Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SƠ LƯỢC VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 27 trang )

CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN.
1.1. Khái niệm chuyển nhượng cổ phần:
Cổ phần chính là những phần chia nhỏ nhất và bằng nhau của vốn điều lệ của
công ty cổ phần. Cổ phiếu của công ty cổ phần là chứng chỉ do công ty cổ phần phát
hành hoặc bút toán ghi sổ để xác nhận quyền sở hữu 1 hoặc một số cổ phần của các cổ
đông góp vốn trong công ty.
Chuyển nhượng cổ phần: là hành vi làm thay đổi ( mua bán, biếu tặng, thừa
kế…) số lượng cổ phần đang nắm giữ.
1.2. Phân loại cổ phần:
1
1.3. Các điều kiện chuyển nhượng:
1.3.1.Đối với cổ phần thường:
Theo khoản 5 Điều 81 Luật doanh nghiệp năm 2005, cổ phần thường được tự do
chuyển nhượng, trừ trường hợp sau:
Theo khoản 5 Điều 84, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng
cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu có sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông dự định chuyển
nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng cổ phần đó và
người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Sau
thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, các
hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ. Nguyên
nhân có qui định trên vì đây là qui định nhằm bảo vệ các nhà đầu tư, các cổ đông sáng
lập ra công ty không được tự ý bỏ công ty được. Đây chính là một qui định mang tính
ràng buộc nghĩa vụ vật chất của cổ đông sáng lập với người mua nhằm tránh tình trạng
tuyên truyền lừa đảo.
1.3.2.Đối với cổ phần ưu đãi:
Qui định về chuyển nhượng cổ phần ưu đãi phụ thuộc vào điều lệ công ty và
Luật doanh nghiệp 2005.


Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: theo khoản 3 điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005, chỉ
có các Tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập mới có quyền nắm giữ
cổ phiếu ưu đãi biểu quyết; đây là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so
với cổ phiếu phổ thông, số phiếu biểu quyết của một số cổ phần ưu đãi biểu quyết do
điều lệ công ty qui định; cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được
chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Sau 3 năm kể từ ngày cấp giấy Chứng
nhận đăng kí kinh doanh, cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ được chuyển đổi thành cổ phần
phổ thông và được tự do chuyển nhượng như cổ phần phổ thông được phát hành trước
đó. Việc cấm chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết nhằm đảm bảo cho những
thành viên sáng lập có thể duy trì được ý tưởng kinh doanh ban đầu của mình, tránh
cho công ty mất tính ổn định trong những năm đầu thành lập.
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và cổ phiếu ưu đãi khác không
bị điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp 2005 nên tùy từng điều lệ của công ty qui định
2
những điều kiện để được chuyển nhượng khác nhau. Ví dụ như công ty cổ phần nhựa
Tân Đại Á có qui định cổ phần ưu đãi chỉ được chuyển nhượng sau 4 năm kể từ ngày
phát hành hay như đối với công ty cổ phần du lịch Việt Nam-Hà Nội thì cổ phần mua
với giá ưu đãi đối với công nhân viên lai được tự do chuyển nhượng trong khi cổ phần
ưu đãi dành cho nhà đầu tư chiến lược lại bị cấm chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng
có điều kiện
1.3.3. Một số trường hợp đặc biệt trong chuyển nhượng cổ phần:
 Cổ phần phát hành riêng lẻ:
Theo nghị định số 01/2010/NĐ-CP cổ phần mà các công ty cổ phần khi phát
hành riêng lẻ không được chuyển nhượng trong thời hạn một năm kể từ ngày phát
hành
1
.
Tuy qui định này sẽ gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu
riêng lẻ, nhưng đây là một động thái tích cực nhằm ngăn chặn nguy cơ đầu cơ và bán
khống của các nhà đầu tư nếu không hạn chế thời gian chuyển nhượng.

Cụ thể, cổ phiếu A được bán cho nhà đầu tư chiến lược với giá 50000đ/CP.
Ngay tại thời điểm chốt danh sách nhà đầu tư được phép mua riêng lẻ, giá cổ phiếu A
là 100000đ/CP, nhà đầu tư có thể mượn cổ phiếu để giao dịch và sau đó sẽ trả lại khi
cổ phiếu riêng lẻ được phát hành sau đó một thời gian ngắn (vì cổ phiếu riêng lẻ chỉ
được bán cho một số nhà đầu tư chiến lược, với giá bán thấp hơn nhiều so với giá bán
trên thị trường).
Đồng thời, qui định này cũng ngăn chặn được sự liên kết của những nhà đầu tư
và những cổ đông lớn của doanh nghiệp (cũng chính là những người có quyền quyết
định chào bán riêng lẻ) nhằm cố ý chấp nhận giảm giá trị vốn góp ở công ty để phát
hành cổ phiếu với giá rẻ hơn giá trị nội tại của công ty nhằm chia lợi ích. Vì vậy, với
qui định cấm chuyển nhượng cổ phiếu phát hành riêng lẻ trong vòng một năm, vốn của
nhà đầu tư sẽ bị chôn trong một thời gian khá dài, thậm chí nhà đầu tư phải đối mặt với
rủi ro cao nếu xu hướng giá thị trường giảm mạnh. Do đó, nhà đầu tư khi muốn mua cổ
phiếu phát hành riêng lẻ thì buộc phâỉ hiểu rõ tình hình hoạt động của công ty cũng như
tin vào khả năng tăng trưởng trong tương lai của công ty.
 Đối với ngân hàng thương mại cổ phần:
1
Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau:
Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
3
Cổ phần phổ thông của thành viên sáng lập của ngân hàng thương mại cổ phần
mới thành lập, trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp giấy phép, chỉ được chuyển
nhượng cổ phần phổ thông trong tổng số cổ phần góp vốn khi thành lập ngân hàng cho
cổ đông sáng lập khác.
Đối với cổ đông không phải thành viên sáng lập của ngân hàng, trong thời gian
3 năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lập, chỉ được phép chuyển nhượng số cổ phần
vốn góp của mình khi ngân hàng thành lập cho cổ đông khác của ngân hàng.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, những giao dịch chuyển nhượng sau

cần có văn bản chấp thuận của thống đốc ngân hàng nhà nước
2
:
Các giao dịch mua bán mức cổ phần trọng yếu (đây là giao dịch mua bán của cổ
đông nắm giữ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên);
Các giao dịch mua bán cổ phần dẫn đến cổ đông đang sở hữu mức cổ phần trọng
yếu trở thành không sở hữu cổ phần trọng yếu và ngược lại.
Cổ đông cá nhân, cổ đông pháp nhân có người đại diện vốn góp là thành viên
Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc trong thời gian đảm
nhiệm chức danh và trong thời gian 01 năm, kể từ thời điểm không đảm nhiệm chức
danh, được chuyển nhượng cổ phần nhưng phải giữ lại tối thiểu 50% tổng số cổ phần
mà mình sở hữu vào thời điểm được Đại hội đồng cổ đông bầu hoặc được Hội đồng
quản trị bổ nhiệm và phải có văn bản báo cáo Ngân hàng Nhà nước trước khi thực hiện
việc chuyển nhượng cổ phần tối thiểu 15 ngày làm việc đối với số cổ phần được phép
chuyển nhượng.
Trong thời gian đang xử lý các hậu quả theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông do trách nhiệm cá nhân, các thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm
soát, Tổng giám đốc không được chuyển nhượng cổ phần, trừ trường hợp các thành
viên này:
Là đại diện theo ủy quyền của cổ đông là tổ chức bị sáp nhập, hợp nhất, chia
tách, giải thể, phá sản theo quy định pháp luật;
Bị bắt buộc chuyển nhượng cổ phần theo quyết định của Tòa án.
Đồng thời, phải có sự chấp thuận của ngân hàng nhà nước nếu có sự chuyển
nhượng cổ phần của ngân hàng cổ phần do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
2
Theo nghị định 59/2009/NĐ_CP ngày 16/7/2009 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
4
 Đối với nhà đầu tư nước ngoài
3
:

Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan chỉ được phép chuyển
nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và
ngoài nước) tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành là nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
tại một ngân hàng Việt Nam.
Tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan sở hữu 10% vốn điều lệ tại
một ngân hàng Việt Nam chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của
mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 3 năm
kể từ khi sở hữu 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Đây chính là những qui định chặt chẽ nhằm bảo vệ nhà đầu tư cũng như giữ
vững được sự ổn định của một hoạt động mang tính hệ thống và có tầm ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế như hoạt động ngân hàng. Đồng thời, các qui định trên cũng ràng buộc
lợi ích của thành viên sáng lập và đại diện pháp luật của ngân hàng với ngân hàng
Thông tư 08/2008/TT-NHNN ngày 22/3 của Ngân hàng Nhà nước qui định các
tổ chức tín dụng có thể đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt dưới sự kiểm soát trực tiếp
của Ngân hàng Nhà nước nếu có nguy cơ mất khả năng chi trả; nợ không có khả năng
thu hồi; có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong thời gian kiểm soát đặc biệt,
nghiêm cấm chủ tịch và thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, tổng
giám đốc hoặc giám đốc chuyển nhượng cổ phần, chia cổ tức, cất giấu, tẩu tán, cầm cố,
thế chấp, chuyển nhượng hoặc có bất cứ giao dịch nào có liên quan; từ chối hoặc giảm
bớt quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với khách hàng.
CHƯƠNG II: CÁCH THỨC CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẤN
2.1. Chuyển nhượng trực tiếp:
3
Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
5
2.1.1. Khái niệm:
Đây là hình thức chuyển nhượng mà các cổ đông chuyển nhượng cổ phần cho
nhau hoặc chuyển nhượng cho người ngoài công ty thông qua trao đổi trực tiếp. Ở đây
có nghĩa là người bán và người mua gặp gở nhau trực tiếp, tự thỏa thuận với nhau về

giá cả, người mua trực tiếp tự kiểm tra, đánh giá chất lượng của cổ phần chào bán.
Hình thức này xảy ra với người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng thường
là những người quen biết nhau. Thủ tục giao dịch do hai bên tự thỏa thuận theo qui
định của luật dân sự.
Đối với các hành vi chuyển nhượng khác như cho - tặng, thừa kế… cũng thuộc
hình thức chuyển nhượng trực tiếp.
2.1.2.Qui trình thủ tục chuyển nhượng : gồm 6 bước.
Bước 1:Công ty cổ phần ( hoặc là công ty chứng khoán nhận quản lý sổ
cổ đông của công ty) tiếp nhận hồ sơ và yêu cầu chuyển nhượng cổ phần của cổ đông
 Hồ sơ chuyển nhượng bao gồm:
Giấy chuyển nhượng cổ phần (yêu cầu chuyển nhượng cổ phần) hoặc hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần có chữ kí của bên mua và bên bán ( nếu một trong hai bên là tổ
chức thì phải có chữ kí của người được ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật và con
dấu của tổ chức đó).
Sổ chứng nhận cổ đông hoặc giấy sở hữu cổ phần của bên chuyển nhượng và
bên nhận chuyển nhượng (nếu bên mua cũng là cổ đông của công ty).
 Giấy tờ khác của bên chuyển nhượng:
Đối với cá nhân: giấy photo chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (được ghi trên Giấy
chứng nhận cổ phần) của bên chuyển nhượng (có bản chính để đối chiếu).
Trong trường hợp cổ đông không thể thực hiện trực tiếp thủ tục chuyển nhượng
có thể thực hiện ủy quyền cho người khác, người được ủy quyền nộp 1 bản Giấy chứng
nhận ủy quyền và mang theo chứng minh nhân dân/ hộ chiếu để đối chiếu hoặc 1 bản
sao y công chứng, mẫu xác nhận mẫu chữ kí của cổ đông có chứng thực của chính
quyền địa phương (bản chính).
Đối với tổ chức:
- Giấy xác nhận đăng kí kinh doanh (1 bản sao có công chứng).
- Văn bản chấp thuận chuyển nhượng cổ phần của hội đồng thành viên/ hội đồng
quản trị hoặc người có thẩm quyền theo qui định của điều lệ tổ chức và bên chuyển
nhượng.
6

- Giấy giới thiệu của tổ chức và chứng minh nhân dân của người được tổ chức
giới thiệu thay mặt tổ chức thực hiện giao dịch chuyển nhượng (bản chính).
 Giấy tờ khác của bên nhận chuyển nhượng:
- Chứng minh nhân dân/ hộ chiếu của bên nhận chuyển nhượng.
- Giấy ủy quyền và chứng minh nhân dân/ hộ chiếu của người được ủy quyền.
- Nếu bên nhận chuyển nhượng là tổ chức:
- Giấy phép đăng kí kinh doanh (có công chứng).
- Điều lệ công ty (có công chứng).
- Văn bản chấp nhận nhận chuyển nhượng của hội đồng cá nhân hoặc hội đồng
thành viên hoặc cá nhân có thẩm quyền theo điều lệ hoạt động của công ty.
- Giấy giới thiệu của tổ chức và chứng minh nhân dân, hộ chiếu của người được
tổ chức ủy quyền thay mặt thực hiện giao dịch.
 Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài:
- Bản sao hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp.
- Tài liệu chứng minh nguồn tài sản hợp pháp.
- Các văn bản của cá nhân nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự hoặc
chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Tất cả hồ sơ trên phải làm 1 bộ bằng tiếng Việt và 1 bộ bằng tiếng Anh.
Đối với trường hợp thừa kế thì phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền thừa
kế hợp lệ theo quy định của Bộ luât Dân sự hiện hành.
Bước 2: Kiểm tra hồ sơ chuyển nhượng cổ phần.
Nhân viên quản lý sổ cổ đông cho công ty tiến hành kiểm tra:
Kiểm tra tính hợp lệ, tính pháp lý của chứng từ chuyển nhượng và thông tin liên
quan đến chứng từ chuyển nhượng
Kiểm tra, đối chiếu số lượng cổ phần chuyển nhượng
Phân loại hồ sơ chuyển nhượng, những trường hợp chuyển nhượng có điều kiện
theo luật doanh nghiệp 2005 và điều lệ công ty thì phải có phê duyệt của Hội Đồng
Quản trị
Bước 3: Thu phí và cấp giấy xác nhận
Nếu hồ sơ chuyển nhượng đầy đủ và hợp lệ nhân viên tiếp nhận hồ sơ chuyển

nhượng kí xác nhận trên giấy đề nghị chuyển nhượng.
Tiến hành thu phí chuyển nhượng theo mức phí thỏa thuận.
7
Bước 4: Lập phiếu hẹn cấp/ trả sổ cổ đông
Tùy theo mỗi công ty mà thời gian hẹn cấp/trả sổ cổ đông sẻ khác nhau. Thông
thường là 5-10 ngày đối với cá nhân thực hiện chuyển nhượng cổ phần và 15 ngày đối
với tổ chức.
Bước 5: In sổ cồ đông
Bộ phận quản lý sổ cổ đông của công ty căn cứ vào hồ sơ chuyển nhượng để
thực hiện bút toán chuyển nhượng: ghi tăng/gảm cổ phần trên Sổ cổ đông.
Trường hợp người nhận chuyển nhượng đã có Sổ cổ đông. Công ty cổ phần ủy
quyển cho công ty chứng khoán ký phần xác nhận trên Sổ cổ đông.
-Trường hợp cấp phát mới Sổ cổ đông: Bộ phận quản lý sổ cổ đông in đầy đủ thông tin
lên Sổ cổ đông theo mẩu quy định của công ty, sau đó tập hợp chuyển các hồ sơ
chuyển nhượng và Sổ cổ đông mới để lấy chử ký của Chủ tịch Hội Đồng Quản trị công
ty trên sổ cổ đông. Sau khi ký xác nhận các hồ sơ chuyển nhượng và Sổ cổ đông mới
được chuyển trả lại toàn bộ cho bộ phận quản lý sổ cổ đông .
-Đối với người chuyển nhượng: thu lại Sổ chứng nhận cổ đông và huỷ Sổ cổ đông nếu
chuyển nhượng toàn bộ số lượng cổ phần sở hữu.
Bước 6: Cấp/trả Sổ cổ đông
Bộ phận quản lý sổ cổ đông cấp/ trả Sổ cổ đông cho bên chuyển nhượng và bên
được chuyển nhượng sau khi đã hoàn tất các thủ tục trên.
Đối với những công ty cổ phần sử dụng dịch vụ quản lý "Sổ cồ đông và hỗ trợ
thủ tục chuyển nhượng" của công ty chứng khoán. Bộ phân quản lý sổ cổ đông của
công ty cổ phần sẽ là công ty chứng khoán, tất cả các khâu nhận hồ sơ, kiểm tra, in Sổ
cổ đông cho khách hàng sẽ do công ty chứng khoán thực hiện.
2.2. Chuyển nhượng gián tiếp:
2.2.1 Cổ phần được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán tập trung ( Sở giao dịch chứng khoán) – là nơi các nhà
môi giới thực hiện cuộc đấu giá mua – bán chứng khoán cho khách hàng của họ. Thị

trường này hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, là nơi mua bán các loại
chứng khoán đã được đăng biểu hay đặc biệt được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho
phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian, tức là đã hội đủ tiêu chuẩn quy
định.
8
Chứng khoán biệt lệ là chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan công quyền
phát hành và bảo đảm. Loại chứng khoán này được miễn giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền.
2.2.2 Điều kiện niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán:
Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80
tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và
không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết;
Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp
luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc,
Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông
nắm giữ;
Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải
cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày
niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ
phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ;Có hồ sơ đăng ký
niêm yết cổ phiếu hợp lệ.
2.2.3. Trình tự giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán trên sở giao dịch
chứng khoán:
9
Nhà đầu tư

Thành viên lưu kí trong
và ngoài nước
Mở
tài
khoả
n
Công ty chứng
khoán thành
viên
Đặt lệnh
Sửa lệnh
Hủy
lệnh
Đại diện giao
dịch tài sàn
Sửa lệnh
Nhập lệnh
Chuyển
lệnh
Hệ thống giao
dịch. Khớp lệnh
ưu tiên theo giá
và thời gian
Sơ đồ giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán.
a) Nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch và thực hiện ký quỹ.
 Mở tài khoản giao dịch
Nhà đầu tư bắt đầu việc giao dịch của mình bằng cách liên hệ với công ty chứng
khoán là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán để kí hợp đồng giao dịch. Công ty
chứng khoán mở tài khoản giao dịch cho khách hàng. Nhà đầu tư chứng khoán cần
10

điền đầy đủ thông tin vào giấy yêu cầu mở tài khoản với những nội dung sau: số chứng
minh thư, số điện thoại, phương thức giao dịch (chữ kí, dấu,…).
Số chứng minh thư này sẽ là mã số kinh doanh của nhà đầu tư, đồng thời là mả
số quản lí của công ty chứng khoán về nhà đầu tư trên Sở giao dịch chứng khoán.
Sau đó, nhà đầu tư sẽ kí hợp đồng giao dịch với công ty chứng khoán trên cơ sở
mẫu hợp đồng mở tài khoản ký giữa công ty chứng khoán và khách hàng ban hành kèm
theo Quyết định số 04/1998 của Ủy ban chứng khoán Nhà nước về quy chế tổ chức và
hoạt động của công ty chứng khoán.
Nội dung hợp đồng là khách hàng đề nghị bên công ty chứng khoán mở một tài
khoản chứng khoán (gọi là tài khoản) đứng tên khách hàng để lưu giữ, quản lí tiền,
chứng khoán và thực hiện giao dịch chứng khoán cho khách hàng thông qua Sở giao
dịch chứng khoán. Mỗi nhà đầu tư chỉ được mở tài khoản tại một công ty chứng khoán.
Do vậy, trước khi định mở tài khoản giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư nên tự lựa
chọn công ty chứng khoán để mở tài khoản. Việc mở tài khoản chứng khoán hiện nay
được các công ty chứng khoán thực hiện miễn phí, đồng thời khách hàng cũng không
phải ký quỹ, đặt cọc khoản tiền nào.
 Ký quỹ
Trước khi tiến hành giao dịch, nhà đầu tư phải kí quỹ tại công ty chứng khoán.
Trong tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng tại Công ty phải có đủ 100%
giá trị chứng khoán đặt mua hoặc 100% số lượng chứng khoán đặt bán.
b) Nhà đầu tư đặt lệnh giao dịch
 Đặt lệnh
Nhà đầu tư muốn mua hay bán chứng khoán sẽ đến gặp công ty chứng khoán.
Người đầu tư có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để đặt lệnh như đặt lệnh trực
tiếp bằng phiếu lệnh (order slip), điện thoại, fax, hay PC.
Khách hàng kí hợp đồng ủy thác mua hoặc bán chứng khoán với công ty chứng
khoán.
Khách hàng đặt lệnh mua, bán chứng khoán với phòng tiếp thị bằng phiếu lệnh.
Nội dung chi tiết của lệnh gồm có: Lệnh mua hay lệnh bán; tên chứng khoán – mã số
chứng khoán; số lượng chứng khoán; giá.

Công ty chứng khoán rà soát lại phiếu lệnh, rà soát lại tính hợp lệ, hợp pháp của
phiếu lệnh trước khi chuyển sang Sở giao dịch chứng khoán.
11
Công ty chứng khoán chuyển lệnh của nhà đầu tư cho đại diện của công ty tại sở
giao dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán.
 Huỷ lệnh:
Nhà đầu tư có thể thực hiện việc huỷ lệnh giao dịch đã đặt trước đó với điều
kiện lệnh giao dịch đó chưa được khớp hay mới chỉ được khớp một phần.
 Sửa lệnh:
Nhà đầu tư có thể thực hiện việc sửa lệnh giao dịch đã đặt trước đó với điều kiện
lệnh giao dịch đó chưa được khớp. Nhà đầu tư phải lập phiếu sửa lệnh và gửi cho công
ty chứng khoán. Nội dung của lệnh sửa bao gồm các thông tin của lệnh gốc và các
thông tin cần sửa. Khi đó,đại diện giao dịch tại sàn giao dịch sẽ thực hiện hai công
việc: thứ nhất là hủy lệnh gốc của nhà đầu tư, sau đó nhập nội dung của lệnh sửa. khi
đó lệnh sửa của nhà đầu tư được hệ thống coi là lệnh giao dịch mới.
c) Sở giao dịch thực hiện khớp lệnh:
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện khớp lệnh mua và lệnh bán và thông báo
kết quả. Giá khớp được thông báo công khai và là giá thống nhất của bên mua và bên
bán.
Giao dịch khớp lệnh định kì là phương thức giao dịch dựa trên cơ sở tập hợp tất
cả các lệnh mua, bán trong khoảng thời gian nhất định và tạo ra giá khớp. Mức giá này
được xác định dựa trên các nguyên tắc sau:
Là mức giá mà tại đó khối lượng giao dịch là lớn nhất.
Nếu có nhiều mức giá thoả điều kiện trên thì mức giá nào trùng hoặc gần nhất
với giá thực hiện của lần khớp lệnh trước đó sẽ được chọn.
Nếu vẫn có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì mức giá cao nhất sẽ được
chọn.
Giao dịch khớp lệnh liên tục: là phương thức giao dịch thực hiện trên cơ sở lệnh
của nhà đầu tư sau khi được nhập vào hệ thống sẽ được khớp ngay với các lệnh đối ứng
(nếu có) ở các mức giá tốt nhất đã chờ sẵn trong hệ thống.

d) Thông báo kết quả giao dịch:
Sở giao dịch chứng khoán sau mỗi đợt khớp lệnh sẽ thông báo kết quả cho lệnh
được khớp đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán xác nhận với đại diện giao
dịch về kết quả giao dịch sau khớp lệnh. Chi tiết xác nhận gồm có: Tên chứng khoán;
khối lượng mua và bán; tên (mã số) của bên thành viên đối tác; ngày, thời gian giao
12
dịch được thực hiện; số hiệu của lệnh được thực hiện; các chi tiết cần thiết khác theo
quy định của sở giao dịch chứng khoán.
Công ty chứng khoán chuyển kết quả giao dịch để thực hiện thanh toán tại
Trung tâm lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ
Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho các nhà đầu tư.
e) Hoàn thành quá trình chuyển nhượng:
Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người
bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày
mua bán chứng khoán nếu quy định vể thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng
khoán là T+3.
2.2.4. Ưu và nhược điểm của cách thức chuyển nhượng cổ phần trên sở giao
dịch chứng khoán.
 Ưu điểm:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các cổ đông của doanh nghiệp thực hiện chuyển
nhượng cổ phần một cách thuận lợi, nâng cao tình thanh khoản cho cổ phần của các
doanh nghiệp này.
Thông tin được minh bạch giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư khi thực
hiện giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Các báo cáo tài chính hàng năm của các
công ty cổ phần đã niêm yết buộc phải được kiểm toán, đồng thời, các giao dịch đều
được thực hiện dưới sự quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà nước nên sẽ tránh được
các rủi ro như lừa đảo, mua bán khống như cách giao dịch thông qua thị trường phi tập
trung.
 Nhược điểm :
Số lượng công ty cổ phần đủ điều kiện để được niêm yết trên Sở giao dịch

chứng khoán còn quá ít nên làm cho thị trường kém sôi động, không đáp ứng được hết
nhu cầu của nhà đầu tư.
Rủi ro thường xảy ra trong quá trình nhập lệnh vào hệ thống máy tính của các
Broker khi khối lượng giao dịch nhiều.
2.3. Cổ phần giao dịch mua bán, chuyển nhượng tại thị trường phi tập
trung
2.3.1. Trình tự giao dịch, mua bán, chuyển nhượng tại công ty chứng
khoán.
13
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế trong nước và thế giới Thị
trường OTC (Over the counter) Việt Nam phát triển theo mô hình phát triển của thị
trường giao dịch cổ phiếu OTC của các nước trên thế giới. Tất cả các giao dịch các cổ
phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết của các công ty đại chúng được giao dịch qua thị
trường OTC với sự giám sát của các cơ quan chức năng và tổ chức giao dịch theo các
hình thức như một cổ phiếu đã niêm yết. Tuy nhiên đối với cổ phiếu giao dịch trên sàn
OTC có một số điểm khác biệt so với giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
tập trung về cách thức giao dịch và đặt lệnh như: không có có biên độ khống chế về giá
giao dịch cũng như giá tham chiếu. Thời gian khớp lệnh của hệ thống kéo dài từ 10-15
giờ/ngày. Nhà đầu tư được phép mua và bán cùng 1 loại cổ phiếu trong cùng 1 ngày
giao dịch. Ở sàn chứng khoán tập trung thì lệnh mua bán chứng khoán sẽ được hệ
thống máy tính so khớp, còn ở sàn giao dịch OTC thì các đại diện giao dịch chọn lệnh
để khớp.
Cách thức giao dịch sẽ được thực hiện như sau: cả người mua và người bán đều
mở tài khoản tại sàn giao dịch OTC. Sau khi người mua đặt lệnh mua cổ phiếu, người
bán đặt lệnh bán cổ phiếu thì các phiếu lệnh này sẽ được người giao dịch đưa vào thị
trường OTC để thực hiện lệnh. Nếu là một lệnh mua chẳng hạn, thì bộ phận chuyên
trách mua bán sẽ liên hệ với một số nhà tạo giá (các dealers) để thu xếp giao dịch (mua
chứng khoán) cho khách hàng với giá chào bán (offer) thấp nhất. Khi giá mua cao nhất
của khách hàng A khớp với giá bán thấp nhất của khách hàng B thì việc mua bán thực
hiện , người đại diện giao dịch thương lượng các điều khoản giao dịch cần thiết và giao

dịch kết thúc.
Ví dụ như khách hàng A muốn mua cổ phiếu 100 cổ phiếu của công ty XYZ
thì khách hàng A sẽ đặt lệnh mua 100 cổ phiếu của XYZ và người môi giới ghi phiếu
lệnh. Sau đó phiếu lệnh này sẽ được chuyển đến người giao dịch trên thị trường OTC
của công ty. Người giao dịch trên thị trường OTC sẽ xác định những người đang nắm
giữ chứng khoán của công ty XYZ và có nhu cầu muốn bán (cũng thông qua việc đặt
lệnh),để thương lượng các điều khoản của giao dịch như giá bán, số lượng mua. Trông
mỗi phiên giao dịch, người giao dịch sẽ ra giá cao nhất sẵn sàng bán và giá thấp nhất
của cổ phiếu công ty XYZ mà họ đang nắm giữ. Khi giá mua cao nhất của khách hàng
A khớp với giá bán thấp nhất của một khách hàng B nào đó thì việc mua bán được thực
hiện và giao dịch kết thúc.
Trường hợp giữa người mua và người bán đã xác định được nhau nhưng vì do
điều kiện về khoảng cách 2 người không thể gặp nhau trực tiếp để thực hiện giao dịch
14
được thì có thể thông qua công ty chứng khoán. Người mua và người bán chỉ cần mở
tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán, người mua chuyển tiền vào tài khoản của
mình. Người mua sẽ ký hợp đồng mua cổ phiếu với công ty chứng khoán, còn công ty
chứng khoán sẽ ký hợp đồng mua chứng khoán với người bán cổ phiếu. Mức giá mua
bán, số lượng sẽ do người mua và người bán tự thỏa thuận với nhau.
Mọi thủ tục chuyển nhượng sau khi đã có sự thỏa thuận giữa người mua và
người bán sẽ do công ty chứng khoán thực hiện giống như giao dịch trên sở giao dịch
chứng khoán.
2.3.2. Những ưu diểm và nhược điểm của cách thức chuyển nhượng cổ
phần qua thị trường phi tập trung
 Ưu điểm:
Tạo tính thanh khoản cho các cổ phiếu của các công ty cổ phần chưa có đủ điều
kiện để niêm yết chứng khoán.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người mua và ngưới bán cổ phiếu có thể giao dịch
mua, bán, chuyển nhượng cổ phần dù ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.
Khối lượng cổ phiếu giao dịch lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu

tư.
 Nhược điểm:
Khách hàng giao dịch trên thị trường OTC gặp nhiều khó khăn trong vấn đề thu
thập và tiếp cận thông tin.
Các nguồn thông tin không đủ căn cứ vững chắc và độ tin cậy để giúp nhà đầu
tư đưa ra quyết định chính xác. Trong khi đó, việc các thủ tục sang tên chuyển nhượng
cổ phiếu lại chỉ được thực hiện sau khi đã đóng tiền đầy đủ. Vì thế việc mua bán cổ
phiếu này mang rất nhiều yếu tố rủi ro cho người mua.
Dễ xảy ra tranh chấp trong quá trình mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu.
Nguyên nhân chủ yếu là người mua và người bán không thỏa thuận rõ ràng trong hợp
đồng chuyển nhượng cồ phiếu. Trường hợp hay xảy ra như:
Tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu. Trước khi phát hành CP tăng
vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại thời điểm đó, những ai sở hữu CP
nằm trong danh sách cổ đông của công ty sẽ được mua thêm cổ phiếu mới. Với những
người mua cổ phiếu trong giai đoạn giao thời hoặc khi danh sách cổ đông đã được
chốt, nếu không biết thì dù tiền đã thanh toán cho người bán, cổ phiếu đã nắm giữ,
15
nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, người mua vẫn mất quyền mua, quyền
mua cổ phiếu mới vẫn thuộc về người bán.
Tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức được chia cho cổ đông dựa trên số
lượng cổ phần họ đang nắm giữ. Thông thường, công ty chia cổ tức sau khi kết thúc
năm tài chính, một số công ty tạm ứng cổ tức sau 6 tháng. Vì thế người mua mặc dù
vẫn đang nắm trong tay cổ phiếu của công ty nhưng lại không được nhận cổ tức của
công ty.
Rủi ro trong mua bán cổ phần chưa được chuyển nhượng.Có những cổ phần
theo quy định nội bộ của công ty, sau 1 năm mới được chuyển nhượng, nhưng nhiều
nhà đầu tư không nắm được thông tin nên đã mua. Và trong thời hạn 1 năm đó, các
quyền lợi như mua thêm cổ phần tăng vốn, nhận cổ tức… vẫn thuộc về người đứng tên
sở hữu cổ phần (người bán), còn người đã bỏ tiền ra mua thì bị chiếm đoạt quyền lợi.
Rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua. Trong các đợt phát

hành thêm cổ phần mới để tăng vốn, cổ đông hiện hữu, cổ đông chiến lược hay cán bộ
công nhân viên được quyền mua CP. Khi đó, nhiều người do không huy động được tiền
hoặc vì nhiều lý do khác đã bán quyền mua CP. Giá bán quyền mua thường thấp hơn
giá thị trường thời điểm đó. NĐT mới thấy giá thấp, hấp dẫn thường chấp nhận mua.
Nhưng từ khi nộp tiền để mua CP cho đến khi nhận được CP là khoảng thời gian khá
dài, nên đến khi nhận được CP thì CP vẫn đứng tên chủ sở hữu là người bán. Khi đó,
nếu giá CP đứng yên, giảm hay người bán nghiêm túc, đứng đắn thì việc làm thủ tục
chuyển nhượng không vấn đề gì. Ngược lại, gặp phải người không trọng chữ tín thì dễ
dàng bị đánh tháo và hứa hẹn trả lại số tiền trước kia đã nhận, kèm với lãi suất ngân
hàng.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHUYỂN NHƯỢNG
CỔ PHẦN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
3.1. Thực trạng
3.1.1 Thuế Thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng Chứng khoán.
Theo điều 3 Nghị định 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy định
thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán phải chịu
điều chỉnh của Thuế thu nhập cá nhân.
16
Theo đó, thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là 20%/thu
nhập tính thuế cả năm chỉ áp dụng đối với trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện
đúng quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn chứng từ, xác định thu nhập tính thuế
quy định tại điều 16 Nghị định này và đăng ký thực hiện ổn định với cơ quan thuế từ
tháng 12 năm trước.
Tuy nhiên, kể từ khi dự luật Thuế TNCN được tổ chức lấy ý kiến công khai, thì
việc thu thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán đã không nhận
được sự ủng hộ của các nhà đầu tư tài chính. Lí do như sau:
Thứ nhất, việc thu Thuế thu nhập cá nhân từ lợi nhuận của hoạt động chuyển
nhượng vốn trong bối cảnh thị trường đang có nhiều biến động có thể sẽ gây nản lòng
của các nhà đầu tư.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng, từ cuối 2007 kéo dài đến sang

hai năm 2008, 2009, đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế ở Việt Nam. Trong suốt
thời kỳ khủng hoảng của thị trưòng tài chính, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp
để kiềm chế lạm phát, vực dậy nền kinh tế trong nước, trong đó giải pháp về tài chính
tiền tệ nói chung và giải pháp về thị trưòng chứng khoán nói riêng được đặt biệt quan
tâm. Trong khi đó, Luật thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán lại
ra đời trong bối cảnh thị trường tài chính nứớc ta đang rất bất ổn, lại có vẻ như đi
ngược lại những giải pháp, chính sách nhằm cải thiện nền kinh tế. Năm 2009, Nhà
nước đã triển khai mạnh mẽ chương trình cổ phần hoá DNNN, điều này đồng nghĩ với
thị trường chứng khoán phải chịu thêm sức ép lớn về lượng cung, trong khi cầu chưa
có khả năng phục hồi mạnh. Mặt khác, xét về tầm ảnh hưởng thì thị trường tài chính,
trong đó có thị trường chứng khoán có tính lan toả cao nhất, sự suy thoái thị trường này
chắc chắn có tầm ảnh hưởng rộng, mà theo đó việc thu Thuế TNCN trên hoạt động
chuyển nhượng chứng khoán sẽ tác động không tốt đến sự phát triển của thị trường
chứng khoán – tài chính, gây nản lòng các nhà đầu tư chứng khoán.
Thứ hai, hai cách tính Thuế thu nhập cá nhân có thể gây lợi cho các nhà đầu tư
vì ngay khi chuyển nhượng, nhà đầu tư chỉ được nộp thuế theo 1 phương pháp tính
thuế duy nhất.
Căn cứ vào điều 16, điều 17 của Nghị định 100/2008/NĐ-CP có 2 phương pháp
nộp thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán: Nộp theo thuế suất 20%
trên thực lãi hoặc 0.1% trên giá chuyển nhượng
4
.
4
Điều 16. Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng chứng khóan, chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu được
xác định bằng giá bán chứng khoán trừ (-) giá mua các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng
17
Thuế suất 20% được áp dụng cho kỳ tính thuế theo năm, được bù trừ lỗ lãi giữa
các lần chuyển nhượng, trường hợp bị lỗ thì sẽ được chuyển lỗ trong 5 năm tiếp theo.
Trong năm, các công ty chứng khoán có trách nhiệm tạm khấu trừ thuế 0,1% trên giá
chuyển nhượng, cuối năm cá nhân thực hiện kê khai, quyết toán cho thu nhập cả năm.

Nếu cá nhân chọn nộp thuế theo phương pháp này thì đầu năm thực hiện đăng ký với
cơ quan thuế.
Thuế suất 0,1% được áp dụng trên giá trị từng lần chuyển nhượng chứng khoán.
Nếu lựa chọn phương pháp này, cá nhân không cần đăng ký với cơ quan thuế. Công ty
chứng khoán thực hiện khấu trừ và nộp thay tiền thuế của nhà đầu tư vào NSNN, đây
cũng chính là số thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng chứng khoán của nhà đầu tư.
Việc lựa chọn phương pháp kê khai, nộp thuế theo thuế suất toàn phần 20% sẽ
thuận tiện cho các nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm nhiều cổ phiếu, giao dịch nhiều
lần trong năm, vì chỉ phải tính toán lãi lỗ và quyết toán một lần cho toàn bộ các giao
dịch trong cả năm. Ngược lại, đối với các cá nhân có số lần thực hiện chuyển nhượng
cổ phần ít thì áp dụng phương pháp tính thuế ấn định 0.1% lại có lợi hơn.
Tuy nhiên, theo Thông tư 84/2009/TT-BTC, trong mọi trường hợp chuyển
nhượng chứng khoán, không phân biệt nộp thuế theo thuế suất ấn định 0,1% hay biểu
thuế toàn phần với thuế suất 20%, công ty chứng khoán hoặc đơn vị phát hành chứng
khoán đều phải khấu trừ thuế ấn định trước khi thanh toán cho người chuyển nhượng.
Có nghĩa là, cá nhân chuyển nhượng chứng khoán, dù đã đăng ký nộp thuế theo
biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%, thì vẫn phải tạm bị khấu trừ 0,1% trên giá
chuyển nhượng từng lần.
Trường hợp năm đầu tư bị lỗ hoặc số thuế phải nộp lớn hơn phần kê khai tạm
nộp theo mức ấn định 0,1% theo từng lần giao dịch trong suốt cả năm, thì nhà đầu tư có
thể thực hiện các thủ tục xin hoàn số thuế đã nộp thừa trong năm. Theo dự án cải cách
thủ tục hành chính trong công tác thuế, hồ sơ, thủ tục và thời gian kiểm tra hoàn thuế
đang và sẽ được đơn giản hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người nộp thuế được hoàn thuế.
Điều 17. Thuế suất
Thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là 20%/thu nhập tính thuế cả năm chỉ áp
dụng đối với trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn chứng
từ, xác định thu nhập tính thuế quy định tại điều 16 Nghị định này và đăng ký thực hiện ổn định với cơ quan thuế
từ tháng 12 năm trước.
18

Đây là một điểm bất lợi cho các nhà đầu tư chứng khoán đăng kí biểu thuế 20%
vì giả sử hợp đồng giao dịch của nhà đầu tư bán ra có giá trị thấp hơn giá trị khi mua
vào (tức là khi nhà đầu tư bị lỗ) thì vẫn bị khấu trừ thuế 0,1% giá trị giao dịch và chỉ
được quyết toán vào cuối năm để xin được hoàn thuế, điều này có nghĩa một phần vốn
của họ đã bị giữ lại, thay vì có thể sử dụng để đầu tư vào các hạng mục khác.
Tuy nhiên, nếu xét trên tổng thể những quy phạm điều chỉnh của cả bộ Luật
Thuế TNCN và xét trên mối tương quan giữa thuế TNCN với các sắc thuế khác thì việc
không thu thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ gây ra những hậu quả
khôn lường, cả tâm lý và thực tiễn.
Thứ nhất, nếu chỉ vì khuyến khích sự phát triển của thị trường chứng khoán mà
không thu Thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ gây nên một sự so sánh
rằng, hoạt động đầu tư vốn có được miễn thuế TNCN không, bởi đây cũng là kênh huy
động vốn hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp có thu nhập từ đầu tư chứng khoán đang
chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 25%, cao hơn nhiều so với mức
thuế suất 20% tính trên thu nhập chịu thuế cả năm của cá nhân nhà đầu tư. Do đó, nếu
dừng thu Thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ tạo điều kiện để các
doanh nghiệp đầu tư chứng khoán so bì, kiến nghị.
Thứ ba, là xét về mặt xã hội, các nhà đầu tư chứng khoán là người có thu nhập
cao, nên không thu thuế đối với đối tượng này thì sẽ là sự bất công đối với hàng triệu
hộ kinh doanh nhỏ lẻ và hàng chục triệu người làm công ăn lương trong bối cảnh cuộc
sống vô cùng khó khăn hiện nay.
Cuối cùng, việc hoãn thu Thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ là
một tiền lệ không tốt, ảnh hưởng lớn đến việc ban hành các sắc thuế mới trong tương
lai.
Do những điều kiện trên, Chính phủ đã thực hiện hoãn thu Thuế TNCN đối với
hoạt động chuyển nhượng chứng khoán trong năm 2009, và bắt đầu áp dụng vào ngày
1/1/2010, khi nền kinh tế - tài chính nước ta đã phần nào có dấu hiệu phục hồi.
3.1.2. Những hạn chế nghị định 01 trong chuyển nhượng cổ phần.
Ngày 4/1, Thủ tướng đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ

phần riêng lẻ có hiệu lực từ ngày 25/2/2010.
Nghị định trên nêu rõ, hạn chế chuyển nhượng cổ phần phát hành riêng lẻ thời
hạn 1 năm, các đợt chào bán phải cách nhau tối thiểu là 6 tháng.
19
Đối tượng áp dụng của nghị định này là các công ty cổ phần, các doanh nghiệp
chuyển đổi thành công ty cổ phần - ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần thành lập và hoạt động theo pháp
luật nước ngoài không được chào bán cổ phần trên lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý chào bán cổ phần riêng lẻ gồm: Ngân
hàng Nhà nước (trong trường hợp tổ chức chào bán là tổ chức tín dụng); Bộ Tài chính
(doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần); Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (công ty cổ phần
chứng khoán, công ty cổ phần quản lý quỹ, công ty đại chúng (trừ các công ty đại
chúng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm); sở kế hoạch và
đầu tư, ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế (tổ
chức chào bán là các công ty cổ phần còn lại).
 Các hạn chế của Nghị định 01:
Theo Nghị định 01, cổ phần phát hành riêng lẻ hông được chuyển nhượng trong
thời hạn 1 năm, kể từ ngày phát hành. Quy định này trái với Luật Doanh nghiệp ở chỗ
Luật Doanh nghiệp chỉ hạn chế chuyển nhượng cổ phần với các cổ đông sáng lập chứ
không hạn chế cổ đông phổ thông chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.
Hiện tại, Nghị định 01 yêu cầu doanh nghiệp chỉ được chào bán sau 15 ngày nếu
không nhận được ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kể từ ngày nộp hồ sơ
hợp lệ và đầy đủ; các đợt chào bán phải cách nhau tối thiểu 6 tháng; DN phải sử dụng
vốn đúng theo phương án đã được thông qua và đã đăng ký với cơ quan có thẩm
quyền; tiền mua chứng khoán chuyển vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng cho đến
khi hoàn tất việc chào bán.
Như vậy, với các quy định nêu trên, Nghị định 01 đã can thiệp quá sâu vào hoạt
động chào bán của doanh nghiệp. Không có cơ sở nào để hạn chế thời gian chuyển
nhượng cổ phiếu phát hành riêng lẻ là 1 năm. Ưu điểm của việc góp vốn vào CTCP so

với công ty TNHH là nhà đầu tư có quyền tự do chuyển nhượng. Việc hạn chế chuyển
nhượng chỉ có thể do bên mua tự nguyện và thỏa thuận với bên bán theo quy định dân
sự.
Thời hạn 6 tháng giữa hai đợt chào bán riêng lẻ sẽ hạn chế doanh nghiệp huy
động vốn thực hiện các ý tưởng kinh doanh mới. Trong thời gian chờ đợi này, CTCP
có thể phải vay vốn ngân hàng để thực hiện kế hoạch kinh doanh thay vì phát hành cổ
phiếu để tăng vốn chủ sở hữu, một nguồn vốn có khả năng chia sẻ cơ hội cũng như
20
những rủi ro trong kinh doanh. Việc chuyển tiền mua cổ phần chào bán riêng lẻ cũng là
quyền thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, không cần đến sự can thiệp của ngân hàng
phong tỏa tài khoản trong thời gian hoàn tất phát hành.
 Nghị định thay thế Nghị định 139:
Hiện thời, Ban soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định 139 do Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương (Thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì cho biết, Nghị định
mới quy định, “tất cả các Công ty cổ phần đều có quyền phát hành cổ phần riêng lẻ,
không quy định điều kiện hạn chế chuyển nhượng trước và sau phát hành”.
Nghị định mới thay thế Nghị định 139 hướng dẫn Công ty cổ phần được thực
hiện việc chào bán riêng lẻ ngay sau khi đã thông báo với cơ quan có thẩm quyền là
Phòng đăng ký kinh doanh và phải sử dụng số vốn phát hành đúng như phương án đã
thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về mặt thủ tục, Nghị định thay thế Nghị định 139 cũng đơn giản hóa thủ tục
chào bán riêng lẻ. Công ty cổ phần chỉ cần thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh
thay vì phải làm thủ tục đăng ký.
Một trong những mục tiêu của Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn chi
tiết thi hành Luật Doanh nghiệp là đơn giản hóa thủ tục chào bán riêng lẻ, nhằm tạo
điều kiện tốt nhất cho Công ty cổ phần huy động vốn. Công ty cổ phần chỉ có trách
nhiệm thông báo thông tin về đợt chào bán đến cơ quan có thẩm quyền theo dõi là
Phòng đăng ký kinh doanh. Cơ quan quản lý có trách nhiệm theo dõi và giám sát hoạt
động sử dụng vốn của doanh nghiệp để có phát hiện sai phạm trong trường hợp doanh
nghiệp sử dụng sai mục đích.

Nghị định 01 ra đời với những điều kiện chặt chẽ về chào bán riêng lẻ đã ảnh
hưởng phần nào đến hoạt động phát hành riêng lẻ của các doanh nghiệp, đặc biệt trong
thời điểm doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn khá cao để tìm nguồn vốn thay thế
nguồn vốn vay ngân hàng lãi suất cao. Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Doanh nghiệp sẽ có những điểm khác biệt về mặt pháp lý
giữa hai văn bản quy phạm. Các chuyên gia cho rằng, theo quy định về hiệu lực văn
bản pháp luật, hai vản bản cùng cấp có quy định khác nhau thì văn bản sau sẽ có quyền
phủ định các quy định của văn bản ban hành trước. Như vậy hy vọng, nghị định mới
sớm ban hành tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động chào bán riêng lẻ của Công ty
cổ phần.
 Bảng so sánh:
21
Nghị định 01 Nghị định 139
- Ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ
phần, các công ty cổ phần, các doanh
nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần
đều phại chịu sự hạn chế của Nghị định
01.
- Không được phép chuyển nhượng cổ
phần phát hành riêng lẻ trong thời hạn 1
năm kể từ ngày phát hành.
- Doanh nghiệp chỉ được chào bán sau 15
ngày nếu không nhận được ý kiến của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền kể từ ngày
nộp hồ sơ hợp lệ và đầy đủ; các đợt chào
bán phải cách nhau tối thiểu 6 tháng.
- Tất cả các Công ty cổ phần đều có
quyền phát hành cổ phần riêng lẻ.
- Không quy định điều kiện hạn chế

chuyển nhượng trước và sau phát hành.
- Công ty cổ phần được thực hiện việc
chào bán riêng lẻ ngay sau khi đã thông
báo với cơ quan có thẩm quyền là Phòng
đăng ký kinh doanh.
- Thủ tục chào bán riêng lẻ đơn giản hơn.
3.1.3. Chuyển nhượng chứng khoán thông qua môi giới tự do.
Thực tế, ngoài thị trường còn xảy ra một hình thức chuyển nhượng cổ phần khá
là phổ biến đối với cổ phần của các công ty chưa đủ điều kiện để niêm yết trên sở giao
dịch chứng khoán, đó chính là giao dịch chuyển nhượng qua các nhà môi giới tự do.
Có một câu chuyện xảy ra như sau, vào một buổi chiều thứ sáu tại một công ty
chứng khoán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời kể của những nhân chứng
có mặt tại công ty chứng khoán , một nhà đầu tư đã mua cổ phiếu OTC của ngân hàng
Eximbank qua một nhà “cò” (môi giới tự do) vào cuối giờ chiều. sau khi trả tiền, nhà
đầu tư cầm giấy biên nhận hồ sơ chuyển nhương cổ phiếu Eximbank kèm biên lai thu
phí chuyển nhượng đến gặp nhân viên môi của công ty chứng khoán ở lầu trên đề nghị
đóng dấu của công ty chứng khoán để xác nhận giao dịch. Tại đây, nhân viên công ty
chứng khoán kiểm tra và phát hiện đó là giấy biên nhận giả. Nhà đầu tu quay xuống lầu
tìm người bán thì người này đã lặn mất tăm.
Giấy biên nhận được xác định là giả mạo chữ ký của thủ quỹ, giao dịch viên,
kiểm soát và dấu mộc, phông chữ trên tờ giấy biên nhận giả cũng khác biệt với phông
chữ của công ty chứng khoán trên sử dụng. Ngoài ra, giấy biên nhận giả còn thiếu một
yếu tố quan trọng là dấu mộc tròn và mã số giao dịch ở phía dưới góc trái và những cái
khác mà người giao dịch không phát hiện ra.
22
Đây là một thực trạng vẫn thường xảy ra cho các nhà đầu tư đối với các giao
dịch chuyển nhượng cổ phần thông qua các nhà môi giới tự do.
Việc chuyển nhượng cổ phần thông qua các nhà môi giới tự do sẽ được tiến
hành theo cách các cổ đông cũ làm giấy chuyển nhượng cho nhà môi giới tự do (“cò”)
nhưng phần “người mua” để trống. Sau khi ký được hợp đồng với người bán, nhiệm vụ

của các “cò cổ phiếu” là làm việc với công ty phát hành để công ty ký xác nhận vào
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, chấp nhận người mua là cổ đông mới của công ty
(mặc dù chưa biết đích danh). Cổ phần tự do được chào bán theo giá tự đặt, nếu có
người mua tương ứng, họ chỉ cần sang chuyển số cổ phần đó cho người mua kèm hợp
đồng chuyển nhượng ghi tên nhà đầu tư vào chỗ để trống. Nhà đầu tư sau khi nhận
được cổ phiếu phải đến nôp hồ sơ chuyển nhượng tại bộ phận quản lý sổ cổ đông của
công ty cổ phần và thực hiện các thủ tục chuyển nhượng giống như thủ tục chuyển
nhượng trực tiếp để được nhận sổ cổ đông của công ty mang tên mình. Hình thức giao
dịch này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của người môi giới.
Vụ lừa đảo ở trên được thực hiên dựa vào hình thức giao dịch này.
Như vậy, từ thực trạng trên cho thấy cần thiết phải có sự điều tiết của Pháp luật
đối với hoạt động môi giới tự do, dự thảo Luật chứng khoán về môi giới tự do cần có
những điều khoản quy định chặt chẽ hơn đối với các đối tượng này, tăng cường kiểm
tra để đưa hoạt động môi giới tuân thủ theo quy định hiện hành. Mặt khác, các nhà đầu
tư chứng khoán cần phải chú ý cẩn trọng đối với các giao dịch chuyển nhượng qua môi
giới tự do.
3.2. Giải pháp:
Từ các vấn đề trên, ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của Pháp luật trong nền
kinh tế. Pháp luật với vai trò hướng dẫn và điều tiết nền kinh tế, do đó mà các hướng
dẫn, quy định cần phải rõ ràng, cụ thế. Điều này không chỉ giúp cho người dân nói
chung, các nhà đầu tư nói riêng có thề hiểu rõ, hiểu đúng Luật pháp. Tránh tình trạng
những “hạt sạn” nhỏ lại gây ảnh hưởng lớn đến cả một nền kinh tế. Vì mục đích cuối
cùng của Luật là hướng nền kinh tế đi lên trên con đường phát triển, chứ không phải
kiềm hãm, gây khó khăn trở ngại cho các nhà đầu tư.
Các nhà làm luật cần phải hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, cũng như có những biện
pháp nhằm hổ trợ nhà đầu tư một cách tối ưu, mà trong đó công tác tuyên truyền, giải
thích của các cơ quan quản lý cần phải đặt lên hàng đầu. Bởi có thấu hiểu đạo lý thì
ngưòi dân mới đồng thuận và tự giác chấp hành.
23
Mặt khác, các nhà đầu tư gồm cá nhân và tổ chức cũng cần phải nắm rõ Pháp

luật cũng như các thông tin một cách chính xác, đầy đủ để tránh những hiểu lầm, hiểu
sai có thể gây ra thiệt hại không đáng cho bản thân.
CHƯƠNG 4: SO SÁNH CÔNG TY TNHH 2 THÀNH VIÊN VÀ CÔNG TY CỔ
PHẦN
4.1. Giống nhau:
- Cả hai loại hình công ty trách nhiêm hữu hạn và công ty cổ phần đều là công ty
đối vốn, đều chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005.
- Đều là sự liên kết vốn của nhiều thành viên vì mục đích kinh doanh kiếm lời.
Các thành viên góp vốn trong công ty TNHH hay là cổ đông của công ty cồ
phần, khi thực hiện tham gia góp vốn vào công ty thì đều vì mục đích cuối cùng
của mình là được chia lợi nhuận trên phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ
thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Các thành viên hưởng lãi và chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp
24
- Thuận lợi trong việc kêu gọi vốn đầu tư.
- Đều chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của công ty
- Đều có tư cách pháp nhân
- Trình tự thành lập, giải thể, phá sản giống nhau
- Cùng được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu Tư
4.2. Khác nhau:
CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG TY TNHH 2 TV
Điều kiện
thành lập
Việc thành lập công ty cổ phần
rất phức tạp.
Việc thành lập công ty đơn
giản hơn nhiều .
Số lượng
thành viên
Thành viên Công ty bị giới hạn

tối thiểu là 3 và không giới hạn
tối đa. Số lượng thành viên là rất
lớn và có thể ở khắp mọi nơi trên
thế giới, có thể là những người xa
lạ, không quen biết nhau.
Thành viên của Công ty bị giới
hạn là từ 2-50 thành viên.
Những thành viên tham gia góp
vốn thường là những người
quen biết với nhau.
Tư cách
thành viên
của thành
viên góp
vốn
Người góp vốn chỉ trở thành cổ
đông của công ty khi hoàn tất
việc góp vốn ( đóng tiền mua cổ
phiếu đầy đủ)
Các thành viên có thể góp vốn
ngay khi thành lập hoặc cam
kết góp vốn sau một thời gian
nhất định. Tư cách thành viên
xuất hiện ngay khi chính thức
được công ty ghi nhận (dù có
thể chưa hoàn tất việc góp vốn)
Hình thức
góp vốn
Vốn điều lệ của Công ty cổ phần
được chia thành các phần bằng

nhau, thể hiên dưới hình thức cổ
Vốn điều lệ của công ty được
chia thành từng phần, không n
nhất thiết phải bằng nhau, mỗi
25

×