Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Tiểu luận Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.2 KB, 57 trang )

Tiểu luận Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế
1. CƠ SỞ HIẾN ĐỊNH
Điều 21:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt
động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được
khuyến khích phát triển.
Điều 25:Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn,
công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc
tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn,tài sản và các quyền lợi khác của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc
hữu hoá.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đầu tư về nước.
Điều 26:
Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành,
các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.
Ðề: Đề tài 10: Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế
Phần 2. Nội dung
I. Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng chính sách, kế
hoạch, pháp luật.
1. Nhà nước quản lý kinh tế bằng chính sách.
1.1. Khái niệm chính sách kinh tế.
1
a. Khái niệm chính sách:
- Theo nghĩa rộng: Chính sách kinh tế là toàn bộ quan điểm, tư tưởng phát triển,
những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước.
- Theo nghĩa hẹp: Chính sách kinh tế là tổng thể các quan điểm, chuẩn mực, biện
pháp, thủ thuật mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể


quản nhằm đạt được những mục tiêu trong số những mục tiêu chiến lược chung của
đất nước.
Theo quan niệm phổ biến thì Chính sách là phương thức hành động được một
chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Do đó, việc tuyên bố chính sách hay ban hành một chính sách là việc một cá
nhân/hay tổ chức đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết
những vấn đề tương tự.
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng
vạch ra những phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở nhà quản
lý những vấn đề nào có thể và những vấn đề nào không thể. Bằng cách đó, các chính
sách ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc
thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
b. Khái niệm chính sách kinh tế:
- Khái niệm chính sách kinh tế: là những chính sách điều tiết các mối quan hệ
kinh tế nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế, nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô
và đạt trạng thái toàn dụng lao động, còn được gọi là chính sách quản lý tổng cầu vì
nó tác động đến phía cầu của nền kinh tế.
2
- Vai trò: Chính sách kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển
của đất nước, vì nó đóng vai trò tạo ra cơ sở để thực hiện tất cả các chính sách công
khác.
1.2. Nội dung:
Chính sách kinh tế tạo thành một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chính sách
như:
- Chính sách tài chính.
- Chính sách tiền tệ- tín dụng.
- Chính sách phân phối.
- Chính sách kinh tế đối ngoại….
1.3. Những đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế:
- Chính sách là tư tưởng điển hình về các kiểu can thiệp của Nhà nước vào kinh

tế thị trường.
- Chính sách là hành động can thiệp của Nhà nước nhằm giải quyết một hoặc
một số vấn đề chính sách chín muồi. Đó là những vấn đề lớn, có tầm ảnh hưởng rộng,
mang tính bức xúc trong đời sống kinh tế.
- Chính sách giải quyết những mục tiêu bộ phận, có thể mang tính dài hạn, trung
hạn hoặc ngắn hạn, nhưng phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu chung, mang tính
tối cao của đất nước.
- Chính sách không chỉ thể hiện kế hoạch của các nhà hoạch định chính sách, mà
còn bao gồm những hành vi thực hiện những kế hoạch trên.
- Chính sách được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của nhiều người
hoặc của xã hội.
3
Như vậy, ở Việt Nam, đường lối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính
trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng. Các quan điểm, tư tưởng phát triển của đất
nước là nguyên tắc thể hiện bản chất của chế độ xã hội, được dùng làm cơ sở xem xét
mọi vấn đề trong tiến trình xây dựng đất nước. Đánh mất nó Nhà nước và xã hội sẽ
biến chất. Hành động không quan điểm là múa rối, liên kết hội nhập không quan
điểm là đầu cơ, nhượng bộ không quan điểm là đầu hàng, thủ đoạn không quan điểm
là phá hoại. Các quan điểm còn là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả các phân hệ
trong xã hội (lĩnh vực, ngành, địa phương). Nó là chuẩn mực lựa chọn các mục tiêu
bộ phận và các mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn phát triển, đảm bảo không gây tổn
hại tới mục tiêu chung, lợi ích chung của đất nước.
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các mục tiêu mà
chúng ta đặt ra và lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mơ để đạt được các mục tiêu đĩ.
Các mục tiêu lại đòi hỏi lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mơ phù hợp. Vì vậy, lựa
chọn chính sách kinh tế vĩ mơ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn cần thận trọng, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn.
5 giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế Việt Nam đang nóng. Bằng chứng là lạm phát vẫn tiếp tục gia
tăng, thâm hụt ngân sách và thương mại ngày càng lớn, và bong bóng giá bất

động sản ngày càng phình to.
Làm thế nào để giảm lạm phát và tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô? Tiếp
theo Báo cáo "Lựa chọn thành công" được dư luận rất quan tâm mà chúng tôi đã có
dịp giới thiệu cùng độc giả, nhóm giáo sư, chuyên gia kinh tế Đại học Havard tư vấn
chính sách kinh tế cho Việt Nam lại vừa đưa ra 5 khuyến nghị nhằm ổn định kinh tế
vĩ mô của Việt Nam trong một nghiên cứu mới của mình.
1. Phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách
4
Trong điều kiện nền kinh tế đang quá nóng như hiện nay, các chuyên gia của
trường Đại học Havard cho rằng Chính phủ cần phối hợp chính sách tiền tệ và ngân
sách để giảm tốc độ tăng trưởng của tổng cầu. Tuy nhiên, các chuyên gia lưu ý điều
này cũng không thể dễ dàng thực hiện trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt
Nam.
Cụ thể như trong trường hợp áp dụng tăng lãi suất (duy trì lãi suất thực dương)
để giảm tổng cầu. Mức lãi suất cao hơn sẽ tạo thuận lợi cho thu hút thêm vốn nước
ngoài từ đó làm tăng cung tiền. Kết quả của biện pháp này là gây thêm áp lực tăng lãi
suất đối với Ngân hàng Nhà nước, và vòng xoáy tăng lãi suất - thu hút thêm vốn nước
ngoài cứ thế được lặp lại.
Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng chính sách tiền tệ và ngân sách phải được phối
hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ không phát huy
tác dụng nếu ngân sách tiếp tục được nới rộng. Bên cạnh việc giảm đầu tư công,
Chính phủ vẫn phải ưu tiên các dự án có mức sinh lời cao và việc cắt giảm đầu tư
công cũng sẽ không giúp giảm lạm phát nếu như dòng vốn không được "thu hồi" một
cách hiệu quả, lãi suất thực vẫn tiếp tục âm.
2. Một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp
Đây là khuyến nghị mới, đáng chú ý nhất trong nghiên cứu này của các chuyên
gia. Họ cho rằng tại thời điểm hiện nay, thẩm quyền ra quyết định chính sách ở Việt
Nam quá phân tán, và điều này một mặt cản trở sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ
quan hoạch định chính sách, mặt khác gây khó khăn cho các nhà lãnh đạo cao nhất
khi họ phải phản ứng một cách quyết đoán nếu khủng hoảng xảy ra.

Một thông điệp chính được các chuyên gia kinh tế đưa ra là: "Để có thể duy trì
sự nhất quán và ổn định trong hệ thống chính sách vĩ mô, Việt Nam cần tập trung
thẩm quyền hoạch định chính sách trong tay một cơ quan duy nhất." Từ đó, các
chuyên gia đề nghị thành lập một "siêu bộ" hay một cơ quan hoạch định chính sách
5
chung cho ba mảng (đầu tư công, tài trợ đầu tư và chính sách tiền tệ) trực thuộc Thủ
tướng và có quyền hạn lớn, cao hơn các bộ, ban ngành, chính quyền địa phương, và
tất nhiên là cả các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng, cơ quan này có quyền đình chỉ hay cắt
giảm những dự án đầu tư công chưa thực sự cần thiết hay lãng phí. Thành viên của cơ
quan này phải được lựa chọn dựa theo năng lực, có mức lương tương đương với
những chức vụ quản trị ở khu vực tư. Cơ quan này sẽ báo cáo trực tiếp cho Thủ tướng
Chính phủ và phải được bảo vệ khỏi sức ép chính trị và sự tác động của các nhóm đặc
quyền đặc lợi.
3. Tăng cường năng lực và tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước
Theo đánh giá của các chuyên gia thì hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
không đủ thẩm quyền và công cụ chính sách, đồng thời cấu trúc quản lý lại bất cập để
có thể vận hành như một ngân hàng trung ương thực thụ. Chính vì vậy, các nhà kinh
tế của trường Havard khuyến nghị Chính phủ cần có kế hoạch tổ chức lại Ngân hàng
Nhà nước theo hướng tăng cường tính độc lập (đặc biệt là độc lập về mục tiêu và
công cụ) và khả năng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong một nền kinh
tế thị trường hiện đại.
Điều này đòi hỏi sự góp ý và tư vấn của các chuyên gia về ngân hàng trung
ương, bao gồm một số thống đốc ngân hàng trung ương trong khu vực và một số
chuyên gia kỹ thuật quốc tế đã từng làm việc tại các nước Đông Nam Á. Mặc dù việc
thuê chuyên gia nước ngoài khá đắt nhưng vẫn còn rẻ hơn rất nhiều so với cái giá
phải trả khi xây dựng một ngân hàng trung ương mà không có sự dẫn dắt của các
chuyên gia giàu kinh nghiệm. Để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo tính bảo mật và
làm chủ chính sách khi thuê chuyên gia nước ngoài, Chính phủ Việt Nam nên tự
mình lựa chọn và trả lương cho chuyên gia chứ không nên dựa vào nguồn tài trợ của

các tổ chức quốc tế.
6
4. Kiểm soát đầu tư công
Theo các chuyên gia, đầu tư công kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân
gây ra lạm phát. Chính phủ đã phê duyệt một danh sách các dự án đầu tư công đầy
tham vọng từ nay cho tới 2015 với tổng số vốn ước tính lên tới 70 tỷ USD. Để đảm
bảo lượng vốn khổng lồ này được sử dụng hiệu quả, Chính phủ cần phân tích thật cẩn
thận những chương trình đầu tư công hiện tại, bao gồm cả những dự án đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước để từ đó xây dựng danh mục các dự án ưu tiên đầu tư căn cứ
theo tiêu thức hiệu quả kinh tế.
Đồng thời, cũng cần xây dựng các phương án dự phòng khi xảy ra tình huống
xấu để có thể đình chỉ hay cắt giảm ngay một số dự án khi điều kiện kinh tế vĩ mô trở
nên khó khăn. Bên cạnh đó, cũng cần kiểm soát chặt các dự án vay thương mại trên
thị trường tài chính quốc tế của các tập đoàn, DN nhà nước, hay dự án đầu tư công.
Thực hiện hoạt động thẩm định và kiểm toán đầu tư công độc lập, sau đó công khai
hóa các thông tin về thẩm định và kiểm toán này.
5. Giảm bong bóng bất động sản
Chính phủ cũng cần "xì hơi" bong bóng bất động sản từ từ để tránh sự đổ vỡ đột
ngột của thị trường, điều mà nếu xảy ra sẽ gây náo loạn khu vực tài chính với nguy
cơ tác động lan tỏa tới nền kinh tế thực (tức là hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng
hóa và dịch vụ). Theo các nhà kinh tế, cách tốt nhất để xì hơi bong bóng là đánh thuế
bất động sản. Bên cạnh đó, cần thắt chặt và kiểm soát sát sao các khoản tín dụng đầu
tư bất động sản và các khoản cho vay được thế chấp bằng bất động sản.
Một số vấn đề về xây dựng chính sách kinh tế của Việt Nam:
- Chính sách kinh tế cần có “tầm nhìn”
7
Những dự báo trái chiều về tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 vẫn tiếp
tục được đưa ra. Các chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng, muốn có được sự
phát triển bền vững hơn, Việt Nam cần chính sách phát triển có “tầm nhìn”.
- “Liều lượng” chính sách nên vừa phải

TS Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu, quản lý kinh tế
Trung ương (CIEM) cho rằng: “Một chính sách không nên thực hiện một lần,
nhưng cũng không nên lặp lại nhiều lần”. Đồng tình với quan điểm này,
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích, mỗi công cụ
chính sách chỉ giải quyết được một mục tiêu nên không nhất thiết phải kéo quá
dài. Mặt khác, sự thiếu cân bằng trong nền kinh tế cần đến sự can thiệp của
chính sách không mang tính bền vững mà là vấn đề thời điểm nên cần được
điều chỉnh phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét chi phí của mỗi phương án điều
chỉnh để không gây lãng phí.
Theo TS Nguyễn Đình Cung - Phó Viện trưởng CIEM, các chính sách
kinh tế của Việt Nam nên chú trọng vào các vấn đề vi mô, từ đó giúp cải thiện
các vấn đề vĩ mô. Cụ thể như việc bãi bỏ các chính sách bao cấp, trợ cấp, bảo
hộ, lấy những quy tắc chuẩn của thế giới để áp dụng vào Việt Nam. Những
thay đổi như vậy được kỳ vọng sẽ giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn, từ đó ổn
định các cân đối vĩ mô.
Cũng theo TS Nguyễn Đình Cung, Việt Nam không nên quay lại quản lý
nền kinh tế bằng các biện pháp hành chính, bởi như vậy khó theo kịp những
diễn biến của thị trường và gây lãng phí. Ông Cung ví dụ, trong vòng 4 năm, từ
2005-2008, Việt Nam đã ban hành 17.000 văn bản pháp lý liên quan đến điều
hành kinh tế, trong đó có 50% là công văn hướng dẫn thi hành. Số công văn
này bằng tổng số văn bản của 18 năm trước đó! Điều này thể hiện sự lạc hậu
của cơ chế so với sự phát triển của thị trường.
8
Tuy nhiên, theo nhận định của TS Võ Trí Thành và TS Nguyễn Đình
Cung, nhiều khả năng, Nhà nước sẽ dùng thêm các biện pháp hành chính để
quản lý nền kinh tế. Điều này sẽ đặt kinh tế nước ta vào “thế” khó hơn mà
nhãn tiền đã thấy, trong 2 năm qua, các biện pháp hành chính quản lý kinh tế
buộc Việt Nam phải đặt ra trần lãi suất, trần thâm hụt ngân sách… khiến các
mất cân đối có xu hướng tăng lên.
2. Nhà nước quản lý kinh tế bằng kế hoạch.

- Khái niệm: Kế hoạch là tập hợp các mục tiêu và các phương thức để đạt được
mục tiêu.
Do đó, lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải đạt được gì?
Phải làm như thế nào để đạt được? Làm bằng công cụ gì? Khi nào làm và ai làm?
Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán chính xác được tương lai và những yếu tố nằm
ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cảc những kế hoạch tốt nhất đã có. Nhưng nếu
không có kế hoạch thì các sự kiện sẽ diễn ra một cách ngẫu nhiên và sẽ mất đi khả
năng hành động một cách chủ động.
- Hệ thống kế hoạch của Nhà nước bao gồm những kế hoạch cơ bản như sau:
+ Chiến lược: là hệ thống đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa hệ thống
đạt đến những mục tiêu dài hạn.
+ Nội dung của chiến lược bao gồm:
1. Các đường lối tổng quát, các đường lối mà chủ trương mà hệ thống sẽ thực
hiện trong một khoảng thời gian đủ dài.
2. Các mục tiêu dài hạn cơ bản của hệ thống.
3. Các phương thức chủ yếu để đạt được mục tiêu.
9
+ Và, sau mỗi một giai đoạn chiến lược, hệ thống phải đạt tới một trình độ phát
triển vượt bậc với những mục tiêu đặc trưng cho trình độ này.
+ Quy hoạch: là tổng thể các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực để
thực hiện mục tiêu theo không gian và thời gian.
Khởi đầu bằng các quy hoạch phát triển đô thị, ngày nay rất nhiều loại hình quy
hoạch phát triển kinh tế đã được xây dựng nhằm đảmbảo sự phát triển nhanh chóng,
ổn định, có trật tự và hòa nhập với môi trường của nền kinh tế.
+ Kế hoạch trung hạn: (thường là kế hoạch 05 năm) để cụ thể hóa các mục
tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn là loại kế hoạch
rất quan trọng, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
+ Các chương trình mục tiêu: được xây dựng rất phổ biến nhằm xác định đồng
bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng

để thực hiện một ý đồ lớn, một mục đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương
trình thường gắn với ngân sách cần thiết.
+ Kế hoạch năm: là sự cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển kinh tế căn cứ vào định
hướng mục tiêu chiến lược vào kế hoạch trung hạn, kết quả nghiên cứu để điều chỉnh
các căn cứ xây dựng kế hoạch cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
+ Dự án: tổng thể các hoạt động, nguồn lực, các chi phí được bố trí chặt chẹ
theo thời gian và không gian nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể.
+ Ngân sách: là bảng tường trình các con số sự huy động và phân bổ các nguồn
lực cho các chương trình và dự án trong một giai đoạn nhất định.
- Đặc trưng của kế hoạch:
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện công tác kế hạch nhằm định hướng
kinh tế xã hội, lự chọn mô hình tăng trưởng, lựa chọn các mục tiêu chủ yếu, xây dựng
10
các chính sách kinh tế và cung cấp thường xuyên thông tin đã được xử lý nhằm định
hướng, điều tiết hoạt động của thị trường.
Quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch có tiền đè khách quan từ bản thân nền kinh
tế. tuy nhiên trong cơ chế thị trường tính chất của các kế hoạch nhà nước đã thay đổi
và mang những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Tính định hướng và tổng quát
+ Điều tiết gián tiếp thông qua hệ thống đòn bẩy và khuyến khích kinh tế
+ Hướng vào hiệu quả kinh tế.
+ Kết hợp kế hoạch kinh tế với kế hoạch xã hội.
3. Quan niệm về vai trò nhà nước, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế thấy rằng: một trong những nội dung
quan trọng mà các nhà kinh tế bàn đến là vai trò của nhân tố thị trường và nhân tố
Nhà nước trong điều hành quản lý nền kinh tế. Bởi lẽ, vấn đề nhà nước và thị trường
là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua,
không những ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm tòi mô hình
quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.

Đối với một nền kinh tế đặc thù như nước ta: nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước trong điều tiết, quản lý
nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. Chẳng hạn
như :
- Thứ nhất, Sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được
mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
11
- Thứ hai, Với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hóa được sử
dụng như là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được
tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng XHCN.
Ngày nay, kế hoạch hóa (KHH) được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ
các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được
những mục tiêu đã đề ra.
Bản chất, nội dung của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường (KTTT).
Quan niệm về Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN khác hẳn trong nền
kinh tế tập trung - bao cấp: nếu trước đây Nhà nước là cho phép và quyết định (theo
cơ chế xin - cho), thì ngày nay là Nhà nước tạo khung khổ pháp luật để mọi công dân
tự do kinh doanh theo pháp luật và hỗ trợ giúp đỡ, đồng thời giám sát để doanh
nghiệp và dân doanh hoạt động sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Kế hoạch hóa trong nền KTTT định hướng XHCN cũng khác với KHH trước
đây: nếu trước đây kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước, thì
bây giờ kế hoạch phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần
kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội v.v
Nhìn nhận kế hoạch hóa với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh
tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội thì
mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối
tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 6,
khóa VI khẳng định: "Trong nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, thị trường vừa là một

công cụ vừa là một đối tượng của kế hoạch hóa".
Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi
trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví
12
dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường
thiên nhiên v.v Vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định
hướng và kế hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Thứ ba, Thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà
nước, của ngành, của địa phương Vậy thì xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và
cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng
cao nhất ?
Nói tạo "một sân chơi bình đẳng" cho các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau, vậy Nhà nước điều khiển "sân chơi" đó như thế nào để vừa không
hạn chế sự thi thố tài năng của các chủ thể kinh doanh, lại vừa không làm chệch
hướng XHCN của nền kinh tế, đảm bảo sự thỏa đáng giữa tăng trưởng, phát triển
kinh tế với công bằng xã hội ?
Nhìn nhận kế hoạch hóa và thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ
mô của nhà nước, thì thực chất của vấn đề KHH và cơ chế thị trường được coi là sự
kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và điều khiển gián tiếp thông qua
cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt
động kinh tế trong xã hội.
4. Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng: Kế hoạch hóa là một trong
những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng
trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế
hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành
cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản
13

của quá trình đổi mới công tác kế hoạch. Bản chất, nội dung của kế hoạch hóa
hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang
tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo
đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản,
cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Trong cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Cơ chế đó đảm bảo tính
hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN
theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh
nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, nhà nước XHCN là nhân
tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ
chế thị trường (CCTT) là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò
"trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Trong nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
sự quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật
kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế,
luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế - xã hội và khả năng,
sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các
doanh nghiệp cho phù hợp.
Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực: nó là cơ
chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích
14
thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ
quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn
các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, CCTT kích

thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển Về mặt tiêu cực : trên thị trường
chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi
nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị hủy
hoại, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội
cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm,
tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn lậu thuế, làm
hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất, kinh doanh không làm
những ngành nghề ít lợi nhuận. Để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi Nhà nước
phải quản lý nền KTTT. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch định hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế
CCTT chịu sự tác động rất mạnh của các quy luật kinh tế thị trường, do đó sự can
thiệp vĩ mô của nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị
trường.
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải xử lý hài hòa 3 vấn
đề sau đây: Một là, giải quyết tốt vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, sao cho vừa
đảm bảo cho các chủ thể KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính
trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp những nguyên tắc
phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo
vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội Trong đó, nguyên tắc phân
phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi
nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp
người giàu và lớp người nghèo ; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao
thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
15
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được
phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà phải mang tính tổng
thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ
và công khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và
biện pháp không nên và không cần phải giữ bí mật. Nhà nước cần tăng cường khung
khổ pháp lý, hạn chế tối đa mọi can thiệp mang tính áp đặt, trực tiếp và chuyển sang

hình thức tác động gián tiếp và khuyến khích. Như vậy, những công cụ thường được
áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hóa trước kia phải được thay bằng những công
cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Liên quan chặt
chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc
xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất
cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng không gian (bao gồm
cả quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị) và quy hoạch phát triển ngành. Thời
gian qua, quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú
ý đúng mức, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí
cho cả Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá
mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong
điều kiện "tĩnh" và "đóng cửa", không tính được đầy đủ những biến động trên thị
trường thế giới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản
phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường
nếu không được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng
cường công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch những ngành
mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông ),
những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin
kinh tế, khoa học công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Cần nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch : Bản chất quy hoạch là cụ thể hóa chiến lược về mặt không gian
và thời gian. Quy hoạch lãnh thổ bám sát nguyên tắc phân cấp, việc xây dựng và thực
16
hiện quy hoạch của cấp nào thì dựa chủ yếu vào tiềm lực của cấp đó, chính quyền cấp
trên có trách nhiệm phối hợp điều hòa quy hoạch của chính quyền cấp dưới trực tiếp.
Quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch đô thị là nhiệm vụ quan trọng của Nhà
nước và các cấp chính quyền. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách
công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong
thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành
mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn
thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp

khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát
triển của các ngành khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc
vào biến động thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên
dừng ở mức độ định hướng, dự báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguồn ngân sách để
đầu tư cho các dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy chế công bố công khai các
quy hoạch để các thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực thực
hiện.
Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần
phân cấp quản lý nhà nước theo nguyên tắc "những hoạt động gắn liền với quyền lợi
người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực
hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những
việc mang tính liên vùng".
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo
kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao
trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. Kế hoạch phải căn cứ
vào hiện thực, phân tích quan hệ cung - cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường
(trong nước và quốc tế) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định mục tiêu. Việc xác
định các mục tiêu phải đi kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là
17
phải có sự "trả giá", có khi phải hạ thấp yêu cầu mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu
khác cao hơn.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ,
quá trình toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng trên toàn thế giới, sự liên kết giữa thị
trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng gắn bó, nền kinh tế tri thức và
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sức ép ngày càng cao đối với mọi quốc
gia, mọi doanh nghiệp. Việc nhận thức đầy đủ những vấn đề này sẽ buộc những nhà
hoạch định chính sách phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong bối cảnh chung,
trong môi trường "động" và "mở cửa". Không chấp nhận những thách thức này, chắc
chắn nền kinh tế sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, dẫn đến bất ổn định trong xã
hội.

Trên cơ sở đổi mới về xác định mục tiêu và công cụ, quá trình xây dựng nội
dung kế hoạch cần đổi mới theo hướng xác định các mục tiêu phải được làm cùng với
xác định biện pháp tương ứng, công cụ chính sách đầu tư ngày càng giảm và công cụ
chính sách khuyến khích ngày càng tăng nhằm phát huy hết tiềm năng của cả xã hội
(ví dụ: chính sách khuyến khích các hoạt động xã hội hóa ở các lĩnh vực giáo dục, y
tế, đã làm giảm đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước).
Việc xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược
thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược có thời hạn 10-15 năm nhưng được
điều chỉnh vào giữa kỳ; dự thảo chiến lược được công bố công khai và được các tầng
lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến. Mục tiêu
chiến lược không được mang tính chủ quan, duy ý chí, những mâu thuẫn giữa các
mục tiêu cần được phân tích và xử lý thông qua việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các
mục tiêu nhằm đưa ra những biện pháp cụ thể cho từng thời kỳ. Nội dung chiến lược
phải đảm bảo tính hệ thống, tính đồng bộ giữa các ngành, các vùng trong phát triển
kinh tế.
18
Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hóa
chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định hướng cho sự phát
triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát
triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để toàn bộ nền
kinh tế phát triển theo hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định
hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng.
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo
phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực
và quốc tế, của tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị
trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan
trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu
cần thiết.
Nội dung của kế hoạch 5 năm bao gồm một số chương trình trọng điểm của Nhà

nước và quan trọng hơn cả là một hệ thống cơ chế chính sách. Chính vì vậy, việc xây
dựng kế hoạch 5 năm cần được thực hiện theo một quy trình mới với sự phối hợp
chặt chẽ và phân công cụ thể giữa các cấp, giữa các bộ và có sự tham gia của các tầng
lớp và tổ chức trong xã hội.
Hệ thống kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế bao gồm kế hoạch cấp quận
huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia.
Hệ thống kế hoạch hàng năm ở tầng vĩ mô: Kế hoạch hàng năm vừa là bộ phận
vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội
5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm chủ yếu chỉ mang
nội dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một
phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hàng năm không nên đưa ra mục
tiêu mang tính tổng quát.
19
Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường
không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong
quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số
ngành then chốt, vì thế kế hoạch kinh tế quốc dân trong giai đoạn này vẫn có mối
quan hệ gắn bó với kế hoạch của những Tổng công ty chủ chốt ở những ngành này
(ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông ). Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng
thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự
ổn định cho nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc
tính toán trong xây dựng và điều hành kế hoạch. Do vậy, các ngân hàng thương mại
lớn và những Tổng công ty này cần phải định kỳ báo cáo về kế hoạch và tình hình
sản xuất kinh doanh của mình để Chính phủ có những thông tin cần thiết phục vụ cho
việc lập và điều hành kế hoạch. Điều hành kế hoạch cần dựa trên cơ sở thông tin báo
cáo và mô hình phân tích dự báo hàng quý. Phối hợp kết quả này với ý kiến chuyên
gia sẽ cho phép Nhà nước, các cấp xác định thời điểm, mức độ, phạm vi và cách thức
can thiệp một cách hợp lý vào nền kinh tế.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa ở địa phương và ở các ngành. Nội dung kế hoạch
của các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Kế

hoạch của các ngành, địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên
cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành, các địa phương
cần hỗ trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp
các thông tin, dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngành trong việc dự báo
tình hình thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh giá thực trạng
trong nước, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
20
Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hóa: Đổi
mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các loại thông tin báo
cáo cần thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo cáo; xác định hệ thống tổ
chức bộ máy thu thập và xử lý thông tin; khắc phục tình trạng "thương mại hóa"
thông tin một cách vô nguyên tắc, xác định rõ trách nhiệm cung cấp các loại thông tin
đối với những cơ quan có liên quan; thiết kế cụ thể các nguồn thông tin và địa chỉ cần
phân phối thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác kế hoạch hóa; xác định rõ ràng những
thông tin mật không công bố.
Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. Dự báo và phân
tích chính sách được thực hiện độc lập ở nhiều cơ quan; tập trung vào dự báo ngắn
hạn; xác định một số mô hình không phức tạp không cần có độ chính xác quá cao
nhưng phải kịp thời xử lý được những thông tin để phân tích giúp cho việc điều hành
một cách nhanh nhạy.
Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. Hoàn thiện bộ
máy kế hoạch ở Trung ương và địa phương, thực hiện chương trình đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản.
Công tác kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai trò của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, phát
huy vai trò của các Bộ và Tổng công ty theo một phương pháp luận thống nhất. Công
tác kế hoạch hóa cũng không chỉ được thực hiện bởi những người trong ngành Kế
hoạch, mà cần được sự chú ý và tham gia của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt

của những nhà doanh nghiệp, những nhà khoa học. Việc điều hành thực hiện kế
hoạch không phải là công việc riêng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc một Bộ nào
khác mà nó phải được thực hiện thông qua sự phối hợp một cách thống nhất và tương
hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng
Chính phủ.
21
Ðề: Đề tài 10: Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế
3. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật Nếu không có các nguyên
tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ cột thì thị trường không thể
hoạt động được. Với chức năng, nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, Nhà
nước là nhân tố sống còn trong việc đặt nền móng thể chế cho các thị trường.
Tại những nước đang phát triển, ưu tiên số một của Nhà nước là thiết lập
những nền tảng ban đầu của pháp luật trong điều kiện thị trường, đó là:
a. Bảo vệ đời sống và tài sản, chống lại những hành vi tội phạm.
b. Hạn chế các hành động độc đoán của các quan chức Nhà nước- kể từ
việc ban hành những điều tiết phi thể thức và những khoản thuế, phí không
lường trước được, đến tham nhũng, đó vốn là nhân tố làm rối loạn công việc
kinh doanh.
c. Xây dựng hệ thống tư pháp trung thực và có thể lường trước được.
Một khi đã có một nền tảng pháp luật phù hợp với sự phát triển kinh tế,
toàn diện và đầy đủ thì trọng tâm của vấn đề sẽ được chuyển sang những điều
tiết phức tạp hơn nhằm mở rộng thông tin và tăng cường hợp tác.
Phạm vi của pháp luật rất rộng lớn, từ việc cấp giấy phép kinh doanh đến
việc quản lý thị trường Tuy nhiên cải cách trong những lĩnh vực này sẽ chỉ có
kết quả ở những nơi có năng lực thể chế mạnh.
* Vai trò của pháp luật trong việc phát triển kinh tế một cách bền vững
1. “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.
Đây là định nghĩa do Ủy ban Liên hợp quốc về môi trường và phát triển đưa ra.

Về nội dung, phát triển bền vững được hiểu là một quá trình bao gồm không chỉ các
22
mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mà còn có cả các mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội
và bảo vệ môi trường sinh thái.
Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành qua một khoảng thời gian
tương đối dài, xuất phát từ yêu cầu giải quyết những vấn đề mà các quốc gia gặp phải
trong tiến trình phát triển của mình. Trước đây, trong quan niệm về phát triển của các
quốc gia công nghiệp, vấn đề tăng trưởng kinh tế được thể hiện chủ yếu qua chỉ tiêu
GDP luôn được coi trọng. Quan niệm này cũng được coi là kim chỉ nam tại các nước
công nghiệp mới và các nước đang phát triển trong những năm 50 và 60 của Thế kỷ,
trước khi các nước này bắt đầu bước vào công nghiệp hóa nhằm mục đích đuổi kịp
các nước phát triển.
Sau một thời gian, các hậu quả về mặt xã hội và môi trường bắt đầu xuất hiện.
Tại nhiều nước, nghèo đói và bất bình đẳng không những không giảm đi mà có xu
hướng tăng lên, dẫn đến các áp lực chính trị ngày càng lớn, nguy cơ xung đột, bất ổn
định xã hội ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó, các nghiên cứu về phát triển bắt
đầu nhấn mạnh tới yêu cầu phải phân phối thu nhập công bằng hơn và phải giảm
nghèo đói. Mục tiêu phát triển của các quốc gia cũng được điều chỉnh, các mục tiêu
tăng trưởng kinh tế đã được gắn liền với các mục tiêu về đảm bảo công bằng xã hội,
đặc biệt là giảm nghèo đói. Vào đầu những năm 80 – Thế kỷ 20, khi môi trường bị
hủy hoại với mức độ ngày càng nghiêm trọng và có nhiều dấu hiệu cho thấy sự xuống
cấp của môi trường gây ra những trở ngại cho quá trình tăng trưởng kinh tế, bảo vệ
môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của phát triển.
Như vậy, khái niệm phát triển bền vững giờ đây bao hàm ba bộ phận có quan hệ
tương hỗ với nhau, đó là: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường. Tính bền vững của từng bộ phận thể hiện ở những điểm sau:
• Tính bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng và sự phát triển lành mạnh
của nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được
23
sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, nhất là tình trạng nợ nần chồng chất mà

nhiều nước hiện nay đang mắc phải.
• Tính bền vững về xã hội thể hiện ở việc giảm đói nghèo, đảm bảo công bằng
xã hội, đảm bảo cho đại đa số người dân được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
được tiếp cận với giáo dục, duy trì sự ổn định về an ninh, nâng cao mức hưởng thụ
của người dân về văn hóa, tinh thần…
• Tính bên vững về môi trường thể hiện ở việc sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm môi trường,
từng bước cải thiện môi trường sinh thái…
2. Phát triển bền vững là con đường tất yếu của Việt Nam.
Phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao phúc lợi của con người cả về vật chất
lẫn tinh thần. Mục tiêu phát triển ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh” đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra. Chỉ có phát triển
bền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường,
trong đó phát triển kinh tế vẫn phải được coi là trọng tâm trong giai đoạn hiện nay,
mới có thể đạt được mục tiêu cao nhất này.
Trong phát triển kinh tế thì hệ thống pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng
to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việc
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn là
mối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổi mới
và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục
hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh
doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc
gia, trang 188).
24
Lĩnh vực pháp luật dân sự – kinh tế được Nhà nước đặc biệt quan tâm, cả
về số lượng văn bản cũng như nội dung thể hiện. Những sửa đổi cơ bản về chế
độ kinh tế trong Hiến pháp 1992, sự ra đời của Bộ luật Dân sự với 838 điều
cùng với các văn bản pháp luật quan trọng khác như Luật Doanh nghiệp nhà

nước, Luật Doanh nghiệp, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đất đai,
Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức
tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật lao động, Luật Hải quan, các luật
thuế, v.v… và việc ký kết một số điều ước quốc tế quan trọng đã tạo ra một
hành lang pháp lý cơ bản cho phát triển bền vững ở nước ta. Pháp luật về kinh
tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý
nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích mọi tổ
chức cá nhân đầu tư vào hoạt động kinh doanh, khẳng định nguyên tắc công
dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm (Luật Doanh nghiệp
năm 1999). Trong “phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế – xã
hội 5 năm 2001 – 2005” Đảng ta đã nhận định “nhiều đạo luật về kinh tế, xã
hội được ban hành đã thể chế, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” (Sách đã dẫn, trang 249).
Năm 2003 đánh dấu những chuyển biến lớn về việc cải thiện môi trường
pháp lý, tạo thuận lợi hơn nữa trong các hoạt động kinh doanh. Các luật quan
trọng được ban hành trong năm bao gồm Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Doanh
nghiệp Nhà nước (sửa đổi), Luật Hợp tác xã (sửa đổi), Luật Thuế giá trị gia
tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Sự
thông thoáng của Luật Doanh nghiệp đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng số
lượng doanh nghiệp mới thành lập thuộc khu vực tư nhân. Mỗi năm có hàng
25

×