SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VINH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHỤ
ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM VỀ MÔN TOÁN LỚP 4
Họ và tên: Nguyễn Thị Nguyệt
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị: Trường Tiểu học Nghi Liên
NĂM HỌC: 2011 – 2012
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cũng như các môn học khác, môn Toán có một vai trò hết sức quan trọng
trong việc hình thành nhân cách con người lao động. Vì vậy, mỗi giáo viên cần
phải có trách nhiệm dạy học sao cho học sinh của mình tiếp thu được những kiến
thức và kĩ năng mà chương trình giáo dục tiểu học quy định. Tuy nhiên, không
phải mọi học sinh đều học tập dễ dàng như nhau, có thể có những học sinh nắm
kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần có sự cố gắng đặc
biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy mặc dù
đã cố gắng rất nhiều, đó chính là các em học sinh yếu, kém về môn Toán.
Qua theo dõi chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm qua, tôi
thấy rằng chất lượng môn toán ở một số học sinh còn hạn chế. Một số học sinh
vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng cơ bản nên thực chất
vẫn còn tồn tại học sinh yếu, kém về môn toán có nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học
sinh yếu, kém đó chủ yếu là ở khối 4,5. Bởi vì lên lớp 4,5 kiến thức môn toán có
thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học sinh cần phải có sự tư duy trừu
tượng để học môn toán. Ở trường chúng tôi, khối lớp 4 là khối lớp có số học sinh
học yếu, kém môn toán là nhiều nhất.
Là một phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn ở trường Tiểu học bản thân
tôi nhận thấy: Việc dạy học các em học sinh yếu, kém môn toán lên trình độ
trung bình là một vấn đề không đơn giản.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã trăn trở, nghiên cứu vấn đề và bằng kinh
nghiệm bản thân trong quá trình phụ trách chuyên môn tôi xin trao đổi và chia sẻ
cùng đồng nghiệp “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học
sinh yếu, kém về môn Toán lớp 4 ” nhằm góp phần ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng học sinh lớp 4 yếu, kém về môn Toán đồng thời góp phần nâng cao chất
lượng dạy học toán ở Tiểu học nói chung.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao hiệu quả công
tác phụ đạo học sinh yếu,kém môn Toán lớp 4 và thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
đào tạo của nhà trường.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Tìm hiểu thực trạng chất lượng môn Toán lớp 4.
- Tìm ra nguyên nhân tích cực của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
IV. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng: Học sinh Tiểu học (Lớp 4); giáo viên, phụ huynh HS và đồng
nghiệp.
2. Phạm vi, mức độ: Nghiên cứu về nội dung và các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán lớp 4.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Đọc tài liệu, giáo trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
2. Phương pháp điều tra.
- Tìm hiểu thực trạng việc phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán lớp 4.
Phương pháp thực nghiệm.
- Nhằm mục đích kiểm tra tính khả thi của đề tài.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG.
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Học sinh yếu, học sinh khó khăn trong học tập
- Học sinh yếu, học sinh khó khăn trong học tập là những học sinh phát triển
không bình thường về mặt năng lực nhận thức, học kém không theo kịp chương
trình và các bạn trung bình trong lớp biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
- Động cơ học tập lệch lạc, mờ nhạt hoặc bị thui chột.
- Tri thức các môn học phiến diện, hẫng hụt, tụt hậu so với bạn bè và so với
yêu cầu, kĩ năng thực hành yếu hoặc di chuyển sang lĩnh vực hoạt động theo
những mục đích, động cơ ngoài việc học tập. Kết quả học tập thất thường, yếu
kém và không có độ tin cậy cao.
- Thái độ tiêu cực trong học tập, chán ghét, không ham thích những hoạt
động học tập. Từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực, gian dối, đối phó hoặc có
khi có những biểu hiện ghen tức bạn bè học khá, thù ghét những thầy cô giáo
nghiêm khắc trong giáo dục, hay bỏ học, trốn tiết.
1.2. Giáo dục học sinh yếu kém
- Giáo dục học sinh yếu kém là quá trình tác động của những người làm
công tác giáo dục tới đối tượng học sinh có trình độ chưa đạt tiêu chuẩn giáo dục.
- Học sinh yếu kém là những em mà trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách đã có những biểu hiện không bình thường về thể chất, tinh thần, trí
tuệ, đạo đức cần được sự quan tâm giúp đỡ của nhà trường - gia đình - xã hội
cũng như sự nỗ lực của chính các em. Vì vậy, giáo dục học sinh yếu kém trước
hết là quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng nhân cách cho người học; hướng dẫn các em
có phương pháp học tập đúng đắn; động viên, khuyến khích các em có hứng thú,
niềm tin trong học tập.
2. THỰC TRẠNG.
Để tìm hiểu thực trạng tôi đã đối chiếu kết quả dạy học môn Toán của mấy
năm gần đây, dự giờ thăm lớp, trao đổi với giáo viên, khảo sát chất lượng học
sinh, tìm hiểu học sinh yếu, kém môn Toán.
2.1 Thực trạng chất lượng môn toán lớp 4.
Ở tuần học thứ 2 năm học 2011-2012 tôi đã chỉ đạo giáo viên tiến hành
khảo sát chất lượng môn Toán khối lớp 4.
Đề khảo sát môn Toán (Thời gian làm bài: 40 phút)
Bài 1: Đặt tính rồi tính:
a) 47085 + 1750 b) 75897 – 18756 c) 437
4 d) 50585 :
5
Bài 2: Tìm X, biết;
a) 75405 +
x
= 94186 b)
x
- 1325 = 29100 c) 575 :
x
= 5 g) 7
x
=
1799
Bài 3: Điền đáp số vào chỗ trống của mỗi bài toán sau:
a) Một hình chữ nhật có chiều rộng 18m, chiều dài gấp 3lần chiều rộng. Chu vi
hình chữ nhật đó là:
b) Diện tích hình vuông có cạnh 8cm là:
Bài 4: Một tổ công nhân trong 5 ngày làm được 375 sản phẩm. Hỏi với mức làm
như thế thì trong 9 ngày tổ công nhân đó làm được bao nhiêu sản phẩm?
Hướng dẫn chấm bài kiểm tra:
Bài 1 (2 điểm) : Mỗi ý đúng yêu cầu cho 0,5 điểm.
Bài 2 (2 điểm) : Mỗi ý đúng yêu cầu cho 0,5 điểm.
Bài 3 (4điểm): Mỗi ý đúng cho 2 điểm.
Bài 4 (2điểm): Bài giải thực hiện đúng yêu cầu trình bày đầy đủ cho 2 điểm
*) Kết quả khảo sát:
Tổng
số HS
Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5
SL TL SL TL SL TL SL TL
79 18 22.8% 21 26.6% 29 36.7% 11 13.9%
Với đề khảo sát chất lượng như trên, qua kết quả làm bài của học sinh thì
11 em học sinh có điểm yếu các em còn vướng phải các lỗi sau: Còn chậm trong
thực hành tính toán, chưa thuộc bảng cửu chương; Cộng, trừ, nhân, chia có nhớ
còn chậm, quên không nhớ; Còn lẫn lộn, quên cách tìm thành phần chưa biết của
phép tính; Kỹ năng giải toán có lời văn còn yếu.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu, kém môn Toán .
*) Về phía học sinh: Như chúng ta đã biết, sự yếu kém về môn Toán của
học sinh có biểu hiện dưới nhiều hình, nhiều vẻ khác nhau nhưng nhìn chung
thường có các đặc điểm sau đây:
- Có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng; Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ
năng chậm;
- Phương pháp học tập chưa tốt; Năng lực tư duy yếu; Có thái độ thờ ơ với
học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin.
- Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập.
- Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong
học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin.
- Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy,
vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế.
- Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền.
- Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng nhưng các em chưa biết phát huy
khả năng của mình.
- Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết (cộng,
trừ, nhân, chia).
- Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức.
*) Về phía giáo viên: Một bộ phận giáo viên còn chưa chú ý đúng mức đến
đối tượng học sinh yếu, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa
sút của học sinh mà nhiều em đã kém lại càng kém thêm, lỗ hổng kiến thức ngày
càng lớn hơn. Nhiều giáo viên chỉ chú ý đến học sinh Khá, Giỏi, thích tổ chức các
hoạt động học tập trên lớp với những học sinh khá, giỏi để tránh xử lí các tình
huống phức tạp mất thời gian; Một số giáo viên tổ chức các hoạt động học tập
chưa tốt còn để học sinh khá giỏi nói leo, nói hộ học sinh yếu. Giáo viên chưa
quan tâm đến tất cả HS trong lớp còn để học sinh yếu ngoài lề các tiết học, GV
chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp như
vậy các em học yếu không có cơ hội bộc lộ khả năng của mình và đã ngại học lại
thêm tính ì, ngại suy nghĩ, ngại vận động; Chưa chú trọng đến tìm hiểu nguyên
nhân vì sao học sinh học kém để phân loại đối tượng; giảng dạy mang tính dàn
trải chưa có biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, năng lực tổ
chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế, chưa động viên tuyên dương kịp
thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và gia
đình học sinh nên chưa có biện pháp phù hợp trong quá trình phụ đạo, giúp đỡ
học sinh học tập. Chính vì vậy vẫn tồn tại một số học sinh yếu, kém về môn
Toán.
*) Đối với phụ huynh: Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến
việc học tập của con cái, giao việc học tập của con em cho nhà trường. Bên cạnh
đó phụ huynh chưa nắm được phương pháp sư phạm, không nắm được cách giải
Toán ở Tiểu học khiến cho trẻ không hiểu và thiếu tin tưởng. Mặt khác, một số
phụ huynh điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn không có điều kiện chăm lo
cho con em học tập, ở nhà các em còn phải làm nhiều việc phụ giúp gia đình vì
vậy các em đến trường thường trong trạng thái mệt mỏi, uể oải. Một số phụ
huynh đi làm ăn xa phải gửi con cho ông bà, cô bác trông hộ. Các em trong đối
tượng này thì bị thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên khi học thường không chú
tâm vào việc học tập.
Từ những thực trạng nói trên, để tập trung nâng chất lượng học tập của học
sinh, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng học sinh yếu, kém về môn Toán, tránh để
tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp tôi đã suy nghĩ và trao đổi cùng đồng nghiệp
đưa ra “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh lớp yếu
kém môn Toán lớp 4” như sau:
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHỤ ĐẠO
HỌC SINH YẾU, KÉM VỀ MÔN TOÁN LỚP 4.
Giải pháp 1. Chỉ đạo giáo viên theo dõi thường xuyên, nắm bắt cụ thể
tình hình học sinh yếu.
Tôi đã chỉ đạo giáo viên theo dõi kết quả làm bài tập trên lớp và làm bài tập
về nhà hàng ngày, theo dõi kết quả kiểm tra định kỳ, sớm phát hiện ra các trường
hợp học sinh có khó khăn trong học tập và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể,
phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến tình hình đó đối với các em.
- Ngay từ đầu năm học, tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn
Toán.
- Lập danh sách và phân loại học sinh yếu, kém về môn Toán, phân tích
nguyên nhân.
Tôi hướng dẫn giáo viên phân loại học sinh học yếu theo những nguyên
nhân chủ yếu như: Do hổng kiến thức, kỹ năng từ lớp dưới, do điều kiện hoàn
cảnh gia đình, do trí tuệ chậm phát triển
Thực hiện theo kế hoạch, tôi cùng với giáo viên dạy khối 4 đã khảo sát và
phân loại học sinh yếu môn toán theo các nhóm nguyên nhân chủ yếu như sau:
+ Nhóm khả năng tiếp thu bài chậm, chưa chăm học, hổng kiến thức lớp
dưới như chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, chưa biết tìm thành phần chưa biết
của phép tính, giải toán có lời văn còn yếu: Nhóm này có 7 em.
+ Nhóm do hoàn cảnh gia đình và các nguyên nhân khác: Nhóm này có 4
em. Trong nhóm này các em có khả năng tiếp thu bài tốt. Nhưng vì điều kiện gia
đình khó khăn không có người chăm lo, đôn đốc học tập nên các em chưa tích
cực học tập, không hoàn thành nhiệm vụ học tập, dẫn đến kết quả học tập sa sút
và liên tục bị điểm yếu.
Giải pháp 2. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ
đạo học sinh yếu, kém về môn toán phù hợp với đối tượng học sinh.
Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, kém về môn Toán
của từng em, tôi đã hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ
đạo học sinh yếu, kém với yêu cầu:
+ Lập kế hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả tiết
chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học
và cụ thể cho từng tuần, từng tháng.
+ Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến
thức đã học cho học sinh.
+ Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn
kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Như nhớ được bảng nhân,
bảng chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới Mục đích là lấp
lỗ hổng về kiến thức cho học sinh.
* Ví dụ nội dung phụ đạo học sinh học yếu môn toán lớp 4:
Tuần 1: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh.
Tuần 2: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5.
Tuần 3: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 6,7,8,9.
Tuần 4: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về tìm thành
phần chưa biết của phép tính.
Tuần 5: Củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên kết hợp với củng cố về
giải toán có lời văn.
Tuần 6: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự
nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn.
Tuần 7: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên, củng cố mối
quan hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn
Cứ tiếp tục như vậy, nội dung các buổi phụ đạo sau phải có sự củng cố lại
những kiến thức đã học ở các buổi học trước và tập trung chủ yếu vào củng cố
cho học sinh kĩ năng thực hiện thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với
số tự nhiên ở học kì I. Nội dung củng cố kĩ năng thực hành làm tính với số tự
nhiên, giáo viên linh hoạt bằng nhiều bài toán khác nhau. Có thể là các dạng bài
như: đặt tính rồi tính; tính giá trị biểu thức; tìm x; toán có lời văn… Phải cho học
sinh làm đi làm lại nhiều lần một dạng bài tập để các em thành thạo. Việc củng cố
kiến thức đã học thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4. Căn
cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu
tiếp thu những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em.
+ Cuối tuần kiểm tra 1 lần, cuối mỗi tháng, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi
kết quả học tập của các em. Lập sổ theo dõi quá trình phụ đạo, nâng bậc học sinh
yếu (suốt cả năm học).
+ Kết hợp chặt chẽ với gia đình và nhà trường. Có sổ liên lạc giữa giáo
viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh, thường xuyên đến thăm và động viên gia
đình học sinh.
+ Thời gian phụ đạo chủ yếu vào các buổi chiều trong tuần( thứ 3 và thứ 5),
lồng ghép vào chương trình chính khoá và với một số tiết hoạt động tập thể hay
giờ giải lao( trong đó tổ chức các trò chơi có nội dung toán học).
+ Kế hoạch bồi dưỡng phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể là: cuối học kì I
không còn tình trạng học sinh bị hổng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến
đâu phải đạt yêu cầu đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương
trình toán lớp 4). Đến cuối năm học, không còn học sinh nào học yếu môn toán.
Giải pháp 3 : Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch:
Phụ đạo học sinh học yếu nói chung và học sinh học yếu môn toán nói
riêng là việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình và kiên trì,
yêu thương học sinh. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi thực hiện kế hoạch phụ
đạo học sinh yếu, giáo viên không được nóng vội, phải thực hiện kế hoạch theo
từng bước hợp lí. Đồng thời không cứng nhắc rập khuôn theo kế hoạch mà cần
phải linh hoạt điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện.
Căn cứ vào kết quả tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu môn toán ở
khối 4, tôi hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch phụ đạo với những nội chủ
yếu như sau:
1. Củng cố 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
Bởi vì số học sinh học kém môn Toán khối 4, đa số do khả năng tiếp thu
bài chậm, còn hổng kiến thức từ lớp dưới, vì thế đã học lên lớp 4 nhưng các em
này vẫn chưa thuộc lòng bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, 3 còn yếu trong việc vận
dụng bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có lời văn. Điều đó rất bất
lợi cho các em trong quá trình học toán ở lớp 4 và lên lớp 5. Để các em làm thành
thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tôi xác định việc làm đầu tiên dạy lại
những kiến thức cơ bản giúp học sinh lấp được lỗ hổng kiến thức.
Vì vậy, tôi đã hướng dẫn cho giáo viên giao cho học sinh yếu cứ mỗi tuần
phải học thuộc 3 đến 5 bảng nhân, bảng chia, mỗi buổi học giáo viên dành 5 phút
với buổi chính khoá, 15 phút với buổi phụ đạo để kiểm tra việc học của học sinh.
Cuối tuần giáo viên lại tổ chức cho các em thi đọc bảng cửu chương (15-20 phút).
Sau hai tuần đầu tôi kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều học thuộc
bảng nhân, bảng chia nhưng khi vận dụng làm một phép tính cụ thể (VD: 124 : 2)
thì có em làm được nhưng rất chậm, có em không làm được. Tôi trăn trở tìm
nguyên nhân, thì ra các em chỉ thuộc "vẹt" bảng nhân, bảng chia.
Tiếp theo tôi hướng dẫn giáo viên điều chỉnh cách kiểm tra, phải chỉ định
học sinh đọc bảng nhân, chỉ rõ bản chất của phép nhân là kết quả của phép cộng
của các số bằng nhau, hướng dẫn các em học thuộc nhừ bảng nhân 5, thuộc nhừ
cách tính một số nhân với mười để các em dựa vào đó tìm kết quả phép tính nhân,
chia trong bảng khi chưa thuộc lòng: Ví dụ bảng nhân 3, hỏi phép nhân, phép chia
bất bất kì 3
6 = ? (học sinh vận dụng kết quả phép nhân 3
5 = 15 suy ra kết quả
3
6 = 15 + 3 = 18); 3
9 = ? (suy từ 3
10=30 ra 3
9 = 30- 3 =27). Từ đó
giúp các em học thuộc lòng. Đồng thời củng cố vận dụng bảng nhân chia, bảng
chia bằng cách giao cho các em thực hiện những phép tính đơn giản không có
nhớ như: 24
2; 123
3; 84 : 2; 124: 4
Đến tuần sau, vào các buổi chiều phụ đạo HS yếu, kém tôi hướng dẫn giáo
viên thay đổi hình thức kiểm tra, khác với các tuần trước.
Giáo viên ghi sẵn nội dung kiểm tra lên 2 tấm bìa và gắn lên bảng:
5
6 = 35 : 7= 4
5 = … 25 : 5 = ….
7
8 = 48 : 6 = … 3
9 = … 36 : 6 = …
4
9 = 64 : 8 = … 9
6 = …. 42 : 7 = …
6
9 = 72 : 9 = … 7
7 = … 45 : 5 = ….
… …… …. …
Cứ mỗi lần, gọi 2 HS lên bảng làm bài (HS ghi kết quả vào chỗ chấm). Lần
này không ghi theo thứ tự phép tính của bảng nhân hay bảng chia mà ghi bất kì
phép nhân hay phép chia trong bảng, mục đích là để học sinh thuộc lòng bảng
nhân, bảng chia mà các em đã học. Đồng thời tiếp tục củng cố kĩ năng vận dụng
thực hành các phép tính nhân, chia bằng các bài như đặt tính rồi tính, tính giá trị
biểu thức đơn giản, tìm
x
…
Không những yêu cầu các em học thuộc bảng nhân, bảng chia mà giáo viên
còn phải giao cho các em về nhà viết lại nhiều lần thay cho bài kiểm tra và được
giáo viên chấm điểm chặt chẽ các bài này. Ngoài ra giờ ra chơi hay giờ giải lao
của buổi học, giáo viên phải gần gũi và nói chuyện với các em, lồng vào đó là
những mẫu chuyện vui về toán học, những câu đố đơn giản đố các em về phép
nhân hay phép chia. Các em đã thi nhau trả lời và như vậy đã giúp các em dễ nhớ
được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2,3.
2. Củng cố kỹ năng giải toán.
Kết hợp củng kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có
lời văn sẽ giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán. Bởi vì có
những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán nhưng
cách giải sai dẫn đến bài toán giải sai. Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4
phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn. Bởi chúng
ta biết rằng đa số các em yếu, kém về môn Toán thường gặp khó khăn trong việc
giải Toán có lời văn. Tôi đã hướng dẫn giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp để
học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ được từng dạng bài toán.
Tôi đã định hướng cho giáo viên củng cố cho học sinh cách giải các dạng
toán điển hình của lớp 3 kết hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn phép tính
cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh yếu có đặc điểm là rất ngại, thậm chí sợ làm
toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em còn nhiều hạn
chế” nên chưa có khả năng phán đoán suy luận. Do đó, khi làm toán có lời văn
các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Có em giải “bừa” cho xong. Vì vậy tôi
hướng dẫn giáo viên khi củng cố kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu thì
chỉ cần ra với dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố
lý thuyết mà thôi. Không nên ra những bài lắt léo hay những bài phải qua bước
trung gian mới về dạng cơ bản. Đến khi học sinh lấp được những chỗ hổng kiến
thức đã học thì mới nâng dần mức độ lên.
* Một số dạng toán điển hình lớp 3 cần phải ôn tập củng cố là:
- Dạng bài gấp một số lên nhiều lần.
Ví dụ: Thủy có 35 que tính. Hà có số que tính gấp 3 lần Thủy. Hỏi hai bạn
có bao nhiêu que tính?
- Dạng bài giảm một số đi nhiều lần.
Ví dụ: Thủy có 105 que tính. Thủy có số que tính gấp ba lần số que tính
của Hà. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu que tính?
- Dạng bài tìm một phần mấy của một số:
Ví dụ: Một đàn gia cầm của một nhà có 128 con vịt và gà. Trong đó số gà
bằng
4
1
cả đàn. Hỏi đàn gia cầm đó có mấy con gà?
- Dạng bài có liên quan đến rút về đơn vị:
Ví dụ: Có 70 xếp giấy gói đều thành 7 bọc. Hỏi có 100 xếp giấy sẽ gói
được bao nhiêu bọc như thế?
- Dạng bài tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật;
Ví dụ:
+ Tính chu vi, diện tích thửa ruộng hình vuông có cạnh 24 m.
+ Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều rộng 9m, chiều dài gấp 3 lần
chiều rộng. Tính chu vi và diện tích của thửa ruộng đó.
Để kết hợp tốt giữa lấp lỗ hổng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi chỉ đạo
giáo viên thực hiện nội dung củng cố kĩ năng giải các bài toán điển hình lớp 3
trong những tuần đầu của năm học (khoảng 6 đến 8 tuần đầu). Song song với việc
bổ sung chỗ hổng kiến thức lớp 3 thì trong các tiết học chính khóa, giáo viên giúp
học sinh yếu biết giải các bài toán giải dạng toán điển hình lớp 4 đồng thời cần
phải ôn tập củng cố ngay ở các tiết học phụ đạo. Nhất định không để học sinh
hổng kiến thức đã học nữa.
Tôi đã đề ra một số lưu ý với giáo viên: Khi hướng dẫn cho học sinh cách
giải và trình bày bài giải, giáo viên phải hướng dẫn gợi mở từng bước cụ thể, giúp
học sinh thể hiện khả năng giải toán của mình là cần thiết. Vì vậy giáo viên cần
phải hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu kĩ đề bài toán, Tóm tắt đề bài toán, nhìn
vào tóm tắt đọc lại đề bài toán. Đặt những câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh từng
bước tìm cách giải và chọn cách giải hợp lý nhất, ngắn gọn nhất, lời giải rõ ràng
chính xác, đúng nội dung bài toán yêu cầu tìm gì. Đồng thời chú ý hướng dẫn các
em khi thực hiện tìm kết quả của phép tính cần làm ra nháp cẩn thận, kiểm tra kết
quả rồi mới viết vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy.
3. Quan tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Với những đặc điểm của học sinh yếu, kém nói chung và môn toán nói
riêng, tôi đã khẳng định rằng học sinh yếu, kém môn Toán cần được quan tâm, hỗ
trợ dạy học một cách tích cực. Còn với học sinh học yếu nguyên nhân do điều
kiện hoàn cảnh gia đình tôi chỉ đạo giáo viên phải có sự quan tâm đặc biệt. Ngoài
việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hổng kiến thức đồng thời phải có sự quan
tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất.
Vì vậy tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thường xuyên đến thăm một số gia
đình học sinh yếu trong khối 4 như gia đình em Huyền Thương lớp 4B, gia đình
em Đình Hiếu lớp 4C và một số gia đình học sinh khó khăn khác. Cảm thông
được nỗi vất vả của các em, tôi đề nghị Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ cho các
em quần áo, sách vở, kết hợp cùng với Đội Thiếu niên nhà trường, tôi đã cùng các
cô giáo chủ nhiệm trao quà cho các em trong dịp Tết Nguyên Đán. Nhận được
sự quan tâm, động viên kịp thời của nhà trường cũng như cô giáo chủ nhiệm, gia
đình các em đã hiểu và tạo điều kiện cho các em đi học đầy đủ. Tôi còn hướng
dẫn giáo viên chủ nhiệm, khi ở trường, trong giờ học, giờ ra chơi, thường xuyên
gần gũi, tâm sự với em, kể cho em nghe một số tấm gương biết vượt khó trong
học tập, giúp em khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập.
Giải pháp 4: Tổ chức cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học tích cực.
1. Linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học khi tổ chức các hoạt động học
tập.
Để thực hiện việc lấp "lỗ hổng" kiến thức cho học sinh yếu, kém toán có
hiệu quả và dạy kiến thức mới tôi đã tổ chức cho giáo viên tìm ra những phương
pháp giảng dạy thích hợp, tập trung các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các
em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với mức độ yêu cầu vừa sức
để các em nâng dần trình độ; không nôn nóng sốt ruột, khắc phục tình trạng ngại
khó của học sinh.
Để giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt
có hiệu quả trong việc phụ dạo học sinh yếu kém, Nhà trường đã tổ chức từ đầu
năm học chuyên đề “Biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu”. Qua đó nhằm
phát huy trí tuệ tập thể để giúp giáo viên tìm ra cách dạy đạt hiệu quả cao trong
công tác phụ đạo học sinh yếu. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tiếp theo
liên tục đề cập đến chuyên đề này để bổ sung và điều chỉnh biện pháp thực hiện.
Qua đó, tôi đã khái quát giúp giáo viên một số điều cần lưu ý khi thực hiện phụ
đạo học
sinh yếu như sau:
- Trong các tiết học giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được hoạt
động cho dù là đối tượng học sinh giỏi hay học sinh yểu. Bằng mọi cách phải lôi
cuốn các em tham vào các hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học
sinh ngoài lề. Trong một tiết học, đến phần bài tập giáo viên phân bài cho từng
đối tượng học sinh:
Ví dụ: Bài tập 1,2 cho nhóm yếu làm; Bài tập 1,2,3 cho nhóm trung bình
làm; Bài tập 2,3,4 cho nhóm khá giỏi làm.
- Cần thực hiện linh hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá
trình dạy bài mới, nếu có học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến
thức lớp dưới hoặc kiến thức bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài
mới vẫn cho học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện
tập, giáo viên cho những học sinh yếu làm các bài mà kiến thức liên quan đến lớp
dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới của
bài học.
Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 135
6 = ? với bài này học sinh làm
không được chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 6. Vậy giáo viên yêu cầu
học sinh đọc lại bảng nhân 6 cho thuộc. Tức là phát hiện học sinh hổng kiến thức
ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập, bổ sung ở đó.
- Trong các buổi dạy phụ đạo, nội dung chủ yếu là kiểm tra việc lĩnh hội
các kiến thức giảng dạy trên lớp hoặc ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm
chắc hơn. Tôi hướng dẫn giáo viên, trong mỗi tiết dạy, xác định rõ mục tiêu của
từng bài, từng hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên.
- Khi hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, Giáo viên cần giao việc phù hợp
với từng đối tượng học sinh. Cụ thể là: Bài tập dành cho học sinh cả lớp; Bài tập
cho học sinh khá giỏi; Riêng đối với học sinh yếu, kém về môn Toán giáo viên
không nên giao nhiều bài tập về nhà, chỉ cần 1 đến 2 bài thôi. Em nào yếu quá
giáo viên phải ghi bài tập vào phiếu và kèm theo một vài câu hỏi để học sinh có
thể tự kiểm tra hay chỉ rõ ý chính cần đi sâu, nhớ kỹ để hiểu rõ “cái đã cho, cái
phải đi tìm”. Bài tập về nhà do các em làm, yêu cầu phụ huynh kí vào phía dưới
để có sự giám sát, đốc thúc kịp thời của gia đình. Đến lớp, giáo viên kiểm tra cụ
thể các sai lầm mắc phải của học sinh để phân tích và sửa chữa.
2. Gây hứng thú học tập cho học sinh.
Bởi vì học sinh yếu vốn ngại học, ngại bày tỏ ý kiến nên để cuốn hút các
em tích cực tham gia các hoạt động học tập thì giáo viên phải có những hình thức
tổ chức các hoạt động học tập gây được hứng thú cho tất cả học sinh tham gia, kể
cả học sinh yếu.
Để gây hứng thú cho các em học tập, trong dạy học toán giáo viên có thể
thực hiện như sau: Trong các tiết học vận dung các hình thức dạy tích cực như:
Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp sức) có thi đua
giữa các nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được giao phần việc làm
vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoạt thay đổi như
nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên Giáo viên phải tạo
cơ hội cho tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu.
Động viên khuyến khích kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học
sinh yếu mạnh dạn, tự tin hơn. Thường xuyên tổ chức "Hội vui học tập" vào các
tiết hoạt động tập thể. Hoặc tổ chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái hoa
dân chủ, Tuổi thơ khám phá…
3. Tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến, xây dựng môi trường học tập
thân thiện .
Ở lớp cũng như ở nhà, giáo viên tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường
xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém. Trên lớp, cần sắp xếp 1 học sinh giỏi giúp đỡ 1
bạn học sinh yếu bên cạnh. Tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp bạn, nếu bạn nào
có tiến bộ thì biểu dương cả nhóm vào tiết chào cờ sáng thứ 2 đầu tuần. Ở nhà,
giáo viên sắp xếp các em gần nhà nhau thành 1 nhóm và cử 1 học sinh làm nhóm
trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài của
các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi học. Không những
thế, tôi còn hướng dẫn giáo viên yêu cầu các em Nhóm trưởng kiểm tra kỹ về
cách học, cách trình bày bài làm, chữ viết, của các bạn. Giáo viên kiên trì uốn nắn
và sửa những thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài
tập, tính toán cẩu thả, không làm nháp hoặc viết lộn xộn, phát biểu không chính
xác, trình bày bài tuỳ tiện, giải toán xong không chịu thử lại…
Khuyến khích, động viên đúng lúc, kịp thời khi các em có tiến bộ hay đạt
được một số kết quả (dù sự tiến bộ nhỏ nhất); phân tích, phê bình đúng mức thái
độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập, nhưng tuyệt đối tránh thái
độ lời nói chạm lòng tự ái của học sinh để các em phấn khởi học tập xóa đi ấn
tượng sợ học môn Toán.
Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể,
chi tiết cho giáo viên vận dụng các biện pháp, linh hoạt sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực như trên. Qua kết quả kiểm tra trên lớp, qua các bài kiểm tra…
Tôi thấy các em học sinh yếu đã tiến bộ rất nhiều. Đến tuần thứ 6, bảy em hổng
kiến thức lớp dưới đã nắm được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2, 3; Bốn em
học yếu do hoàn cảnh gia đình khó khăn có tiến bộ rõ rệt, đã cố gắng vươn lên
trong học tập. Đặc biệt tất cả các em đã tích cực, hứng thú học Toán và tiếp thu
bài mới lớp 4 đạt yêu cầu.
Giải pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh.
Tôi chỉ đạo giáo viên phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của phụ huynh
về trách nhiệm lớn lao của phụ huynh và gia đình trong việc góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục. Tôi yêu cầu giáo viên phải trao đổi với phụ huynh để tìm ra
biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện và tính cách từng em giúp các em vươn
lên trong học tập. Giáo viên phải hướng dẫn phụ huynh biết kiểm tra việc học tập
của con mình. Phải thường xuyên giữ liên lạc với phụ huynh. Thường xuyên liên
lạc thông báo kết quả học tập của các em qua sổ liên lạc cho phụ huynh và đề
nghị phụ huynh theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình, giúp đỡ các em
trong quá trình học tập ở nhà , quản lý thời gian biểu của con em, ghi đầy đủ lời
nhận xét vào sổ (đảm bảo thông tin 2 chiều). Tổ chức cho giáo viên gặp mặt phụ
huynh học sinh thường xuyên. Khi thấy học sinh chưa tiến bộ cần chủ động gặp
phụ huynh để trao đổi về việc học tập của học sinh tiếp tục cùng với phụ huynh
điều chỉnh biện pháp phù hợp và có hiệu quả hơn. Thấy được sự lo lắng của giáo
viên nên phụ huynh đã thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài của con em
mình, đôn đốc các em đi học chuyên cần. Vì vậy, Học sinh lớp 4 của nhà trường
đã tiến bộ lên rất nhiều.
Giải pháp 6: Đổi mới nội dung sinh hoạt chuyên môn.
Sinh hoạt chuyên môn ở trường Tiểu học là một hoạt động nhằm bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt chuyên môn
góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm
vụ năm học. Sinh hoạt chuyên môn còn góp phần bồi dưỡng giáo viên theo Chuẩn
nghề nghiệp giáo viên Tiểu học.
Với tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn như vậy, ở trường
chúng tôi đã xây dựng nội dung sinh hoạt chuyên môn chủ yếu xoay quanh việc
“Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy, nâng cao chất lượng học tập của học
sinh”.
Vì vậy, trong sinh hoạt chuyên môn của nhà trường, tôi chỉ đạo các tổ
chuyên môn không thiên về việc chỉ lên kế hoạch hoạt động chuyên môn mà chú
trọng việc đưa các vấn đề vướng mắc trong chuyên môn và thực tế dạy học để
thảo luận cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện nhiệm vụ dạy học và
giáo dục học sinh đạt hiệu quả hơn.
Thực hiện công tác chuyên môn, tôi quyết tâm thực hiện chuyên đề “Khắc
phục tình trạng học sinh học yếu kém”. Đây là một nội dung chủ yếu và xuyên
suốt quá trình sinh hoạt chuyên môn của trường trong năm học 2011 - 2012. Bởi
vì để thực hiện tốt mục tiêu “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục
” thì việc “khắc phục tình trạng học sinh học yếu” là đã thực hiện tốt việc nâng
cao chất lượng giáo dục một cách thực chất. Vì vậy việc “khắc phục tình trạng
học sinh học yếu” là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường và của mỗi giáo
viên.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã dành nhiều thời gian cho nội
dung “Tìm biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu”. Cụ thể:
Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng giáo viên về việc phụ đạo học sinh
yếu kém, trong buổi sinh hoạt chuyên môn yêu cầu giáo viên báo cáo với tổ
chuyên môn và với nhà trường về tình hình học sinh học yếu môn toán và các
môn học khác. Tổ chức thảo luận chuyên đề “khắc phục tình trạng học sinh yếu”.
Tổ chức cho tập thể giáo viên phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục
học sinh yếu, xây dựng nội dung phụ đạo học sinh yếu phù hợp với từng khối lớp.
Giao nhiệm vụ cho tổ trưởng, khối trưởng theo dõi việc phụ đạo học sinh yếu của
tổ mình, khối mình. Cứ hai tuần một lần, trong buổi sinh chuyên môn, giáo viên
báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu, từ đó thảo luận để tập thể
giáo viên cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế phụ đạo học sinh
yếu.
Để mở rộng sáng kiến, tôi đã trình bày vấn đề này trong buổi sinh hoạt
chuyên môn của nhà trường, Tôi đã tiếp nhận được nhiều ý kiến đóng góp thật bổ
ích giúp tôi bổ sung cho “ Biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu” hoàn
chỉnh hơn. Tôi đã chỉ đạo cho tất cả giáo viên trong trường vận dụng các biện
pháp nêu trên ở tất cả các khối lớp để tiếp tục khắc phục và ngăn ngừa tình trạng
học sinh yếu, kém về môn Toán trong toàn trường phù hợp với đối tượng học sinh
yếu và điều kiện thực tế của lớp mình.
Sau khi vận dụng vào thực tế dạy học “Các giải pháp cải tiến khắc phục
tình trạng học sinh học yếu, kém môn Toán” của toàn trường nói chung và đặc
biệt ở khối 4 nói riêng, tôi thấy kết quả đạt được đáng mừng, các em học sinh yếu
có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tỉ lệ học sinh yếu giảm hẳn, tỉ lệ học sinh trung bình,
khá giỏi tăng cao.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Khi áp dụng các giải pháp trên, tôi thấy các em học sinh ở lớp 4 đã tiến bộ
rõ rệt, chất lượng học tập ngày càng được nâng lên, tỉ lệ học sinh yếu giảm.
*) Kết quả kiểm tra định kì cuối học kì I về môn Toán ở khối lớp 4:
Tổng
số HS
Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5
SL TL SL TL SL TL SL TL
79 20 25,3% 23 29.1% 35 44.3% 1 1.3%
So sánh với kết quả khảo sát đầu năm tôi nhận thấy:
Nhờ thực hiện tốt các giải pháp phụ đạo học sinh yếu, kém về môn toán mà
tôi đã xây dựng chất lượng học tập môn toán được nâng lên rõ rệt. Tất cả học sinh
yếu, kém môn toán ở đầu năm học của học sinh khối 4 đã lên loại trung bình có
em đã đạt điểm khá. Không phát sinh thêm học sinh nào yếu, kém về môn toán.
Số lượng học sinh yêu thích môn toán ngày càng tăng.
Đồng thời, khi vận dụng các giải pháp trên cho toàn trường thực hiện, đến
hết học kì I chất lượng nâng bậc học sinh yếu, kém về môn toán của trường chúng
tôi đã chuyển biến rõ rệt. Toàn trường quyết tâm phấn đấu đến cuối năm học
không còn học sinh nào còn yếu, kém về môn toán.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Qua việc phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán, tôi rút ra một số kinh
nghiệm sau:
Muốn khắc phục và giảm thiểu số học sinh yếu, kém để nâng cao chất
lượng giáo dục và chất lượng dạy - học ngày một đi lên và có những biện pháp
dạy và học đáp ứng được với sự phát triển của đất nước, thì đòi hỏi sự vào cuộc
thật sự của các nhà quản lí giáo dục, giáo viên, học sinh và tất cả các lực lượng xã
hội có liên quan đặc biệt là vai trò của người giáo viên. Đó là:
1. Người giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, tận lực để giáo dục và
phụ đạo các em với tất cả tâm huyết của mình.
2. Giáo viên phải kịp thời phát hiện ra những học sinh yếu, kém thông qua các
hoạt động học tập cũng như việc làm bài tập hàng ngày của học sinh và làm các
bài kiểm tra định kì.
3 . Tìm ra nguyên nhân cùng với những biểu hiện của học sinh yếu kém về môn
Toán.
4. Lập kế hoạch và đề ra các biện pháp phụ đạo cụ thể, rõ ràng; khi lên lớp phải
nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để đề ra phương pháp và hình thức dạy học thích
hợp, giúp các em thích thú học tập và dễ tiếp thu bài.
5. Vận dung các phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học
sinh. Đặc biệt, nếu học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới thì giáo viên phải dạy
lại
nội dung đó vào các buổi học tăng cường hoặc trong ngay tiết học chính khoá để
"lấp lỗ hổng kiến thức" cho học sinh.
6. Tổ chức các giờ dạy một cách linh hoạt, biết vận dung các trò chơi học tập để
kích thích sự hứng thú của học sinh.
7. Trong giảng dạy, giáo viên phải nhẹ nhàng, kiên trì, chịu khó, biết động viên
kịp thời khi các em tiến bộ (dù là một tràng vỗ tay của cả lớp hay lời khen của cô)
nhưng cũng cần khéo léo nhắc nhở những học sinh có thái độ lơ là đối với nhiệm
vụ học tập.
8. Thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh học sinh về kết quả học tập của
các em. Biết thông cảm và chia sẻ với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn,
giúp các em xoá bỏ những mặc cảm và biết vươn lên trong học tập.
9. Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ những bạn yếu, kém về
cách học tập, về phương pháp vận dung kiến thức, giúp các em có phương pháp
học tập tốt.
10. Áp dụng thường xuyên các biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn toán
song song với các môn học khác đối với tất cả học sinh yếu các khối lớp.
2. Ý kiến đề xuất:
a. Đối với giáo viên:
Phải đề cao trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc khắc phục học sinh
học yếu. Bởi vì giáo viên là người chủ đạo trong việc này. Khi lập kế hoạch bài
học (tất cả các tiết học), Giáo viên phải xây dựng các hoạt động học tập phù hợp
với từng nhóm đối tượng học sinh. Phải có nội dung dạy cho học sinh yếu. Phải
tích cực cùng với tổ chuyên môn và nhà trường đề ra biện pháp hợp lý và thực
hiện có hiệu quả việc khắc phục tình trạng học sinh học yếu.
b. Đối với nhà trường:
Phải xác định công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém là một nhiệm vụ
quan trọng của nhà trường. Phải xây dựng kế hoạch chung về công tác phụ đạo
học sinh yếu kém và chỉ đạo kịp thời cho giáo viên thực hiện. Tổ chức chuyên đề
“khắc phục học sinh yếu” để xây dựng biện pháp thực hiện có hiệu quả. Thường
xuyên kiểm tra, đồng thời điều chỉnh kịp thời những tồn tại trong công tác phụ
đạo học sinh yếu của giáo viên. Có biện pháp hỗ trợ vật chất cho giáo viên, cho
học sinh học yếu có hoàn cảnh khó khăn. Cuối năm học có đánh giá và khen
thưởng cho những giáo viên làm tốt công tác phụ đạo học sinh yếu.
Trên đây là một số giải pháp khắc phục và ngăn ngừa tình trạng học sinh yếu,
kém về môn toán lớp 4 trong việc dạy phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán.
Trong quá trình chỉ đạo chuyên môn và dạy học, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm
ra những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để vận dụng vào dạy và phụ đạo học sinh
yếu, kém. Nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong dạy học.
Do khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, với thời gian có hạn do
đó không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến trao đổi,
đóng góp bổ sung của đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!