phải là nhỏ, đặc biệt là với môi trường nơi đây, cụ thể là nguồn nước sông

Đồng Nai, nguồn nước nuôi sống khoảng 20 triệu dân ở các tỉnh, thành trong khu vực. Ví
dụ: theo cơ quan chuyên môn tính toán, mỗi ngày hơn 100 nhà máy đóng tại KCN Biên
Hòa 1 xả ra hơn 7,7 ngàn m
3
nước thải, nhưng chỉ có 1,1 ngàn m
3
được đấu nối qua KCN
Biên Hòa 2 để xử lý, lượng nước thải còn lại được các nhà máy tự xử lý rồi xả trực tiếp ra
sông Đồng Nai. Nhà máy giấy Tân Mai có lưu lượng nước thải gần 10.000m
3
/ngày, xử lý
chưa đạt TCVN nhưng xả thẳng vào sông Đồng Nai. Nhà máy đường Trị An công suất
1000 tấn mía/ngày có lượng nước thải rất lớn (1.700m
3
/giờ). Tuy phần lớn nước thải là
nước làm nguội nhưng với lưu lượng lớn xả vào đầu nguồn lưu lượng sông Đồng Nai gây
tác hại lớn đến môi trường.

17

Tỉnh Đồng Nai nói chung và các khu công nghiệp nói riêng cũng đã thực hiện
nhiều dự án xử lý chất thải tại các nhà máy và bảo vệ nguồn nước sông, tuy nhiên những
biện pháp vẫn còn nhiều bất cập và vẫn không giải quyết được tình trạng nước sông bị ô
nhiễm ngày một nhiều.
Định hướng: Theo nhóm nghiên cứu được, thì dự án tổng thể về bảo vệ môi
trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai trên địa bàn tỉnh đến năm 2010, định hướng đến
2020 tập trung tăng cường giám sát, quan trắc các nguồn thải; hỗ trợ đối với các dự án xử
lý chất thải nhằm giảm thiểu tác động cộng hưởng của xâm nhập mặn và ô nhiễm môi
trường đối với vùng bảo hộ vệ sinh cấp nước sinh hoạt trên lưu vực sông Đồng Nai (trước
mắt là đoạn từ cầu Đồng Nai đến đập thủy điện Trị An và hồ Trị An). Tiếp tục cải tạo 50%

kênh mương, đoạn sông, suối chảy qua các đô thị đã bị ô nhiễm nặng. Dự kiến đến hết
năm 2012, dự án lắp đặt hệ thống quan trắc tự động nước thải tại các Khu công nghiệp
trên địa bàn sẽ hoàn thành, nâng tổng số trạm quan trắc trên địa bàn toàn tỉnh lên 40 trạm.
Biện pháp cụ thể:
1. Đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống xử lý nước thải tập trung các khu công
nghiệp trạm Xử lý nước thải (XLNT) tập trung của KCN (đã và đang được áp
dụng):
Dây chuyền công nghệ của một trạm XLNT cho 1 KCN tiêu biểu:
Dây chuyền 1: Xử lý sơ bộ (tách rác, cát, dầu mỡ)
- Bể điều hòa -> Bể trộn, điều chỉnh pH, keo tụ tạo bông -> Bể lắng -> Bể xử lý sinh học
với bùn hoạt tính -> Bể lắng thứ cấp -> Khử trùng bằng Clo.
Dây chuyền 2: Xử lý sơ bộ (tách rác, cát, dầu mỡ)
- Bể điều hòa (có hoặc không có sục khí) -> Bể trộn, điều chỉnh pH, keo tụ tạo bông ->
Bể lắng -> Bể điều hòa trước bể SBR -> Bể xử lý sinh học với bùn hoạt tính hoạt động
theo mẻ SBR -> Khử trùng bằng Clo.
Dây chuyền 3: Xử lý sơ bộ (tách rác, cát, dầu mỡ)

18

- Bể điều hòa -> Bể trộn, điều chỉnh pH, chất dinh dưỡng -> Bể sinh học kỵ khí UASB ->
Bể Aeroten vói giá thể vi sinh cố định -> Bể lắng thứ cấp -> Bể trộn, điều chỉnh pH, keo
tụ tạo bông -> Bể lắng hóa, lý -> Khử trùng bằng Clo.

Nhưng các trạm XLNT này vẫn còn nhiều hạn chế: Phần lớn đều được thiết kế dựa
trên kinh nghiệm của nhà thầu, mà không có đầy đủ thông tin về số lượng, thành phần,
tính chất nước thải đầu vào. Khi chưa có nước thải thực tế, các nhà thầu đề xuất trạm
XLNT với kích thước công trình tối thiểu để giảm giá thành và thắng thầu. Khi đưa vào
hoạt động, các trạm XLNT không có điều kiện để điều chỉnh chế độ vận hành phù hợp với
đặc tính nước thải thực tế, dẫn đến tình trạng trạm XLNT hoạt động kém hiệu quả. Phần
lớn các DCCN đều tương tự nhau. Các DCCN được thiết kế rập khuôn, thiếu những điều

chỉnh đặc thù với loại hình sản xuất, chế độ thải nước và các điểm riêng biệt của mỗi
KCN. Nhiều trạm XLNT được thiết kế, đầu tư xây dựng với tinh thần "chi phí tối thiểu",
thiếu nhiều hạng mục quan trọng như phòng thí nghiệm, các thiết bị đo lường, giám sát,
điều khiển, máy bơm, máy ép bùn và máy phát điện dự phòng

Thực tế đánh giá tình hình hoạt động của các trạm XLNT tập trung ở các KCN: các
bể điều hòa đều thiếu dung tích, không điều hòa được lưu lượng và nồng độ các chất ô
nhiễm chảy về trạm XLNT. Khi không có đủ thông tin thực tế về loại hình sản xuất, chế
độ thải nước và thành phần, tính chất nước thải, thời gian lưu nước cần thiết của bể điều
hòa được khuyến cáo tối thiểu 12h tính theo lưu lượng giờ trung bình (Nguyễn Việt Anh
và Lê Minh Sơn, 2012).

 Nhóm đề xuất cải thiện:
- Mỗi nhà máy tại KCN nên đầu tư xây dựnng một hệ thống XLNT riêng biệt, tiên
tiến, thân thiện với môi trường, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm riêng của ngành sản
xuất và các phương tiện, cơ sở vật chất của mình. Nghiên cứu thay thế Clo để khử trùng
nước thải sau xử lý; Đặc biệt quan tâm đến việc xử lý và thải bỏ bùn, tái sử dụng/tuần

19

hoàn nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng khác trong trạm XLNT và trong
KCN.
- Trạm XLNT KCN cần có nguồn phát điện dự phòng. Trạm cần được thiết kế, xây
dựng, vận hành với đầy đủ các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc phục sự cố. Và có
một bộ phận riêng để quản lý, giám sát chặt chẽ, phát hiện, ứng phó tại chỗ và thông báo
kịp thời cho các đơn vị chức năng (Chi cục BVMT, Cảnh sát Môi trường ) để có thể giải
quyết ngay khi có vấn đề.

1. Nhóm đề xuất: Nghiên cứu để triển khai và áp dụng những công trình khoa học của
học sinh, sinh viên về việc làm sạch nguồn nước bị ô nhiễm (thường là bằng những

vật liệu thiên nhiên):

Các đề tài nghiên cứu “lọc dầu trong nước bằng cây bông gòn”, “cây xà phòng –
chất tẩy rửa trong tương lai”, hoặc “bể lọc nước bằng cây thủy trúc” của các học sinh, sinh
viên sử dụng những nguyên liệu đơn giản, thân thiện với môi trường và giá rẻ. Tuy nhiên,
vẫn còn chưa được nghiên cứu chuyên sâu để có thể cải tiến mà áp dụng cho những quy
mô lớn hơn hộ gia đình. Các công ty có thể tạo lập một bộ phận nghiên cứu để ứng dụng
những mô hình này vào hệ thống xử lý nước thải đầu ra của xí nghiệp, nhà máy của mình.
Nguồn nước thải này có thể được giảm đi bằng cách giảm tiêu dùng, tái chế lại hoặc thay
đổi thói quen sử dụng (tiêu dùng khác đi)
Tính 31/12/2012, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam (VEPF) đã cho 33 dự án KCN vay
vốn đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải với số tiền là 349 tỷ đồng (tương đương
17,5 triệu USD), tương đương mỗi hệ thống XLNT ở KCN sẽ tốn 10,6 tỷ đồng, có những
nơi cao hơn đến 20-30 tỷ đồng. Đây là một con số đầu tư không nhỏ nhưng hiệu quả
không cao, nếu như dựa vào những phân tích khiếm khuyết ở phần 1. Nếu các công ty đầu
tư nghiên cứu một lần, để tìm ra những cách ứng dụng các giải pháp thân thiện với môi
trường và chi phí rẻ hơn như trên, thì hiệu quả đem lại sẽ cao hơn và chắc chắn số tiền bỏ

20

ra một lần sẽ thấp hơn cho một giai đọan nghiên cứu nhưng kết quả vẫn có thể ứng dụng
về lâu dài.
Nghiên cứu về việc các doanh nghiệp ngành giấy xả chất thải xuống làm ô nhiễm dòng
sông, do làm giảm lượng ô xy hoà tan trong nước nên làm cá và các sinh vật thuỷ sinh
khác bị chết dẫn đến làm giảm thu nhập của ngư dân. Trong ví dụ này, ô nhiễm gắn với
việc sản xuất một loại hàng hoá nào đó. Nếu còn tồn tại hoạt động sản xuất thì việc tạo ra
ô nhiễm là không thể tránh khỏi. Khi mức sản xuất tăng thì ô nhiễm cũng tăng lên theo.
Tại mức hoạt động tối ưu cá nhân Q
M
, mức ô nhiễm tương ứng là W

M
.





Các nhà kinh tế cho rằng ô nhiễm tạo ra một loại chi phí sinh thái giống như bất cứ chi phí
kinh tế nào khác. Vì thế khi tính chi phí xã hội của sản xuất như là tổng của chi phí cá
nhân và chi phí ngoại ứng, chúng ta đạt được mức hoạt động kinh tế tối ưu đối với xã hội
tại điểm cân bằng của chi phí cận biên xã hội và lợi ích cận biên xã hội. Mức hoạt động
kinh tế đạt hiệu quả Pareto này cũng được cho là sẽ tạo ra mức ô nhiễm tối ưu đối với xã
hội W*. Với cách tiếp cận này, chúng ta đã xem xét một sự đánh đổi tối ưu giữa hàng hoá

21

kinh tế và hàng hoá chất lượng môi trường; theo đó, chúng ta cần giảm việc sản xuất và
tiêu dùng hàng hoá kinh tế để có một chất lượng môi trường tốt hơn.
Đối với cá nhân các doanh nghiệp, điều kiện tối ưu cho việc gây ô nhiễm của doanh
nghiệp khi tính đến các chi phí của ô nhiễm chỉ ra rằng: các doanh nghiệp chỉ nên thải ra
một lượng ô nhiễm mà tại đó lợi ích cận biên từ hoạt động gây ô nhiễm (tức là phần lợi
nhuận tăng thêm cho doanh nghiệp nhờ việc sản xuất thêm một lượng sản phẩm ứng với
mức tăng một đơn vị ô nhiễm) phải bằng đúng với chi phí ngoại ứng do đơn vị ô nhiễm đó
gây ra, tức là điều kiện sau phải được thoả mãn tại mức hoạt động kinh tế tối ưu Q* và
mức ô nhiễm tối ưu W*.














22

Danh mục website và tài liệu tham khảo:
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam cho vay ưu đãi xây dựng nhà máy xử lý nước thải Khu
công nghiệp, 5/10/1013
Bảo vệ cấp bách nguồn nước mặt tại Đồng Nai: Những biện pháp hạn chế ô nhiễm,
/>ngun-nc-mt-ti-ng-nai-nhng-bin-phap-hn-ch-o-nhim&catid=73:mc-tin-tc, 5/10/1013
Sông Đồng Nai ô nhiễm, nhiều người dân mắc bệnh, />Nai-o-nhiem-nhieu-nguoi-dan-mac-benh/82/1408238.epi, 5/10/1013
Ô nhiễm trên sông Đồng Nai: Do cả hai?, />dong-nai-do-ca-hai-444261.htm , 5/10/1013
Người nuôi tôm trắng tay vì nước lạ,
8/10/2013
Kinh tế học chất lượng phần II, Nguyễn Thế Chinh, />te-hoc-chat-luong-moi-truong-phan-ii, 8/10/2013
Sở tài nguyên và môi trường Đồng Nai ,, 8/201310/
, 8/10/2013
Sông Đồng Nai ô nhiễm - Bài 1: Bi hài thực trạng, />tuc/detail/103/song-sai-gon-o-nhiem,-nuoc-sinh-hoat-bi-de-doa/, 9/10/2013
Ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai đang ở mức báo
độngđỏ , />d=589410, 9/10/2013



×