Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao năng suất lúa chất lượng hàng hoá tại huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN MẠNH
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
NĂNG SUẤT LÚA CHẤT LƯỢNG
TẠI HUYỆN TRẤN YÊN TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60.62.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN
HÀ NỘI - 2008
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Mạnh
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân và tập
thể.
Trước hết, cho phép tôi được bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Nguyễn Thị Lan - Bộ môn hệ thống nông nghiệp, người đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn hệ thống
nông nghiệp - Khoa nông học - Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn của mình.


Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở
Khoa học công nghệ, Cục thống kê, Trung tâm khuyến nông tỉnh Yên Bái,
UBND huyến Trấn Yên, phòng nông nghiệp, phòng thống kê, Trạm khuyến
nông, cán bộ và nhân dân huyện Trấn Yên Tỉnh Yên Bái đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn của mình.
Trong suốt quá trình thực tập tôi luôn nhận được sự động viên khích lệ
của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong cơ quan đã tận tình giúp đỡ động
viên để tôi hoàn thành khóa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm cao quý đó.
Hà Nội: ngày tháng năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Mạnh
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
1. Mở đầu 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích yêu cầu 2
1.3. ý nghĩa của đề tài 3
1.4. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài 3
2. Tổng quan tài liệu 4
2.1. Một số cơ sở lý luận cơ bản sản xuất hàng hóa 4
2.2. Cơ sở thực tiễn. 25
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 36
3.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 36
3.2. Nội dung nghiên cứu 36

3.3. Phương pháp nghiên cứu 36
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 41
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 42
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 42
4.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện. 49
4.2. Thực trạng phát triển cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở
huyện Trấn Yên 54
4.2.1. Thực trạng phát triển ngành nông, lâm nghiệp của huyện 54
iv
4.2.2. Tình hình sản xuất lúa chất lượng trên địa bàn huyện Trấn Yên 62
4.3. Thị trường tiêu thụ lúa gạo của huyện Trấn Yên 70
4.4. Định hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển lúa hàng hóa
của huyện 77
4.4.1. Định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá huyện Trấn Yên năm 2010 – 2015 và đến năm 2020. 77
4.4.2. Đề xuất một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá ở huyện 78
4.5. Thử nghiệm một số giải pháp 82
4.5.1. Thử nghiệm so sánh một số giống lúa chất lượng 82
4.5.2. Thử nghiệm phân bón 87
4.6. Dự kiến sự phát triển lúa hàng hóa tại huyện Trấn Yên trong tương
lai 96
5. Kết luận và đề nghị 98
5.1. Kết luận 98
5.2. Kiến nghị 99
Tài liệu tham khảo 101
Phụ lục ảnh 105
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV

Bảo vệ thực vật
CCCT
Cơ cấu cây trồng
CL
Chất lượng
ĐVT
Đơn vị tính
Đ/c
đối chứng
Ha
Hecta
HTX
Hợp tác xã nông nghiệp
Kg
Kilogam
KHKTNN
Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp
LGTG
Lúa gạo thế giới
LHQ
Liên hợp quốc
LT
Lúa thường
NSLT
Năng suất lý thuyết
NSTT
Năng suất thực thu
NXB
NXB
vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo của các châu lục trên thế giới năm
2007 26
2.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở nước ta từ năm 2000 đến năm 2008 28
4.1. Diễn biến thời tiết khí hậu của huyện 43
4.2. Một số loại đất chính của huyện Trấn Yên 46
4.3. Tình hình sử dụng đất đai của huyện qua các năm 48
4.4. Một số chỉ tiêu về kinh tế của huyện năm 2008 50
4.5. Thực trạng cơ sở vật chất hạ tầng của huyện năm 2008 52
4.6. Tình hình dân số và lao động của huyện năm 2008 53
4.7. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế ngành nông nghiệp của huyện
năm 2008 55
4.8. Động thái chuyển dịch cơ cấu cây trồng qua các năm 57
4.9. Dự báo sản lượng một số cây trồng chủ yếu của huyện đến năm
2015 58
4.10. Tình hình sử dụng giống lúa năm 2008 của huyện Trấn Yên 63
4.11a. Tình hình sử dụng các loại phân bón của hộ nông dân qua các
năm trên địa bàn huyện Trấn Yên 65
4.11b. Tình hình sử dụng các loại phân bón đối với từng nhóm lúa của
hộ nông dân năm 2008 tại huyện Trấn Yên 66
4.12. Một số chỉ tiêu về chất lượng các loại gạo 69
4.13. Tình hình sản xuất và tiêu thụ thóc gạo của huyện 70
4.14. Hiệu quả kinh tế cây lúa của hộ nông dân năm 2008 71
4.15. Phân tích SWOT đối với sản xuất lúa hàng hóa của huyện 74
4.16. Giải pháp thị trường tiêu thụ sản phẩm 80
vii
4.17. Động thái tăng trưởng chiều cao cây lúa của các giống ở vụ

xuân 2008 83
4.18 . Quá trình đẻ nhánh của các giống lúa ở vụ xuân 2008 84
4.19. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống lúa ở
vụ xuân 2008 85
4.20. So sánh hiệu quả kinh tế của các giống thử nghiệm 86
4.21. Kết quả theo dõi mô hình thử nghiệm phân bón cho lúa ở vụ
xuân 2008 Error! Bookmark not defined.
4.22. Hạch toán hiệu quả kinh tế của mô hình thử nghiệm 95
4.23. Dự kiến phát triển diện tích trồng giống lúa hàng hóa tại huyện
Trấn Yên đến năm 2015 97
viii
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
Hình 4.1a Biểu thị biến thiên nhiệt độ và độ ẩm qua các tháng trong năm
của huyện Trấn Yên 44
Hình 4.1b Diễn biến giờ nắng và lượng mưa qua các tháng trong năm
của huyện Trấn Yên 44
Hình 4.2. Sơ đồ biểu thị các loại đất trồng lúa của huyện Trấn Yên 47
Hình 4.3. Sơ đồ biểu thị giá trị của các ngành kinh tế 50
của huyện Trấn Yên 50
Hình 4.4. Sơ đồ biểu thị giá trị kinh tế các ngành nông nghiệp của huyện
Trấn Yên 56
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trấn Yên là một huyện vùng thấp của tỉnh Yên Bái, có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Trong những năm qua
huyện đã có những bước chuyển mình đáng kể trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế

và phát triển các lĩnh vực xã hội khác. Về sản xuất nông nghiệp, toàn huyện đã
tập trung đổi mới mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, chất lượng giống. Đưa nhanh và
có hiệu quả những giống lúa mới có năng suất, chất lượng tốt vào sản xuất,
nền sản xuất nông nghiệp tăng nhanh và ổn định. Bình quân lương thực đầu
người đạt 360kg/người/năm, hàng năm có khoảng 40% lượng lương thực là
hàng hóa trong đó chủ yếu là lúa chất lượng. (Báo cáo tổng kết chương trình
lúa chất lượng cao huyện Trấn Yên, 2008). Kết quả này đã đóng góp phần
quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội của địa phương,
tạo việc làm tăng thu nhập và cải thiện điều kiện đời sống vật chất, tinh thần
cho phần lớn người dân. Tuy nhiên, hiện nay giá trị hàng hoá của cây lúa
chưa cao, do huyện có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất lúa hàng hoá
như: điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn và nguồn lực nhưng chưa được
khai thác triệt để.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Trấn Yên lần thứ XIV về phát triển
nông nghiệp “Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tạo bước
chuyển biến mạnh hơn trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn”, Theo báo cáo quy hoạch phát triển kinh tế của huyện giai đoạn 2009 –
2010; giai đoạn năm 2010 đến năm 2015 và đến năm 2020 như sau: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 13,6%, bình quân đầu người năm
2010 đạt khoảng 9,5 triệu đồng (tính theo giá trị hiện hành), tỷ trọng ngành
nông nghiệp đạt 40%, tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt: 28.084 tấn.
2
Để đạt được mục tiêu trên phương hướng phát triển kinh tế của huyện
trong thời gian tới là: Phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi
theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng sản phẩm, coi trọng giá trị kinh tế, khai
thác tốt tiềm năng đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật và thị trường, giữ vững an ninh
lương thực, tăng giá trị thu nhập trên 1 ha canh tác, bảo vệ môi trường sinh thái,
ứng dụng tốt các thành tựu khoa học – công nghệ mới vào sản xuất. Chuyển đổi
cơ cấu cây trồng ưu tiên các loại cây có giá trị kinh tế cao, mở rộng diện tích trồng
lúa chất lượng cao để hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cung cấp cho thị

trường trong và ngoài tỉnh (Báo cáo quy hoạch, 2010-2020) [22].
Căn cứ vào điều kiện về tự nhiên đất đai, khí hậu và điều kiện kinh tế
xã hội, phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp của huyện Trấn Yên,
chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao năng
suất lúa chất lượng hàng hoá tại huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái”.
1.2. Mục đích yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của sản xuất lúa chất lượng, đánh giá
những thuận lợi và khó khăn tác động đến hệ thống trồng trọt, sản xuất lúa chất
lượng của huyện. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng suất lúa chất
lượng góp phần phát triển một nền nông nghiệp bền vững theo hướng sản xuất
hàng hoá góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá điều kiện tự nhiên v kinh tế và - xã hội chi phối sản xuất
nông nghiệp tại địa phương.
- Đánh giá thực trạng sản xuất nông nghiệp, sản xuất lúa của huyện
Trấn Yên: Thuận lợi, khó khăn theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Định hướng chuyển dịch và xác định cơ cấu sản xuất lúa hàng hóa
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
3
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lúa chất lượng trên
địa bàn huyện.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống sản xuất lúa thích hợp theo hướng
hàng hoá tại huyện Trấn Yên, tạo cơ sở để mở rộng diện tích lúa chất lượng
trên địa bàn huyện.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ xung, hoàn thiện về hệ
thống cây trồng, đặc biệt là hệ thống sản xuất lúa hàng hoá.
* Ý nghĩa thực tiễn

- Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, phát
triển kinh tế - xã hội của huyện Trấn Yên – tỉnh Yên Bái.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng đặc biệt là cây lúa theo
hướng sản xuất hàng hoá.
1.4. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Điều kiện tự nhiên (đất đai, thời tiết, khí hậu ), kinh tế - xã hội , cơ
chế chính sách, thông tin thị trường, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và điều kiện sản
xuất lúa hàng hoá của nông hộ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc chuyển dịch
cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Trấn Yên.
- Thực trạng sản xuất nông nghiệp, sản xuất lúa và xu hướng chuyển
dịch cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá của huyện.
1.4.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ cấu cây trồng hiện có trong hệ thống
nông nghiệp của huyện. Nghiên cứu, định hướng quy hoạch, phát triển cây lúa
theo hướng hàng hoá trên địa bàn toàn huyện.
4
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Một số cơ sở lý luận cơ bản sản xuất hàng hóa
2.1.1. Cơ sở lý thuyết về hàng hóa
2.1.1.1. Khái niệm về hàng hóa
Hàng hóa là những thứ có thể thỏa mãn được mong muốn hay nhu cầu,
yêu cầu và được cung cấp cho thị trường nhằm mục đích thỏa mãn người tiêu
dùng.[42]
Philip Kotler nhận định: Hàng hóa là tất cả những cái gì có thể thỏa
mãn được mong muốn hay nhu cầu và được cung ứng cho thị trường nhằm
mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng.[42]
Theo ông mối quan hệ giữa nhu cầu cụ thể và hàng hóa được thể hiện
theo 3 cấp độ khác nhau.
- Nhu cầu cụ thể không được thỏa mãn

- Nhu cầu cụ thể được thỏa mãn một phần
- Nhu cầu cụ thể được thỏa mãn hoàn toàn (hay còn gọi là nhu cầu lý
tưởng)
Trong nền sản xuất hàng hóa, nhà sản xuất phải nghiên cứu nhu cầu của
người tiêu dùng là công việc cần thiết và trước hết, sau đó tạo ra những thứ
hàng hóa thích hợp để đáp ứng nhu cầu đó.
Hàng hóa ở đây được hiểu theo nghĩa rộng vừa mang tính chất định
hình vừa mang tính chất vô hình. Nó bao gồm cả dịch vụ, địa điểm, tổ chức,
các loại hình hoạt động và ý tưởng. Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào
5
đó của con người. Mỗi hàng hoá đều có một hay một số công dụng nhất định
có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người; hoặc là cho nhu cầu tiêu dùng
của cá nhân như lương thực, thực phẩm…hoặc là nhu cầu cho sản xuất như
thiết bị máy móc, nguyên vật liệu; là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần
[34]. Chính công dụng của vật phẩm làm nó trở thành một giá trị sử dụng hay
có một giá trị sử dụng. Bất cứ vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất
định. Nhờ sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ mà con người ngày
càng phát hiện được nhiều thuộc tính có ích của vật phẩm, nhưng việc phát
hiện, sử dụng những thuộc tính ấy lại tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
khoa học công nghệ. Giá trị sử dụng của hàng hoá không phải là giá trị sử
dụng nhằm để cho bản thân người sản xuất ra nó tiêu dùng, mà là giá trị sử
dụng cho người khác, tức là giá trị sử dụng của xã hội. Giá trị sử dụng chỉ
được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó. Khi chưa tiêu dùng, giá
trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng.
Giá trị của hàng hoá là hao phí lao động để tạo ra hàng hoá, kết tinh
trong hàng hoá, là cơ sở chung của sự trao đổi, giá trị hàng hoá là biểu hiện
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá (Học viện hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2000)[31]. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị.

Giá trị hàng hoá là nội dung, là cơ sở của sự trao đổi. Người sản xuất làm ra
hàng hoá để bán, nên mục đích của họ là giá trị chứ không phải là giá trị sử
dụng. Trong tay người sản xuất có giá trị sử dụng nhưng cái mà họ quan tâm
là giá trị hàng hoá. Người sản xuất chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để
đạt được mục đích giá trị. Ngược lại, người mua cần giá trị sử dụng, nhưng
muốn có giá trị sử dụng thì trước hết phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó,
tức là phải thực hiện được giá trị hàng hoá thì mới chi phối được giá trị sử
dụng. Như vậy, giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính cùng tồn tại chúng
thống nhất với nhau ở một hàng hoá.
6
2.1.1.2. Sản xuất hàng hoá
Nguyễn Đình Hợi (1995)[6], phát triển nông nghiệp hàng hóa phải gắn
liền với việc hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, thâm canh
ngày càng cao và phải gắn nông nghiệp với các ngành kinh tế khác.
Sản xuất hàng hoá vận hành theo cơ chế riêng có của nó, chịu sự tác
động của các quy luật chi phối, điều tiết sản xuất và trao đổi. Sản xuất hàng
hoá chỉ ra đời và tồn tại trong một số phương thức sản xuất - xã hội, gắn liền
với những điều kiện lịch sử nhất định. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hoá là phải có sự phân công lao động xã hội để hình thành chế độ đa sở
hữu về tư liệu sản xuất.
* Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hoá lao động, chuyên
môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người chỉ sản xuất
một thứ hoặc vài chi tiết của sản phẩm. Song, nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều
thứ khác. Để thoả mãn nhu cầu đó, cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với
nhau. Vì vậy, chính sự phân công lao động xã hội làm cho những người sản
xuất phải sống dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau, có mối quan hệ kinh tế lẫn
nhau [31]. Sự phân công lao động xã hội luôn vận động theo tính quy luật sau:
- Tỷ lệ và số tuyệt đối lao động nông nghiệp ngày càng giảm, còn tỷ lệ
và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày càng tăng.
- Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn so với lao

động giản đơn trong tổng số lực lượng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ cao hơn
tốc độ tăng lao động trong ngành sản xuất nông nghiệp.
* Hình thành chế độ đa sở hữu về tư liệu sản xuất: trong lịch sử ra đời
của sản xuất hàng hoá, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
7
quy định. Chế độ tư hữu xác định người sở hữu sản phẩm lao động. Chế độ tư
hữu làm họ độc lập với nhau, do đó họ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào
và hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá nhiều hay ít đều do họ quyết định.
Nhưng họ vẫn nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, do đó họ phụ
thuộc lẫn nhau cả về sản xuất lẫn tiêu dùng. Vì thế, muốn thoả mãn nhu cầu
của nhau thì cần phải trao đổi, mua bán sản phẩm trên thị trường [31].
Theo V.I.Lênin (1974) [16], sản xuất hàng hoá chính là cách tổ chức
kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể, riêng lẻ,
sản phẩm nhất định, thành thử muốn thoả mãn các nhu cầu của xã hội thì cần
phải có mua bán sản phẩm (vì vậy sản phẩm trở thành hàng hoá) trên thị trường.
Do có sự phân công lao động xã hội và sự tồn tại những hình thức sở
hữu khác nhau, cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu
thuẫn. Họ vừa độc lập với nhau, nhưng lại có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Giải quyết mối quan hệ mâu thuẫn này đòi hỏi tất yếu phải có quan hệ trao
đổi hàng hoá với nhau. Khi trao đổi trở thành tập quán là mục đích của sản
xuất thì kinh tế hàng hoá ra đời.
Những năm trước đây, nông nghiệp nước ta mang tính tự cấp tự túc nên
hàng năm vẫn phải nhập khẩu lương thực vì sản lượng lương thực không đủ
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn dân. Trong suốt thời gian dài, sản lượng
lương thực, thực phẩm của ta hầu như dậm chân tại chỗ, mà chi phí sản xuất
lại quá cao, hiệu quả kinh tế thấp, các nông trường quốc doanh năm nào cũng
“lãi giả lỗ thật”, nhà nước thường xuyên phải cung cấp ngân sách để bù vào.
Từ khi thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân sử dụng lâu dài, tình
hình sản xuất nông nghiệp đã có nhiều khởi sắc, sản lượng quy thóc không

ngừng tăng lên, đời sống của người dân ngày càng ổn định và bước đầu đã có
tích luỹ. Kinh tế học vi mô đã khẳng định: khi tồn tại nền kinh tế thị trường
thì cũng tồn tại nền sản xuất hàng hoá. Vậy sản xuất hàng hoá là gì: Đó là
8
việc sản xuất ra những sản phẩm với mục đích đem bán để thu về giá trị của
nó và có giá trị thặng dư để tái sản xuất mở rộng.
Nền kinh tế thị trường ra đời làm nảy sinh quy luật “cung- cầu” trên thị
trường và toàn xã hội, đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng cung là các
nông sản phẩm như lương thực, thực phẩm, nguyên liệu chế biến còn cầu của
nông dân là sản phẩm công nghiệp như hàng hoá tiêu dùng, vật tư nông
nghiệp. Chính vì thế, nông hộ muốn thoả mãn nhu cầu về hàng tiêu dùng như
tái sản xuất thì buộc họ phải có sản phẩm đem bán, hiệu quả của sản xuất
hàng hoá được đặt lên hàng đầu và sản xuất hàng hoá là một tất yếu.
Sản xuất hàng hoá nông nghiệp càng phát triển thì thu nhập của người
nông dân càng được nâng cao, thị trường nông sản lưu thông sẽ làm tăng giá
trị của các nông sản phẩm, từng bước đưa đời sống của người nông dân tiến
tới đời sống tốt hơn. Nếu nông nghiệp vẫn giữ lối sản xuất cũ thì khả năng
tích luỹ của nông dân hầu như không có, thu nhập của họ sẽ không vượt qua
nghèo khổ. Đối với quy mô sản xuất của hộ gia đình nếu không chuyên môn
hoá sản xuất mỗi loại một ít, nuôi nhiều loại vật nuôi thì kết quả cao nhất
cũng chỉ thoả mãn được nhu cầu của gia đình mà không có sản phẩm đem
trao đổi để thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần cũng như đề phòng tai nạn
rủi ro. Sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá là hướng đi đúng đắn giúp
người nông dân có thu nhập cao nhất.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về thị trường
Thị trường là một tập hợp những người mua hàng, bán hàng hiện có và
sẽ có.
Theo Philip Kotler (1997)[43], một nền kinh tế đơn giản gồm 4 thành
phần: một ngư dân, một thợ săn, một thợ gốm và một nông dân. Bốn thành
phần này tìm cách thỏa mãn nhu cầu của mình theo ba phương thức khác

9
nhau.
Một là: tự cung, tự cấp, trong đó mỗi người tự kiếm cho mình mọi thứ
cần thiết.
Hai là; Trao đổi phân tán, mỗi người đều coi ba người còn lại là những
khách hàng tiềm năng hợp thành thị trường của mình.
Ba là: Trao đổi tập trung, Tại đây xuất hiện một nhân vật trung gian cần
thiết gọi là “ nhà buôn”, tồn tại ở đâu đó liên quan trực tiếp với 4 người này,
tại nơi người ta gọi là chợ. Cả 4 người đều đem thứ mình có đến cho nhà buôn
rồi lấy thứ mà họ cần ở đó.
Như vậy sự hình thành nhà buôn và thị trường đã làm giảm thiểu số
thương vụ cần thiết, nói cách khác là đã làm tăng hiệu quả thương mại.
Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubingeld (Ngô Đình Giao, 1999)
[4], thì thị trường là tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại
lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi. Thị trường là trung tâm của các hoạt động
kinh tế.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua và
người bán, không có một cá nhân nào có ảnh hưởng đáng kể đến người mua
và người bán. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thường phổ biến một giá
duy nhất là giá thị trường. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là những
người bán khác nhau có thể đặt giá khác nhau cho cùng một loại sản phẩm,
khi đó giá thị trường được hiểu là giá bình quân phổ biến.
Thị trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng hợp lý. Theo
cơ chế thị trường thì cơ cấu cây trồng phải làm rõ được các vấn đề: trồng cây
gì?, đối tượng phục vụ là ai?. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường có
tác động định hướng cho người sản xuất nên trồng cây gì, với số lượng chi phí
10
như thế nào để đáp ứng được nhu cầu của xã hội và thu được kết quả cao. Thông
qua thị trường, người sản xuất điều chỉnh quy mô sản xuất, cải tiến cơ cấu cây
trồng, thay đổi giống cây trồng, cơ cấu mùa vụ cho phù hợp với thị trường.

Thị trường có tác dụng điều chỉnh cơ cấu cây trồng, chuyển dịch theo
hướng ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Cải tiến cơ cấu cây trồng chính là điều
kiện, là yêu cầu để mở rộng thị trường. Khu vực nông thôn là thị trường cung
cấp nông sản hàng hoá cho toàn xã hội và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của
ngành công nghiệp, cung cấp nông sản cho ngành dịch vụ và đó cũng là nơi
cung cấp lao động cho các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, thị
trường và sự cải tiến cơ cấu cây trồng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng, song nó có mặt hạn chế
là nếu để cho phát triển một cách tự phát sẽ dẫn đến sự mất cân đối ở một giai
đoạn, một thời điểm nào đó. Chính vì vậy cần có những chính sách của nhà
nước điều tiết kinh tế vĩ mô để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
của thị trường.
Kinh tế hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm
sản xuất ra dùng để mua bán, trao đổi trên thị trường, giá trị của sản phẩm
hàng hoá phải thông qua thị trường và được thị trường chấp nhận. (Tính theo
Hồ Gấm, 2003)[3].
Có thể sử dụng tỷ suất lợi nhuận MBCR (Marginal Benefit Cost Ratio)
để đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng.
MBCR
=
Tổng thu nhập CCCT mới - Tổng thu nhập CCCT cũ
Tổng chi phí CCCT mới - Tổng chi phí CCCT cũ
Khi MBCR > 2 thì cơ cấu cây trồng có hiệu quả kinh tế (Phạm Chí Thành,
1996)[21].
11
Thông tin thị trường không chỉ giúp nông dân ra quyết định có lợi trong
thời hạn ngắn và khi nào, ở đâu để sản xuất phục vụ thị trường cũng như giá
cả mà họ mong đợi có được. Thông tin thị trường cũng có những chức năng
quan trọng khác, giúp nông dân quyết định sản xuất cái gì. Từ đó giúp người
nông dân biết được những xu hướng, cơ hội thị trường và họ có cơ hội thành

công hơn những người khác.
Trong thực tế, thông tin thị trường giữ một vai trò quan trọng trong tất
cả các thị trường bằng việc quy định quá trình cạnh tranh thị trường, giúp các
người nông dân sản xuất những nông sản đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, rút ngắn các kênh thị trường, giảm bớt chi phí vận chuyển, đảm bảo
các giao dịch thị trường một cách công bằng. Tất cả những người tham gia
trong giao dịch đó đều phải chia sẻ rủi ro và lợi nhuận.
2.1.3. Đặc điểm về phát triển sản xuất nông nghiệp theo hàng hóa
Sản xuất nông nghiệp đã trở thành một ngành sản xuất chính trong nền
kinh tế Việt Nam. Vì vậy, để phát triển sản xuất lúa theo hướng hàng hoá cần
phải nắm được một số đặc điểm cơ bản sau:
Sản xuất lúa nước ta hiện nay tiến hành trong điều kiện thời tiết khó
khăn phức tạp, vì vậy để phát triển theo hướng hàng hoá các địa phương, các
hộ gia đình phải theo dõi, nắm vững sự biến động của điều kiện tự nhiên để
chủ động tránh những biến động xấu và tranh thủ tận dụng những biến đổi
theo chiều hướng tốt một cách kịp thời đảm bảo tăng năng suất, chất lượng,
hạn chế chi phí cho sản xuất đến mức tối thiểu nhằm tăng thu nhập cho hộ
nông dân. Các giống lúa hiện nay chúng ta đang sản xuất có đặc tính sinh lý
khác nhau, chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết. Do đó, việc lựa chọn giống lúa
phù hợp điều kiện tự nhiên thích nghi với sự biến động thời tiết là hết sức cần
thiết.( Nguyễn Văn Ngưu, 2007)[15].
12
Sản xuất nông nghiệp rất phong phú và đa dạng, do vậy nông hộ phải
lựa chọn giống sao cho phù hợp khả năng đầu tư của mình, phù hợp với nhu
cầu thị trường nhằm tăng tỷ trọng nông sản hàng hoá, từ đó tăng thu nhập cho
hộ nông dân. Vì vậy, để sản phẩm đưa ra thị trường vẫn đảm bảo chất lượng
đòi hỏi các hộ cần đầu tư hợp lý trong các khâu của quá trình sản xuất.
Theo TS Phạm Văn Tiêm (2005)[20], khi thị trường lương thực được thông suốt,
lương thực được điều tiết theo quy luật cung cầu trên thị trường cảnước, vận chuyển lương
thực từ vùng dư thừa sang vùng thiếu được tự do, ngoài các thành phần kinh tế tự vận

chuyển, nhà nước cũng đã tổ chức lưu thông với khối lượng lớn trong những năm 1989 –
1991 so với các năm 1976–1980. Cũng chính các chính sách của Nhà nước từkhi đổi mới
đến nay cũng đã có tác dụng tích cực, to lớn thúc đẩy sản xuất lương thực phát triển nhanh,
liên tục, đạt mức tăng đáng kể, hàng nông sản được tựdo lưu thông theo cơ chế thịtrường,
mởrộng và tăng cường xuất khẩu kích thích sản xuất lương thực phát triển ngày càng hiệu
quả.
Theo Dương Ngọc Trí (2007)[29], Việt Nam tham gia hội nhập là đã tác động rất
lớn đến mở rộng thương mại hàng hóa nói chung và thương mại nôngsản nói riêng với xu
hướng “ càng chủđộng hội nhập, Việt Nam càng mởrộng thương mại và đưa lợi ích kinh tế
ngày càng cao”
Trong hơn thập kỷ qua, nông nghiệp nước ta đã phát triển với tốc độ
cao, đã hình thành nhiều vùng chuyên canh, sản xuất dư thừa nhiều loại nông
sản phẩm, không những đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước về lương thực,
thực phẩm mà còn tham gia xuất khẩu, đứng vị trí cao trên thế giới. Năm
2005 kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản đạt 5.977 triệu USD chiếm 18,44%
kim ngạch xuất khẩu cả nước, (Trần Văn Đạt, 2007 )[2]. Đây là tỷ lệ rất cao
so với các nước khác, và càng có ý nghĩa khi nông nghiệp nước ta ở trình độ
còn thấp, xuất khẩu sản phẩm thô là chính. Trong tương lai khi ngành chế
13
biến nông sản phát triển thì tỷ lệ này chắc chắn còn cao hơn nữa.
Tuy nhiên, hiện nay nông sản hàng hoá chất lượng cao của ta chưa nhiều, sản phẩm
xuất khẩu chủyếuởdạng thô, giá trịthấp, tính cạnh tranh nông sản hàng hoá trong khu vực
và trên thịtrường thế giới còn yếu, thị trường nông sản tổ chức chưa chặt chẽ, tính ổn định
không cao. Cơ sở thương mại phục vụ tiêu thụ còn hạn chế, các hệ thống kênh thị trường
hoạt động còn chưa thông suốt, hiệu quả thương mại còn khiêm tốn, cũng như còn có sự
mất cân đối trong phân phối hiệu quả, lợi nhuận giữa các thành phần tham gia thị trường
trong từng loại nông-lâm sản trong từng thịtrường khu vực, đó là những thách thức lớn đối
với quản lý nhà nước trong tiêu thụnông sản hàng hóa trong thời gian tới.
Giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta đang tiếp cận dần với giá bình quân thế
giới, song đểbán sản phẩm với giá bằng hoặc cao hơn giá thếgiới cần nghĩ tới cải tiến chất

lượng thích ứng với thị trường, đa dạng hóa sản phẩm. Bên cạnh đó, cần hạ chi phí sản
phẩm xuống mức thấp nhất, có như vậy lợi nhuận từ xuất khẩu mới là nguồn thu ngoại tệ
lớn sẽ là nguồn đầu tư quan trọng cho phát triển công nghiệp trong tương lai. Hơn nữa, thị
trường nông nghiệp nội địa mới hình thành, nông nghiệp xuất khẩu đang gặp sựcạnh tranh
khốc liệt trong điều kiện nước ta mới gia nhập WTO, vì vậy trong năm tới, những chính
sách liên quan đến thịtrường nông sản, đòi hỏi phải có sựnhìn tổng thể và định hướng phát
triển cụ thể trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị
trường từng bước tham gia tựdo hoá thương mại.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, nhiệm vụ của nông nghiệp trong những năm
tới phải đảm bảo 2 yêu cầu lớn là:
Một là: Tiếp tục đẩy nhanh tốc độtăng trưởng của sản xuất nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống nhân dân được cải thiện thêm một bước,
có đủnguyên liệu cho công nghiệp chếbiến, kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn.
Hai là: Đồng thời phải góp phần giải quyết yêu cầu về công bằng xã hội trong nông
thôn, trong đó những vấn đề đòi hỏi giải quyết bức bách trong quá trình thực hiện cơ chế
14
quản lý kinh tế[43].
2.1.4. Cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sản
xuất hàng hóa.
Để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt ngày càng tăng của con người đòi hỏi
ngành nông nghiệp phải sản xuất ra ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá, đồng thời tạo ra cơ
sở hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển. Với những
thành tựu của khoa học nông nghiệp, các hộ nông dân, các cơ sở sản xuất đã
tập trung sản xuất những cây trồng có khả năng thích nghi cao với điều kiện
sinh thái, có lợi thế hơn các vùng khác trên thị trường, hình thành hệ thống
cây trồng ngày càng có hiệu quả kinh tế cao. Nhiều vùng sinh thái nông
nghiệp có những nguồn tài nguyên tiềm ẩn to lớn, dưới ánh sáng của khoa học
kỹ thuật, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng hình thành nên những
vùng chuyên canh tập trung mang tính hàng hoá cao, đem lại hiệu quả kinh tế

trong sản xuất nông nghiệp. Sử dụng một cách hợp lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, kinh tế xã hội, gắn lợi ích trước mắt với hiệu quả lâu dài, bền
vững, gắn lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường và cải tạo môi trường sinh
thái (Nguyễn Duy Tính, 1995)[23], (Đào Thế Tuấn, 1997)[25]. Việc xây dựng
cơ cấu cây trồng mới phải góp phần hình thành nền nông nghiệp bền vững.
Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp đòi hỏi sự quản lý thành
công các nguồn tài nguyên nông nghiệp, để thỏa mãn nhu cầu đang thay đổi
của con người trong khi vẫn duy trì hay tăng cường cơ sở tài nguyên thiên
nhiên và tránh được sự suy thoái môi trường.(Lưu Đức Hải,2001)[5].
Theo FAO (1980)[38], thì Phát triển bền vững là sự quản lý bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, định hướng sự thay đổi về nông nghiệp và tổ chức sao
cho đạt tới và thỏa mãn nhu cầu của con người ở hiện tại cũng như tương lai.
15
Sự phát triển bền vững đó có thể là bảo vệ đất nước, bảo tồn các tài nguyên
thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường.
Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng nhiều khi có
tính quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Khái niệm về phát triển
nông nghiệp bền vững trong sự phát triển của xã hội loài người mới chỉ hình
thành rõ nét trong những năm 1990 qua các hội thảo và xuất bản [22]. Điều cơ
bản nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc
sống trong sự tiếp cận đúng đắn về môi trường để giữ gìn những tài nguyên
cơ bản nhất cho thế hệ sau.
Theo FAO (1989)[39], thì nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý có
hiệu quả tài nguyên cho nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con
người; đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên, môi trường và
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Còn theo Bộ Nông nghiệp Canada thì hệ thống nông nghiệp bền vững
là hệ thống có hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội về an ninh lương
thực; đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi
trường sống cho đời sau[38]. Các định nghĩa có thể có nhiều cách biểu thị

khác nhau, song về nội dung thường bao gồm 3 thành phần cơ bản sau:
- Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ
thống nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường.
- Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong
mối quan hệ con người cho cả đời sau.
- Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Theo định nghĩa của Piere Croson [39] thì một hệ thống nông nghiệp
bền vững phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về ăn và mặc thích hợp
có hiệu quả kinh tế, môi trường, xã hội gắn với việc tăng phúc lợi trên đầu
người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng cần đưa vào định nghĩa vì
sản lượng nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những thập kỷ
16
tới. Phúc lợi cho mọi người vì phúc lợi của đa số dân trên toàn thế giới còn
rất thấp.
Trong tất cả các định nghĩa, điều quan trọng nhất là phải biết sử dụng
hợp lý tài nguyên đất đai, giữ vững, cải thiện tài nguyên môi trường, có hiệu
quả kinh tế, năng suất cao và ổn định, tăng cường chất lượng cuộc sống, bình
đẳng giữa các thế hệ, hạn chế rủi ro.
Nông nghiệp bền vững đạt được là nhờ 3 yếu tố: quản lý đất bền vững,
công nghệ được cải tiến và hiệu suất kinh tế được nâng cao. Quản lý đất bền
vững chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong nông nghiệp bền vững.
Mục tiêu của quản lý đất bền vững là “Điều hoà các mục tiêu và tạo cơ
hội cho việc đạt được kết quả về môi trường, kinh tế, xã hội vì lợi ích của
không chỉ các thế hệ hiện nay mà còn cho các thế hệ trong tương lai” trong
khi vẫn duy trì và nâng cao chất lượng của tài nguyên đất (Nguyễn Văn Lạng,
2002)[11].
2.1.5. Phương pháp luận trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng
theo hướng sản xuất hàng hóa
Trong thế giới tự nhiên cũng như trong xã hội loài người mọi hoạt động
đều diễn ra bởi các hợp phần (components) có những mối liên hệ, tương tác

hữu cơ với nhau được gọi là tính hệ thống. Vì vậy, muốn nghiên cứu một sự
vật, hiện tượng, hoạt động nào đó chúng ta phải coi lý thuyết hệ thống là cơ
sở của phương pháp luận và tính hệ thống là đặc trưng, bản chất của chúng
(Đào Châu Thu, 2003)[24].
Lý thuyết hệ thống đã được nhiều người nghiên cứu và được áp dụng
ngày càng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải
thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống đã được
L.Vonbertanlanty đề xướng vào đầu thế kỷ XX, đã được sử dụng như một cơ

×